Sưu tập các bài viết của AlexPhong

Một bài viết mình chép lại các kinh nghiệm của anh AlexPhong trên các diễn đàn.

Kình Đà hiệp Kỵ

1. Tử vi dùng vòng địa chi làm tiêu chuẩn đánh giá các sao khác. Trong đó cơ sở nền tảng là địa bàn gồm 12 cung cố định. Tiếp đến là vòng Thái Tuế và tất cả các sao hàng chi đại diện cho địa chi của năm sinh. Tiếp đến là vòng Lộc Tồn và vòng Trường Sinh. Đến đây coi như bức tranh đã vé xong cái nền. Trên cái nền đó, chính là hoàn cảnh của lá số, các tinh đẩu còn lại như 14 chính tinh, lục cát tinh, lục sát tinh và tứ hóa thao diễn thất tình lục dục của cuộc đời.

Vậy giữa địa chi và thiên can thì dùng cái nào để đánh giá cái nào. Nói cách khác dùng cái nào làm nền cho cái nào. Xin thưa đó là dùng địa chi làm nền cho thiên can, như hệ tọa độ cho các điểm thiên can. Hỏi vì sao, thì đó là tiên đề, đó là quy ước khi lựa chọn 12 cung địa bàn.

Cho nên, vòng Thái Tuế là cơ sở đánh giá tất cả các sao còn lại. Tác giả Thiên Lương vô tình khám phá ra điều này. Tại sao không dùng vòng Lộc Tồn thì đơn giản vì Lộc Tồn theo can, an còn không đủ kín 12 cung thì làm sao dùng làm nền.

2. Có nhiều cách phân loại vòng Lộc Tồn, ông Thiên Lương phân loại theo Thái Tuế, Lộc Tồn Tuế Hổ Phù, Lộc Tồn không Tuế Hổ Phù. Cách phân loại này vô tình trùng hợp một phần cách phân loại của sách cổ. Đó là phân loại theo âm dương. Chỉ có hai loại Lộc Tồn: đó là thuận âm dương hay nghịch âm dương. Với vòng Thái Tuế thì đương nhiên Lộc Tồn phải thuận âm dương mới gặp được Thái Tuế.

Lộc Tồn thuận âm dương là Lộc Tồn của những năm Giáp Ất Canh Tân. Khi Lộc Tồn tuổi dương an cung dương, Lộc Tồn tuổi âm an can âm. Chỉ có Lộc Tồn của 4 tuổi này đi kèm Tuế Hổ Phù hoặc Long Phượng Hổ Cái. Cho thấy phép dùng địa chi để đánh giá thiên can, sơ qua cũng có thể thấy Lộc Tồn 4 tuổi này ưu việt hơn 6 tuổi còn lại.

Lộc Tồn nghịch âm dương là Lộc Tồn của những năm Bính Mậu Nhâm Đinh Kỷ Quý. Khi Lộc Tồn tuổi dương an cung âm, và Lộc Tồn tuổi âm an cung dương.

Vì sao dám nói, người xưa phân loại Lộc Tồn theo cách này. Vì có dấu vết. Dấu vết rất rõ nhưng con cháu không mấy kẻ lần ra. Đố là biểu hiện của song Hao. Trục song Hao vuông góc với trục Lộc Tồn Phi Liêm. Nói cách khác, khi Lộc Tồn cực mạnh thì song Hao phải cực tiểu và ngược lại. Cho nên khi Lộc Tồn trái vị âm dương thì song Hao miếu địa.

Khi Lộc Tồn trái vị âm dương ở tý ngọ tị hợi. Thì song Hao miếu địa ở dần thân mão dậu. Qua đó, hiểu ý tiền nhân rằng Lộc Tồn trái vị âm dương là Lộc Tồn hãm địa. Qua đó, hiểu ý tiền nhân dùng lý âm dương để định vị miếu hãm chứ không phải lý ngũ hành. Hỏi sao khi áp ngũ hành vào lý giải lúc trúng lúc trật. Vì ngũ hành là sản phẩm không hoàn hảo của âm dương. Vì không hoàn hảo nên mới chuyển động (hành). Nhưng cũng vì không hoàn hảo nên mới có sai số. Như một ván cờ ban đầu hai bên cân bằng âm dương. Sau vì một bên đi trước tạo chênh lệch âm dương mà tạo thành cục diện tranh đoạt đồ sát về sau.

Tuổi Bính Mậu Nhâm, Lộc Tồn can dương đóng âm vị, dương lạc vị thì âm đắc vị cho nên Đà La miếu địa ở thìn tuất.

Tuổi Đinh Kỷ Quý, Lộc Tồn can âm đóng dương vị, âm lạc vị thì dương đắc vị cho nên Kình Dương miếu địa ở sửu mùi.

3. Xét qua tứ hóa, tứ hóa là sản phẩm diễn hóa của thập can. Nói cách khác chúng là 4 đứa con lưu lạc của Lộc Tồn. Lộc Tồn không cư tứ mộ thì tứ mộ đối với tứ hóa mà nói cũng không hề ủng hộ nhau chút nào. Cho nên khi Hóa Kỵ cư tứ mộ được coi là đắc địa vì bản chất Hóa Kỵ là xấu. Cái xấu không tung hoành được ở mộ địa có nghĩa là tốt. Ta tự hiểu cho các trường hợp Lộc Quyền Khoa đóng ở tứ mộ cũng coi như bị hạn chế tác dụng.

Xét một câu phú liên quan: Kình Đà hiệp Kỵ vi bại cuộc. Tức Kình Đà giáp hai bên cung có Hóa Kỵ thì rất xấu. Ta là người nay, ta hiểu tính đỏng đảnh của người xưa. Những câu phú người xưa để lại lúc ứng lúc không, vì họ chưa nói hết. Tùy điều kiện mà phân ra ứng hay không. Ở đây ta tìm thử xem Kình Đà hiệp Kỵ khi nào xấu khi nào không, thì coi như hiểu câu phú này. Nôm na là Lộc Tồn đồng cung Hóa Kỵ.

Tại những vị trí Lộc Tồn đúng vị âm dương:

Với Lộc tại dần, can Giáp, Nhật kỵ. Ta thấy Cự Nhật miếu vượng.

Với Lộc tại mão, can Ất, Nguyệt kỵ. Ta thấy Nguyệt hãm.

Với Lộc tại thân, can Canh Đồng kỵ. Ta thấy Đồng Lương miếu địa.

Với Lộc tại dậu, can Tân Xương kỵ. Tại dậu Xương hãm địa.

Tại những vị trí Lộc Tồn trái vị âm dương:

Với Lộc tại tỵ, can Bính, Liêm kỵ. Liêm Tham tại tỵ cực hãm. Trường hợp này có Triệt án ngữ.

Với Lộc tại tỵ, can Mậu, Cơ kỵ. Cơ tại tỵ đắc địa.

Với Lộc tại hợi, can Nhâm, Vũ kỵ. Vũ Phá tại hợi cực hãm.

Với Lộc tại tý, can Quý, Tham kỵ. Tham Lang cư tý hãm địa. Trường hợp này có Triệt án ngữ.

Với Lộc tại ngọ, can Đinh, Cự Kỵ. Cự Môn ở ngọ không được coi là miếu, vì cần tuần triệt mới đập đá lộ ngọc. Ngọc mà ở trong đá đương nhiên ngọc hãm địa.

Với Lộc tại ngọ can Kỷ. Văn Khúc hóa Kỵ. Tại ngọ Văn Khúc hãm địa.

Khi Lộc Tồn chính vị âm dương. Lộc Tồn ngộ Kỵ trong những trường hợp chính tinh miếu vượng, không có Triệt Tuần án ngữ. Trong khi Lộc Tồn trái vị âm dương khi Hóa Kỵ xâm nhập, thường những trường hợp đó chính tinh hãm địa. Chỉ có trường hợp của Thiên Cơ nhìn mặt Thái Âm miếu địa ở hợi mà đắc địa.

Cho nên có khả năng Kình Đà hiệp Kỵ là cách chơi chữ của tiền nhân khi nói về các diễn hóa âm dương phía trên. Mà ta chỉ cần hiểu đơn giản nó chỉ xấu khi chính tinh đi cùng hãm địa, hoặc nó chỉ xấu với 6 can Bính Mậu Nhâm Đinh Kỷ Quý khi Lộc Tồn trái vị âm dương. Qua đây, cũng thấy rằng chính tinh hãm địa hóa Kỵ bị coi là xấu không cửa bật. Chính tinh hãm địa hóa Lộc Quyền được khen tốt trong nhiều câu phú, ở đây không nhắc lại nữa. Vậy phải chăng chính tinh miếu vượng cát hóa vẫn tốt hơn chính tinh hãm địa cát hóa?

4. Nhân đây ta xét tương quan Triệt với chính tinh cực hãm:

Xét trục tỵ hợi. Trục tỵ hợi là trục rất khốc liệt. Biểu hiện của nó là Không Kiếp đại ma đầu miếu địa, đương nhiên ta phải ngầm hiểu sự khó chịu của các chính tinh, nhất là những cát chính tinh khi đến đây. Tại đây vua tử vi phải ôm kiếm ra trận. Tại đây trinh nữ Liêm Trinh gặp dê xồm Tham Lang. Tại đây thương gia Vũ Khúc gặp tướng cướp Phá Quân. Tất cả những chính tinh dương như Tử Phủ Vũ Tướng Sát Phá Liêm Tham đến đây đều gặp khó. Đám văn nhân Cự Cơ Đồng Lương thì phập phù nhưng đỡ khổ hơn vì tính mềm, đến nơi ma giáo lên ngôi cũng đỡ khổ hơn mấy anh cứng đầu. Đến Thái Dương cũng cực hãm ở hợi và tuy vượng ở tỵ thì gặp cảnh đắc thời nhưng trái vị. Thái Âm đối với trục tị hợi thì đỡ hơn vì dù sao ít nhất cũng đắc vị, còn tùy thời, tại hợi thì lưỡng toàn kỳ mĩ, tại tị thì hãm địa nhưng đắc thời.

Xét Vũ Phá. Vũ Phá ở hợi thì không gặp Triệt. Vũ Phá ở tị gặp Triệt với hai can Bính Tân. Bính Đồng Cơ hóa Lộc Quyền, Bính ngó lơ không cứu Vũ Phá. Tân Cự Nhật hóa Lộc Quyền, Tân cũng ngó lơ không cứu Vũ Phá. Trong trường hợp này Vũ Phá có Lộc Tồn đồng cung hoặc tam hợp. Ta biết cũng chẳng đến đâu, mà còn gieo rắc sự ngờ vực liệu Phá Quân có phá Lộc Tồn. Kỳ thực, chẳng phải vậy mà do nhiều yếu tố cộng hưởng lại.

Xét Liêm Tham ở tỵ. Tuổi Bính Liêm Trinh hóa Kỵ. Ta biết Triệt cũng không cứu Liêm Tham trong trường hợp này. Tuổi Mậu Tham Lang hóa Lộc. Ta biết Triệt có cứu Liêm Tham trong trường hợp này, Liêm Tham có song Lộc.

Xét Liêm Phá cư dậu cực hãm. Tuổi giáp có Triệt. Liêm hóa Lộc Phá hóa Quyền Vũ Hóa Khoa chiếu về. Ta biết Triệt cứu Liêm Phá trong trường hợp này. Nhưng tuổi Kỷ Vũ hóa Lộc Tham hóa Quyền, ta biết Triệt có cứu nhưng kém ưu ái hơn so với trường hợp của Giáp.

Xét Liêm Phá cư mão tuổi Đinh. Nguyệt Đồng hóa Lộc Quyền. Triệt ngó lơ Liêm Phá. Tuổi Nhâm Lương Lộc Tử Vi hóa Quyền, Vũ Khúc hóa Kỵ. Như vậy có Quyền Kỵ chiếu về. Trường hợp này Triệt có cất nhắc Liêm Phá hơn trường hợp tuổi Đinh. Như vậy, Liêm Phá thích Giáp Nhâm hơn Kỷ Đinh. Cũng là cái lý dương tìm dương.

Xét Đồng Cự cực hãm sửu mùi. Tại sửu gặp Triệt của Mậu Quý. Tuổi Mậu Tham hóa Lộc, Nguyệt hóa Quyền tại hợi. Ta biết Triệt của Mậu không cứu. Tuổi Quý Phá hóa Lộc Cự hóa Quyền có Kình Dương đồng cung. Ta biết tuổi quý có cứu. Tuổi Bính Đồng gặp Triệt ở Tuất hóa Lộc. Ta nói Đồng được Triệt cứu trong trường hợp này. Tuổi Mậu có Thái Âm hóa Quyền từ cung thân chiếu về. Có cứu nhưng kém tuổi Bính.

Như vậy, Triệt có lúc cứu có lúc không cứu chính tinh hãm địa. Cho thấy nói Triệt cứu chính tinh hãm địa chẳng phải hoàn toàn.

Bí ẩn nhân quả của vòng Thái Tuế

Bí ẩn nhân quả của vòng Thái Tuế, giữ đã lâu giờ chia sẻ với quý độc giả. Cho thấy cái hiểu về vòng Thái Tuế của những người tưởng là hiểu, xưng danh môn nọ kia kỳ thực mới chỉ là da thịt mà thôi.

Nhân (Thiên Không)-Quả (Quả Tú). Nhân quả bất khả đồng cung.

Có ba loại Phượng Các ở địa bàn, đó là:

1. Mã Phượng

2. Hổ Phượng

3. Long Phượng

Hàm ý mỗi con tung cánh một thời. Cũng hàm ý có 3 kiểu bay: bay như ngựa, bay như rồng, bay như hổ.

Có ba loại Thái Tuế ở địa bàn, đó là:

1. Thái Tuế Hoa Cái: vua ngồi dưới lọng rồi nhận Quả Phúc. Sao Hoa Cái mang nghĩa tu hành đầy ẩn ý.

2. Thái Tuế Khốc Hư: vua thở dài rồi nhận Quả Điếu cay đắng.

3. Thái Tuế Mã Phượng: vua rong chơi rồi nhận Quả Hồng gió bụi nhưng đó là sự thành công ở cõi trần.

Chớ tưởng vua nào cũng như vua nào mà ngộ nhận Thái Tuế là toàn tốt đẹp. Cảnh nhà địa chi không vui vẻ như bề ngoài ngó vào mà thấy.

Có ba loại Thiên Mã ở địa bàn, đó là:

1. Mã Tang Hổ: ngựa chở xác, khi vua khóc và Đào Hồng Hỷ gặp nhau vui say, để rồi nhận được Quả Điếu.

2. Mã Khốc Khách: ngựa vượt khó, hướng tới cái Quả Phúc

3. Mã Phượng Tuế: ngựa bay chở vua, dẫn tới Quả Hồng thành đạt

Cùng là ngựa, thân phận nào giống nhau. Đâu cần dùng ngũ hành phân ra mã cùng đồ mà biết ngựa đi về đâu.

Có ba loại hoa đào ở địa bàn, đó là:

1. Đào Thiên Không: xảo trá, hoa giả để nhận Quả Hồng vinh quang đó nhưng luân hồi gió bụi.

2. Đào Hồng Loan: hương sắc để nhận Quả Điếu cay đắng tóc tang.

3. Đào Tử Phù: chỉ còn xác hoa, chứ hoa đã chết ở cách cục Hồng Kiếp cho tuổi tứ mộ. Quá chán kiếp hồng trần gió bụi nên cắt nát đóa hoa đào. Nhưng nhờ Mã Khốc Khách vượt khó mà nhận Quả Phúc vẹn toàn.

Chớ tưởng hoa đào ở đâu cũng là đào hoa.

Có ba loại Kiếp Sát ở địa bàn, đó là:

1. Hồng Kiếp: kiếp hồng trần, đi cùng Thiên Hỷ nên ở đây Sát không còn là giết mà Sát là sát hạch xem có qua được cửa Tham Sân Si không. Hồng Kiếp luôn đi kèm Thiên Không càng làm rõ cái nhân đầy cắc cớ cho tuổi thìn tuất sửu mùi để cuối cùng nhận Quả Phúc.

2. Cô Kiếp: kiếp cô đơn. Có lúc nhận Quả Hồng có khi nhận Quả Phúc.

3. Tử Phù Kiếp Sát: đi kèm chiêu hồn lệnh Tử Phù của thần Nguyệt Đức âm hàn, Kiếp Sát chính là lưỡi hái tử thần. Nên giành cho Quả Điếu.

Chớ tưởng Kiếp nào cũng là kiếp.

Đào Không thì Hồng Quả mà Hồng Không thì Phúc Quả. Tuổi thìn tuất sửu mùi có cách cục Hồng Không (không dính bụi hồng trần, cái nhân tu hành) và Quả Phúc (nhận quả phúc) cho nên tuổi tứ mộ được khuyên tu hành, và tuổi tứ mộ có ưu thế tu hành hơn so với tuổi khác. Ngàn năm chỉ thấy Hồng Không, đến nay mới thấy có Phúc Quả. Cho nên Đào Không thì Hồng Quả có nghĩa cứ gian dối đi cứ giả lả sắc không đi sẽ thành công đấy nhưng rồi ngập trong bụi trần khó thoát. Hơn nữa, ta thấy chỉ có Cô Thần đi với Thiên Không chứ Quả Tú không bao giờ đi với Thiên Không cho thấy không có Quả Không. Vì nhân quả không thể đồng cung. Khi Hồng Quả thì cùng lúc cách cục có Mã Phượng Tuế, cảnh vua cưỡi ngựa đi chơi đậm chất hồng trần là chuẩn mực của thành công nhân thế. Còn ở cảnh Quả Phúc, phải chăng tiền nhân sâu xa cổ vũ cuộc đời Mã Khốc Khách vượt muôn dặm Kiếp Hồng Không để giành được Quả Phúc?

Người xưa nói Hồng Phúc tề thiên. Tử vi coi đời người có ba loại quả: Quả Hồng giành cho vua thể hiện sự rực rỡ thành đạt ở cõi trần. Quả Phúc giành cho người giác ngộ thể hiện sự giải thoát thanh cao, và Quả Điếu để trừng phạt những kẻ buông lơi bản thân rơi vào cám dỗ.

Thật không sai chạy mảy may.

12 cung liên hòan có nhiều cách phân loại. Nếu phân loại theo tam hợp thì có 4 bộ tam hợp, đây là cách phân loại của Thiên Lương. Bài trên là phân loại theo bộ tứ nên có 3 bộ tứ: thìn tuất sửu mùi, dần thân tị hợi và tý ngọ mão dậu. Vì bộ tứ xét theo trục, nên coi đồng trục là một loại. Hoàn cảnh của tuổi thìn và tuất giống nhau, hoàn cảnh của sửu và mùi giống nhau. Hoàn cảnh của trục thìn tuất giống trục sửu mùi.

Cho nên ta thấy sau khi phân loại thì sao nào cũng có 3 loại. Ta rất dễ nhớ 3 hoàn cảnh sau:

1. Tuổi tí ngọ mão dậu. Thái Tuế Khốc Hư, khi đó Đào Hồng Hỷ đồng trục, Mã Tang Hổ, cho Quả Điếu. Diễn xuôi là cảnh vua lo buồn, Đào gặp Hồng nên duyên nghiệp, con ngựa chở tang dẫn đến quả Điếu u ám. Dễ nhớ đây là tuổi tứ chính, Thái Tuế và Khốc Hư sẽ đồng trục.

2. Tuổi thìn tuất sửu mùi. Thái Tuế Hoa Cái, Kiếp Sát Hồng Không, Mã Khốc Khách, Quả Phúc Đức. Cảnh đức vua ngồi thiền (Đức Phật ngồi tòa sen), con ngựa vượt khó đưa chủ nhân vượt qua kiếp hồng trần đến với quả phúc. Dễ nhớ đây là tuổi tứ mộ. Thái Tuế Hoa Cái sẽ đồng cung.

3. Tuổi dần thân tị hợi. Thái Tuế Mã Phượng, Đào Không, Quả Hồng. Đức vua cưỡi ngựa che lọng, trong cảnh sắc không đời thường mà đạt thành công to lớn Quả Hồng. Dễ nhớ vì đây là tuổi tứ mã, Thái Tuế và Thiên Mã sẽ đồng trục.

Đến đây bạn dễ nhớ 12 tuổi chung quy chỉ có 3 cảnh trên, tất cả các sao đi vào hệ thống củng cố cho một ý nghĩa mạch lạc. Bạn không còn mơ hồ đi gom từng sao lẻ. Bạn cảm nhận được, cầm nắm được Thái Tuế. Biết “đức vua” của bạn đang trong hoạt cảnh nào. Vậy có thú vị không?

Mới nghe thì thấy có bộ tứ đẹp có bộ không. Kỳ thực là tùy thời mà cái gì lên ngôi ở hoàn cảnh đó. Như tuổi tứ mộ, ta biết cảnh tu hành đầy hứa hẹn nhưng phải hiểu Thái Tuế tứ mộ xét theo triết lý đời thực với hoàng đế là biểu tượng của thành đạt thì thế tứ mộ này là thế kém rồi. Xét theo chuẩn của hoàng đế thì thế Tuế Mã Phượng mới là mặt trời chính ngọ của vị thiên tử đang đương thời hoạt động. Thái Tuế tứ mộ là đức Thái Thượng Hoàng đã qua thời và đi nghỉ ngơi giống Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Cho nên Thái Tuế Hoa Cái chính là cảnh vua ngồi thiền hay hình ảnh Đức Phật tọa trên tòa sen. Theo quan điểm đời là kém, nhưng theo quan điểm đạo là cực phẩm. Tương tự như thế, tuổi tứ chính hay còn gọi là tứ bại, tứ đào hoa. Ta thấy nếu xét từ vị trí ông vua thì đó không phải thời chính trị pháp luật thịnh thế như Mã Phượng Tuế của tuổi tứ mã, cũng không phải thời tâm linh lên ngôi như Thái Tuế Hoa Cái của tứ mộ, mà là thời của Đào Hồng duyên nghiệp thủ diễn. Nôm na có thể hiểu là thời mà cảnh dở khóc dở cười diễn ra nhiều nhất. Nếu nói thời Mã Phượng Tuế chính trị làm chủ, xã hội trật tự theo pháp luật. Nếu nói thời Thái Tuế Hoa Cái, tâm linh làm chủ. Thì thời Đào Hồng Hỷ cảm xúc con người làm chủ, mang đậm chất hỷ nộ ái ố của kiếp người. Đây là thời văn học nghệ thuật phát triển nhưng cũng là thời nhiều loạn lạc nhất của xã hội.

Hiểu theo khách quan thì 3 bộ tứ cân bằng nhau, mỗi bộ thủ diễn một vai trò không thể thiếu của tự nhiên. Bộ tứ mã chính là hình ảnh của Thiên khi thiên tử trị vì. Bộ tứ mộ chính là hình ảnh của Địa khi tâm linh trị vì. Bộ tứ bại chính là hình ảnh của Nhân khi cảm xúc hỉ nộ ái ố của con người trị vì.

Đến đây quý độc giả dễ dàng vận dụng ý nghĩa cốt lõi của 3 bộ tứ, bất kỳ người có trí nhớ tệ thế nào cũng nhớ được:

1. Tuổi tứ mã, thời tứ mã dần thân tị hợi là khi chính thống chuẩn mực lên ngôi. Thời này cứ vững tin theo chính đạo mà bước theo chắc chắn sẽ thu được thành công. Hình ảnh lúc trung niên, hình ảnh lúc Lâm Quan. Cho nên Thất Sát miếu địa ở dần thân thỏa sức thi hành chính đạo.

2. Tuổi tứ mộ, thời tứ mộ thìn tuất sửu mùi là lúc ngưng nghỉ, khi tinh hoa hội tụ để chuẩn bị thoát thai sang giai đoạn mới. Thời này là buổi đêm mà người xưa khuyên con người nên ngồi kiểm điểm lại bản thân trong ngày để tiến bộ vào ngày hôm sau. Hình ảnh lúc già. Cho nên Tham Lang miếu địa ở thìn tuất lặng im tích lũy.

3. Tuổi tứ bại, thời tứ bại tý ngọ mão dậu là lúc hoạt động sôi nổi, khi trải nghiệm là cần thiết để đúc rút được kinh nghiệm về sau. Thời này giống thời hoạt động sôi nổi của thanh niên, yêu đương nhiều người, đi chơi nhiều chỗ, va nhiều nên có vui có buồn mà dần trưởng thành. Thời này không thể theo lề lối cứng nhắc hay thụ động chờ đợi mà phải thử và sai, thử và sai nhiều lần mới tiến bộ. Hình ảnh lúc trẻ. Cho nên Phá Quân miếu địa ở tý ngọ nhiệt tình khai phá.

Bây giờ mới biết 3 anh em Sát Phá Tham thì Tham Lang già nhất, Thất Sát mới đang trung niên, còn Phá Quân nghịch ngợm trẻ nhất.

Lộc Tồn

Như bài trước ta đã phân ra hai loại Lộc Tồn: Lộc Tồn thuận lý âm dương và Lộc Tồn nghịch lý âm dương. Bài này ta xét sâu hơn về các dạng Lộc Tồn trên và các hệ quả của nó.

Lộc Tồn tuổi giáp tại dần, Đà La tại sửu, Kình Dương tại mão. Khi đó Khôi Việt tại sửu mùi cứu cánh cho hai vị trí Kình Đà. Tại sửu Đà La hội đủ Khôi Việt. Đà La đắc sửu.

Lộc Tồn tuổi ất tại mão, Đà La tại dần, Kình Dương tại thìn. Khi đó Khôi Việt tại Tý và Thân cứu cánh cho hai vị trí Kình Đà. Tại thìn Kình Dương hội đủ Khôi Việt. Kình Dương đắc thìn.

Lộc Tồn tuổi Canh tại thân, Đà La tại mùi, Kình Dương tại dậu. Khi đó Khôi Việt tại sửu mùi cứu cánh cho vị trí Kình Đà. Tại mùi Đà La hội đủ Khôi Việt. Đà La đắc tại mùi.

Lộc Tồn tuổi Tân tại dậu, Đà La tại thân, Kình Dương tại tuất. Khi đó Khôi Việt dần ngọ cứu cánh cho Kình Đà. Tại tuất Kình Dương hội đủ Khôi Việt. Kình Dương đắc tại tuất.

Như vậy, với 4 tuổi Giáp Ất Canh Tân, Kình Đà đều có Khôi Việt cứu giải và tại vị trí đắc địa thì Kình hoặc Đà luôn hội đủ Khôi Việt. Cho thấy, tử vi quan điểm Lộc Tồn thuận lý âm dương thì Kình Đà là vị trí cần cứu giải chứ không phải Lộc Tồn.

Sang đến 6 tuổi còn lại khi Lộc Tồn trái lý âm dương. Đa số các vị trí của Lộc Tồn có Khôi Việt hội chiếu. Như tuổi Mậu Lộc Tồn tị có Thiên Khôi sửu chiếu. Tuổi Bính Lộc Tồn tị có Khôi Việt từ hợi dậu chiếu lên. Tuổi Kỷ Lộc Tồn ngọ có Thiên Khôi ở tý chiếu. Tuổi Nhâm Lộc Tồn hợi có Khôi Việt ở mão tị chiếu về. Như vậy, tử vi quan niệm Lộc Tồn trái lý âm dương là Lộc Tồn yếu cần có Khôi Việt hội chiếu hỗ trợ. Trong khi Kình Đà của 4 tuổi Bính Mậu Nhâm Kỷ không cần có Khôi Việt hỗ trợ.

Riêng hai tuổi Đinh và Quý, tuy Lộc Tồn trái lý âm dương nhưng không được Khôi Việt hội chiếu, mà các vị trí Kình Đà của hai tuổi này được Khôi Việt cứu giải. Điều đó đồng nghĩa với công nhận Lộc Tồn của Đinh Quý là Lộc Tồn không yếu kém. Có thể đây là sai số của tử vi khi cố tình thêm Khôi Việt để cứu giải Kình Đà. Nhưng khả năng đây là sai số bị loại trừ vì ta biết với tuổi Canh thì Khôi Việt trong các môn khác vốn an ở dần ngọ nhưng bị điều chỉnh sang sửu mùi ở tử vi. Mục đích của việc điều chỉnh đương nhiên là để lá số cân bằng hơn. Nói cách khác, vị trí sửu mùi là vị trí cần hỗ trợ của tuổi Canh. Ta biết ở đó có Kình Đà. Vậy thì, nếu Đinh Quý là sai số của Khôi Việt thì tại sao không điều chỉnh như tuổi Canh. Cho nên có khả năng Khôi Việt của Đinh Quý mở ra một tác dụng đặc biệt nữa của Khôi Việt ngoài mục đích hóa giải Kình Đà.

Ta biết Lộc Tồn là cát tinh, như bài trước đã phân tích thì Lộc Tồn bao hàm toàn bộ tứ hóa. Thế nhưng, áp hai bên Lộc Tồn là Kình Đà mang ý nghĩa xấu, thì Lộc Tồn có thể nói chính là bao hàm của cát hóa Khoa Quyền Lộc. Và Kình Đà là hình ảnh của Hóa Kỵ. Khôi Việt xuất hiện để giải cứu các vị trí có Kình Đà. Vậy còn Hóa Kỵ thì Khôi Việt có cứu giải không.

Bắt đầu từ tuổi Đinh, Khôi Việt ở hợi dậu có thể cứu giải cho trường hợp Đồng Cự Kỵ ở sửu mùi trong tình thế Đồng Cự cực hãm. Nếu thay đổi vị trí của Khôi Việt cứu giải Lộc Tồn ở ngọ, thì Khôi Việt không thể cứu giải cho Đồng Cự.

Tuổi Quý, Khôi Việt ở mão tị có thể cứu giải lý tưởng cho Liêm Phá Kỵ và Vũ Phá Kỵ ở tị hợi và mão dậu. Như vậy, nếu nói chính tinh cực hãm hóa Kỵ là không xấu thì không đúng, vì không xấu thì tại sao Khôi Việt phải cứu giải. Mà phải nói là cực xấu như hoàn cảnh một người đã vừa nghèo đói lại còn mắc bệnh nan y. Nhưng nhờ có Khôi Việt quý nhân đến mà ta có thể nói chính tinh cực hãm hóa Kỵ thì cùng tắc biến thành tốt đẹp. Tốt đẹp ở đây do Khôi Việt mang lại, còn cùng cực thì do Hóa Kỵ gây nên.

Đến đây, ta biết được tác dụng đặc biệt của Khôi Việt được an để lập lại cân bằng cho lá số, cụ thể là cứu giải cho Kình Đà và Hóa Kỵ.

Kiểm tra khả năng cứu giải Hóa Kỵ của Khôi Việt cho 8 tuổi còn lại thì thấy:

Tuổi Giáp Nhật Nguyệt Kỵ sửu mùi có Khôi Việt thủ và chiếu.

Tuổi Ất Nguyệt hãm dần thìn ngọ hóa Kỵ có Khôi Việt tý thân chiếu. Ba vị trí hãm này của Nguyệt là cực hãm vì sai cả thời lẫn vị.

Tuổi Bính Liêm Phá hãm mão dậu và Liêm Tham hãm tị hợi có Khôi Việt thủ chiếu hóa giải. Nếu cực đoan, ta có thể kết luận một thủ bằng hai chiếu.

Tuổi Mậu có Thiên Cơ hóa Kỵ. Do đặc điểm Thiên Cơ hãm địa tại dần và hợi đều do ảnh hưởng của Thái Âm hãm địa ở dần và tị mà ra. Nhưng tuổi Mậu Thái Âm luôn hóa Quyền, đi cùng Thiên Cơ thành cách Quyền Kỵ không tồi. Cho nên Khôi Việt sửu mùi được thiết kế để cứu Thiên Cơ đơn thủ ở hợi mà lờ đi Cơ Nguyệt đồng cung ở dần. Có thể nói không phải không có lý.

Tuổi Kỷ Văn Khúc hóa Kỵ. Văn Khúc cực hãm ở dần ngọ, có Khôi Việt ở tý thân chiếu hội cứu giải.

Tuổi Canh Thiên Đồng hóa Kỵ. Tại sửu Đồng Cự cực hãm, nên có Khôi Việt sửu mùi cứu giải.

Tuổi Tân có Văn Xương hóa Kỵ. Xương cực hãm ở dần ngọ, được Khôi Việt đóng tại dần ngọ cứu giải.

Tuổi Nhâm có Vũ Phá cực hãm hóa Kỵ ở tỵ hợi, có Khôi Việt ở mão tỵ cứu giải.

Như vậy 100% các trường hợp chính tinh cực hãm hóa Kỵ được Khôi Việt cứu giải. Trong khi có 80% Kình Đà hoặc Lộc Tồn được Khôi Việt cứu giải. Có thể nói Khôi Việt được thiết kế để giải cứu chính tinh cực hãm hóa Kỵ là tiên quyết, đồng thời cứu cả Kình Đà nhưng là thứ yếu so với Hóa Kỵ.

Nhưng không đơn giản chỉ có vậy. Từ tinh bàn, ta có thể thu được nhiều hệ quả khác. Như có ý kiến cho rằng Kình Đà miếu tứ mộ. Có ý kiến lại cho rằng Đà La miếu tứ sinh. Nay thì ta biết, đó là do Khôi Việt. Khi có Khôi Việt đó là Kình Đà miếu, nhất là trường hợp đồng cung hoặc hội đủ Khôi Việt, mạnh nhất là tọa Khôi hướng Việt hoặc ngược lại tọa Việt hướng Khôi. Còn nếu nói Kình Đà miếu tứ mộ, rồi Đà La miếu tứ sinh thì lúc trúng lúc trật. Đó không phải bản chất.

Hệ quả tiếp theo là Nhật Nguyệt hóa Kỵ sửu mùi. Các sách đều cho rằng Nhật Nguyệt tranh tối tranh sáng. Cần Hóa Kỵ hoặc Triệt để tách ra. Kỳ thực đó không phải bản chất. Bản chất là Khôi Việt. Do đó khi Nhật Nguyệt sửu mùi Hóa Kỵ mà không có Khôi Việt thì ta biết trường hợp đó chẳng thể phản cách. Triệt ngọ mùi chỉ có ở tuổi Ất Canh. Tuổi Canh thì Khôi Việt đóng tại sửu mùi, tuổi Ất thì Khôi Việt tại tí thân không ứng cứu. Nếu so sánh giữa hai tuổi thì tuổi Ất có Khôi Việt và Quyền Kỵ Lộc Tồn thủ chiếu. Tuổi Canh có Khôi Việt Lộc Khoa tại bản cung. Bù lại tuổi Ất tránh được Đà Kình, còn Canh dính phải Kình Đà. Cân nhau chằn chặn.

Hệ quả tiếp theo là tương truyền Hóa Kỵ đắc địa tứ mộ. Có thể suy nghĩ rằng tứ mộ không chứa Lộc Tồn, Khôi Việt cũng không an La Võng. Vậy thì tứ mộ bất lợi cho toàn bộ tứ hóa, riêng Hóa Kỵ có nghĩa xấu cho nên khi bị kìm hãm tại tứ mộ mà thành bớt xấu chăng. Nhưng đến đây, ta có thể chắc chắn hơn với trường hợp Hóa Kỵ tứ mộ có Khôi Việt thủ chiếu, khi đó chắc chắn rất tốt đẹp cho Hóa Kỵ. Cũng chắc chắn hơn với Kình Đà tứ mộ có Khôi Việt thủ chiếu.

Hệ quả tiếp theo là giả thuyết Kình Đà hiệp Kỵ chỉ là bại cục khi không có Khôi Việt. Ở các bài trước khi chưa xét Khôi Việt, ta ngờ bại cục là do chính tinh cực hãm hóa Kỵ. Nhưng ở bài này ta thấy cả hai trường hợp chính tinh cực hãm đó. Vũ Phá hợi tuổi Nhâm, và Liêm Tham tị tuổi Bính đều có Khôi Việt hội chiếu cứu giải. Nếu đã chấp nhận rằng Khôi Việt đặt ra để giải Hóa Kỵ, thì ta công nhận rằng Kình Đà hiệp Kỵ là nói tất cả các trường hợp còn lại không có Khôi Việt hội chiếu.

Hệ quả nữa, là có thể nhận định Kình Đà mà gặp Hóa Kỵ mới đích thị là Kình Đà sát thủ (tất nhiên không có Khôi Việt cứu giải). Về sau ta còn biết thêm chỉ khi Hình Diêu gặp Hóa Kỵ thành cách Hình Kỵ hoặc Diêu Kỵ thì khi đó Hình Diêu mới là Hình Diêu xấu. Quan điểm này trùng với quan điểm của tứ hóa phái khi cho rằng lục sát tinh gặp Hóa Kỵ mới tác họa, còn không thì vẫn chỉ tiềm tàng dưới dạng rủi ro.

Cũng có thể có ý kiến cực đoan hơn cho rằng, Khôi Việt là quý nhân chỉ cứu những cảnh cùng cực chứ không cứu cảnh bình thường. Nói cách khác, Khôi Việt chỉ cứu Hóa Kỵ do chính tinh cực hãm hóa thành, gọi là mạt lộ gặp quý nhân mà phản vi kỳ cách. Chứ Khôi Việt không cứu giải tất cả Hóa Kỵ.

Nhưng dù sao từ nay quý độc giả dùng Khôi Việt, Kình Đà, Hóa Kỵ trong luận giải sẽ tự tin hơn nhiều cảnh mơ mơ hồ hồ trước đây.

Sự ngoại lệ của can Đinh và can Quý tại sao Lộc Tồn trái vị âm dương mà không kém, thì ta biết về sau Quan Phúc sẽ bù trừ cho. Nhưng đó là chuyện dài, vì sau khi đặt Khôi Việt vào lá số, do Khôi Việt đi cứu giải hết thế xấu của Kình Đà Kỵ, tiền nhân đã phải đặt Hỏa Linh để chuyên khắc chế Khôi Việt. Rồi sau khi lỡ tay thả Hỏa Linh vào rồi thì phải đặt ra Quan Phúc để kiềm chế bớt Hỏa Linh. Cứ thế cứ thế cho đến khi sai số nhỏ xuống mức chấp nhận được.

Giờ ta biết Khôi Việt có thể trị được Hóa Kỵ. Ta phân tích lại tượng sau khi đã có cơ sở lập tượng. Bắt gặp câu phú:

Việc người xích mích khá không

Tử Vi Khôi Việt ba ông phải tìm

Việc xích mích ở đây ám chỉ Hóa Kỵ. Khôi Việt thì đã rõ có thể trị Khôi Việt nhưng không rõ vì sao có Tử Vi vì câu phú khác nói “Tử Vi cư ngọ vô Hình Kỵ, Giáp Đinh Kỷ vị chí công khanh”. Rõ ràng Tử Vi không thích Hóa Kỵ chút nào. Mà chẳng cần câu phú đó, chỉ cần ta biết Tử Vi ưa Lộc Tồn thì đương nhiên không thích Kình Đà Kỵ.

Đi tìm Tử Vi Hóa Kỵ ta thấy Tử Vi chỉ gặp Hóa Kỵ khi Vũ Khúc Hóa Kỵ hoặc Tham Lang Hóa Kỵ, vì đơn giản trong các sao có thể đồng cung hoặc hội chiếu với Tử Vi thì chỉ có hai sao đó có thể Hóa Kỵ. Mà hai sao đó Hóa Kỵ chỉ ở tuổi Nhâm Quý. Khôi Việt của Nhâm Quý đều an ở tị và mão.

Tuổi Nhâm Vũ Khúc Hóa Kỵ nhưng đồng thời Tử Vi Hóa Quyền, khi đó là cách Quyền Kỵ bớt xấu, thậm chí tốt.

Tuổi Quý Tham Lang Hóa Kỵ nhưng luôn có Khôi Việt soi rọi hai cung mão dậu. Trường hợp Tử Tham đối cung ở tý ngọ, thì bạn biết câu phú Tử Vi cư ngọ vô Hình Kỵ, Giáp Đinh Kỷ vị chí công khanh rồi. Vì sao tuổi Quý có Lộc Tồn cư tý chiếu Tử Vi ngọ mà sách không kể. Đó là vì Tham Lang hóa Kỵ đồng cung chiếu lên.

Cho nên “Tử Vi Khôi Việt ba ông phải tìm” có nghĩa là khi Tử Vi gặp Kỵ thì cần có Khôi Việt hóa giải, đồng thời khẳng định ý nghĩa Khôi Việt giải Kỵ.

Nhưng nghĩ cho kỹ Khôi Việt sinh ra để giải Kỵ phải chăng Khôi Việt hợp Kỵ. Nói thế tuy không đúng nhưng cũng không sai, vì nếu không gặp thì làm sao hóa giải. Như Quan Phúc sinh ra để hóa giải Hỏa Linh nếu không gặp Hỏa Linh thì ai trị Hỏa Linh, và Quan Phúc khi đó làm gì. Nếu dụng tượng có thể biết tuy hai ông thầy tu quan phúc bắt bọn ma tà Hỏa Linh nhưng Hỏa Linh cũng là đèn nhang để thầy tu Quan Phúc có thể tu hành.

Hóa Kỵ là cãi vã xích mích. Khôi Việt có tượng là trưởng là đầu. Có thể giải quyết cãi vã thì phải chăng Khôi Việt là tượng trưởng bối đứng ra dàn xếp lũ con nít tranh giành, hay Khôi Việt là công lý có thể giải nỗi oan Hóa Kỵ. Sau này khi bạn biết Quang Quý không ưa gì Hóa Kỵ bạn sẽ hiểu vì sao Khôi Việt phải đi cùng Quang Quý để giải Không Kiếp. Đơn giản vì Quang Quý có thể đặc trị Không Kiếp nhưng phòng ngừa Hóa Kỵ xâm nhập phá tan uy tín của Quang Quý, thì Khôi Việt phải chắp tay đứng đó sẵn sàng quét sạch bụi thị phi cho Quang Quý rảnh tay mà cải hóa Không Kiếp.

Quang Quý Hóa Kỵ là cảnh tai tiếng khi làm ơn. Ý nghĩa rất phong phú còn tùy các cách cục đi kèm. Như làm ơn mắc oán, hay lợi dụng tiền từ thiện để tiêu xài cho riêng mình đều là cảnh này. Ân Quang ban ân vì ân mà nên oán. Thiên Quý được người quý, quý quá mà lại thành thù.

Quay lại cảnh Tử Vi cư ngọ vô Hình Kỵ. Ta có thể hiểu là Thiên Hình và Hóa Kỵ. Nhưng cũng có thể đó là Kình Dương và Đà La vì hóa khí của Kình là Hình mà của Đà là Kỵ. Khi đó hiểu đơn giản là Tử Vi ưa thích Lộc Tồn chứ không thích gặp Kình Đà. Nhưng tại sao phải sợ Hóa Kỵ của tuổi Quý mà không dám nhận Lộc Tồn từ tý chiếu về. Hàm ý sâu xa ở đây là do chính Hóa Kỵ là chất xúc tác để Kình hóa hình và Đà hóa kỵ. Có Hóa Kỵ Kình mới thể hiện tính hình, có Hóa Kỵ Đà mới thể hiện tính kỵ. Ngược lại, có Khôi Việt thì Kình Đà sẽ không hóa hình kỵ nữa.

Hóa khí chẳng qua là cách nói ẩn dụ của tính chất tiềm tàng. Nó có đấy nhưng chưa gặp xúc tác sẽ chưa bộc lộ. Điều này góp phần làm nên sự huyền ảo của tử vi. Phần nào nói lên tính động của dịch lý.

Khôi Việt tượng là đầu. Là đầu nên làm chủ được cái lưỡi Hóa Kỵ mà giải Kỵ. Là đầu nên sợ sét Hỏa Linh đánh, vì sét đánh trúng đầu không ai nói sét đánh trúng cái mông Thai Tọa. Ông tăng Quan Phúc ngồi thiền Thai Tọa trong đèn nhang Hỏa Linh mà thành được việc. Nhưng để sét đánh thì Hỏa Linh Khôi Việt chưa đủ, khi đó bạn mới chỉ mắc bệnh nhức đầu nhức óc. Để thành cách sét đánh phải có Thiên Hình là hình phạt là hành hạ thì mới rõ nghĩa trời phạt. Cho nên sét đánh phải là “Hỏa Linh Hình Việt”.

Sau này bạn sẽ biết vì sao phải có Hình mới gây thương tổn đánh đập trừng phạt trực tiếp, phải có Diêu mới mang ý nghĩa lừa đảo dụ dỗ trực tiếp. Không có Hình thì Hỏa Linh Khôi Việt mới là nhức đầu. Không có Diêu thì Kỵ Đà Khôi Việt là ẩn sĩ, thêm văn tinh thì kẻ ẩn sỹ có tài, có tài nhưng vô dụng nên ẩn sĩ. Nhưng họ không lừa ai vì không có Thiên Diêu.

Dù là một sao, nhưng xúc tác cho ý nghĩa quyết định. Đến đây bạn hiểu phép dụng tượng.

Có 12 cung. Cho dù nhiều thần sát đến đâu cũng chỉ có 12 cung. Hết chỗ đứng thì phải dẫm lên chân nhau mà đứng. Mà đứng cùng nhau rồi thì bị đối xử không khác gì nhau cả. Cho nên tối đa số thần sát có ý nghĩa chỉ là 12 hoặc 4 hoặc 3 là đủ.

Long Trì Quan Phù đồng cung, Thiên Không Thiếu Dương đồng cung, Tuế Phá Thiên Hư đồng cung là những ví dụ điển hình. Vì cùng là sao chi năm cho nên dù an ra cả vạn thần sát thì cũng chi biểu hiện cho chi năm từ các góc nhìn. Cho nên càng nhiều thì càng rối.

Trở lại bản đồ các sao an theo can năm. Thấy rằng dù an bao nhiêu sao thì cũng chỉ biểu hiện can năm trên 12 cung. Hiện nay đã có các sao:

12 sao vòng Bác Sỹ

2 sao Đường Phù Quốc Ấn

3 sao Lộc Kình Đà

2 sao Khôi Việt

2 cung gặp Triệt

2 sao Quan Phúc

1 sao Lưu Hà

1 sao Lưu Niên Văn Tinh

1 sao Thiên Trù

Tổng cộng đã là 26 sao cho 12 vị trí. Nghĩa là mỗi vị trí trung bình có 2,2 sao. Mỗi cung bị lặp lại hai lần. Số sao dùng để mô tả cung bị thừa đến hơn 2 lần. Điều này nói lên sự rối rắm của tư duy phương Đông. Ví dụ cung sửu của tuổi Giáp hội tụ tất cả Khôi Việt Đà Quan Phúc Lưu Hà Lưu Niên Văn Tinh, tốt xấu lẫn lộn, chỉ biết luận là tốt.

Cho nên cần thiết phải thanh lọc, chỉ để lại những đại diện có ý nghĩa duy nhất không thể thay thế thì khi luận giải mới không bị loạn.

Với vòng Thái Tuế, ta chia được thành 3 loại. Vậy với 10 thiên can có thể làm vậy không.

Con số 12=3X2X2 cho nên có thể phân thành 2 loại, 3 loại, 4 loại, hoặc 6 loại. Nhưng con số 10=2X5 chỉ có thể phân thành 2 loại hoặc 5 loại.

Phân chia thành 5 loại ví dụ:

Giáp Canh có tương quan Khôi Việt và Lộc Tồn giống hệt nhau chỉ khác vị trí, có thể gom cùng 1 loại.

Ất Tân một loại

Mậu Kỷ một loại

Bính Nhâm một loại

Đinh Quý một loại

Nếu phân tiếp thành 2 loại thì:

Giáp Canh Ất Tân Đinh Quý một loại, loại Kình Đà gặp Khôi Việt

Mậu Kỷ Canh Nhâm một loại, loại Lộc Tồn gặp Khôi Việt

Một loại này bao hàm 3 sao Lộc Kình Đà, 12 sao vòng Bác Sỹ, 2 sao Khôi Việt. Như vậy là gom được 17 sao.

Triệt có cách phân bố không phụ thuộc các sao trên. Cho nên nhất thiết phải xét Triệt không thể ngó lơ.

Phép hội sao

Xét vòng Thái Tuế bạn thấy Tuế Phá luôn xung chiếu Thái Tuế, khi bạn ở Thái Tuế thì chẳng đời nào bạn chịu coi mình có Tuế Phá chiếu về. Khi bạn ở Tuế Phá chẳng thể nào bạn phủ nhận Tuế Phá mà vơ Thái Tuế. Như vậy rõ ràng hai vị trí này là khác nhau. Và rõ ràng là bạn không thể lấy sao chính xung về làm sao của mình được. Nếu coi xung như thủ thì chẳng ai phân ra Lộc Tồn chiếu Phi Liêm, chẳng ai phân ra Phục Binh chiếu Thiên Tướng, Bệnh chiếu Trường Sinh.

Nhưng tại sao trước giờ tam hợp phái lại ôm tất cả các sao xung chiếu cũng như tam chiếu về xét một mớ. Rõ ràng có gì đó không ổn, vì cách xét đó ít ra là sai với ba vòng Thái Tuế, Bác Sỹ và Trường Sinh.

Bây giờ xét tam hợp. Ba vị trí Sinh Vượng Mộ tam hợp với nhau. Nhưng Mộ là mộ, không thể coi là Trường Sinh, Sinh là sinh không thể coi là Đế Vượng. Như vậy Sinh Vượng Mộ cho bạn biết không thể nào xét tam hợp hổ lốn cá mè. Mà chính xác nhất phải xét sao thủ tại cung đó.

Đến đây bạn thừa nhận ít ra với 3 vòng cơ bản Thái Tuế Bác Sỹ Trường Sinh, không thể xét tam hợp cũng như xung chiếu làm sao của mình. Nếu cố tình làm vậy lập tức bị sai lạc.

Xét đến vòng chính tinh bạn thấy tương tự. Không thể nào ngồi ở cung Vũ Khúc bạn kéo Tử Vi tam chiếu về làm như là của mình, vì Tử Vũ Liêm vĩnh viễn tam hợp. Sát Phá Tham cũng vậy. Nói cách cục là để bạn hiểu tình thế của tinh bàn. Nhưng vô tình người xưa mập mờ làm bạn hiểu lầm phép tam chiếu và chính chiếu.

Đến đây lại có hai hướng:

1. Nếu mở rộng suy luận trên cho tất cả các sao, thì bạn chỉ có thể xem sao thủ cung để luận mà bỏ qua xung chiếu và tam hợp. Phép này cũng có lý cho cách xem hạn của nam phái. Đó là đến từng hạn, thì bạn phải gom từng cung lại và bức tranh dần hiện ra.

2. Phép hội sao trên chỉ có ý nghĩa với các vòng sao kín như Thái Tuế Bác Sỹ Trường Sinh, còn các sao đơn như Long Phượng Mã Đào Hồng Cái Tả Hữu đều có thể xung chiếu và tam chiếu, vì những sao đó không có các sao khác vĩnh viễn xung chiếu nó hoặc tam hợp nó. Ở đó là vị trí trống nên có thể chịu ảnh hưởng bởi xung chiếu và tam chiếu. Lập luận này cũng có lý, và từ đây bạn mở ra phép hội sao, biết sao nào chiếu được sao nào không.

Đến đây, bạn biết trong phép xem hạn của tam hợp phái hay nam phái, chỉ có một mình cung hạn được tính. Xem đại vận bạn có một cung, xem xuống tiểu vận bạn có 2 cung, xem đến tháng bạn có 3 cung. Cứ thể tổ hợp lại ra cách cục gì bạn chịu cách cục đó.

Nói về cuốn Tử Vi Đẩu Số Tân Biên của tác giả Thái Thứ Lang

Trong Tử Vi Đẩu Số Tân Biên của Thái Thứ Lang các câu phú được cho vào phần PHỤ GIẢI nằm dưới phần ĐẠI CƯƠNG, có nghĩa là khi áp dụng có mâu thuẫn thì điều chỉnh theo phần đại cương ở trên.

Nói chung ông TTL đặt nặng đắc hãm và xét việc theo thứ tự trên dưới chứ không lung tung. Ngôn từ dùng khá chặt chẽ và máy móc, chứ không chém bừa.

Ví dụ:

Phá Miếu gặp cát tinh miếu, Kình Đà Không Kiếp đắc thì thôi, khen lên mây luôn.

Phá hãm gặp Kình Đà Không Kiếp đắc vẫn được phê là: cũng được hưởng giàu sang nhưng hay mắc tai họa.

Chỉ có Phá hãm lại gặp sát tinh hãm thì thôi, đổ mực vào cách cục: nào là cùng khốn, nào là lang thang, nào là nan y, nào là xiềng xích, nào là yểu tử, nào là thê thảm, bla bla bla…

Tóm lại nguyên tắc xét là:

– Chính tinh MVĐ hay hãm

– Sau đó mới đến sát tinh đắc hay hãm

Trường hợp xấu nhất luôn là Chính tinh hãm+Sát tinh hãm, lại không hợp cách nữa thì thôi, mang chuyện địa ngục lên để luận.

Còn chính tinh miếu+cát tinh đắc+sát tinh đắc hợp cách= thiên đường là đây, tiền lắm râu dài trường thọ, bla bla bla…

Ngoài ra, còn một đặc điểm với chính tinh là phân chia thành bộ, rồi bộ này có hợp bộ kia không.

TVĐSTB – trang 317

Phương pháp luận đoán vận hạn:

A. Quan sát

1.Gốc đại hạn 10 năm

2.Lưu đại hạn một năm (để cấp độ xét vẫn trên tiểu hạn)

3. Lưu niên tiểu hạn một năm

a. Sự tương sinh tương khắc giữa: (lúc nào cũng cân nhắc ngũ hành trước)

b. Chính diệu nhập hạn và chính diệu thủ mệnh thuộc cùng nhóm hay khác nhóm.

c. Sự tốt xấu của các sao hội hợp nhập hạn.

Đặc điểm của sách này là thích phân cấp độ, thứ tự ưu tiên rõ ràng. Xét cái gì trước, cái gì sau, cái gì to, cái gì bé, cái gì chính, cái gì phụ. Cho nên đề mục chi chít như lá mít. Việt Nam còn 2 tác giả cũng rất thích cụ thể hóa vấn đề là Thiên Lương (chuẩn hóa vòng Thái Tuế), Việt Viêm Tử (chia 8/2, 7/3 cho tuần triệt). Trung Hoa có Phan Tử Ngư và Liễu Vô Cư Sỹ cũng rất thích sợi tóc chẻ tư, viết cái gì là rõ ràng rành mạch không thích cảm tính chung chung.

Có lẽ, đây là tính hệ thống của cuốn sách. Gặp lá số nào cũng mang barem ra chém như chấm thi từ mục 1 đến 100, trong 1 lại chém từ a đến z.

Có lẽ trước khi đi tu, tác giả là quân nhân.

Đậu phụ, chém.

Cà rốt, chém.

Bắp cải, chém.

Rau sống, chém.

Chém,

Chém,

Chém hết.

Như bản The Mass:

Chém hết cho anh,

Chém hết cho anh,

Mang vào đây, mang vào đây chém, mang vào đây chém cho anh…

Chém, chém, chém, chém hết cho anh…

1. Trang 58 TVĐSTB, mục Hóa Lộc, TTL có thòng một câu: “Gặp Lộc Tồn đồng cung: gây ra những sự chẳng lành.”

Trang 150, câu 7, 8, 9 đều ca ngợi cách bày đặt của Lộc Tồn và Hóa Lộc không đồng cung mà phải chính chiếu mới tốt đẹp.

Trang 164 câu 4, 5 ca ngợi thêm trường hợp một Lộc thủ một Lộc tam chiếu cũng OK.

Trang 165 câu 7 tác giả vẫn hết sức dè dặt không cho song Lộc đồng cung, dàn xếp rất rõ ràng: một thủ một chiếu.

Thì, tóm lại ý của ông ta vẫn ca ngợi chiếu hội thì đẹp, còn đồng cung thì “chẳng lành”. Câu phú Lữ Hậu có lẽ ghép sự “chẳng lành” là “độc đoán” và “chuyên quyền” chứ không có các ngôn từ của địa ngục như “bại liệt” “tan xác” “hỏng người”…

Nếu coi hai lời phán “độc đoán” và “chuyên quyền” là xấu thì toàn bộ hệ thống trên nhất quán. Nhưng bôi thêm “xấu” là phanh thây, bay đầu, ngồi phải bàn chông, tông nhầm lựu đạn thì không có.

2. Theo tinh thần chính xác từng câu từ của tác giả, thì trang 166 câu 16: Khoa mệnh Quyền triều, đăng chung giáp đệ, có giải thích rõ ràng là Khoa thủ mệnh và Quyền chiếu chứ không phải đồng cung cũng không phải tam hợp, vì sao có đặc điểm này?

Tiếp theo, trang 162 mục tứ hóa, duy nhất có Hóa Quyền bị cảnh báo là “nếu gặp Tuần Triệt án ngữ” thì công danh trắc trở thành ít bại nhiều, trong khi 3 hóa còn lại không có lưu ý tuần triệt.

Trang 58 khi giới thiệu về tứ hóa, riêng Hóa Quyền có một đặc điểm:

“Gặp nhiều sao tốt đẹp: làm cho tốt đẹp hơn

Gặp nhiều sao xấu xa: làm cho xấu xa thêm”.

còn 3 hóa còn lại không có đặc điểm này.

Truy tiếp Tuần Triệt thay đổi tính chất của các sao như Tử Phủ Nhật Nguyệt Tướng Tướng Hình Thai Ấn Mã Khôi Việt, rồi các sao Tả Hữu, Phục Binh, Quan Phù, Phi Liêm, Lực Sỹ, Lâm Quan có tính chất trợ tốt trợ xấu như Hóa Quyền thì thêm được:

– Hóa Quyền có tính thay đổi cường độ, các hóa khác không có.

– Các sao chủ quyền lực rất kỵ Tuần Triệt.

– Tuần Triệt có tính chất thay đổi cường độ—>phù hợp với tính chất đảo ngược đắc hãm của chính tinh mà TTL dùng rất nhiều trong sách.

Thì, đó người ta gọi là thực học.

Phần xem vận TTL có nói khi các sao lưu gặp các sao cố định thì mới tác dụng. Quan điểm này trùng với cách xem của Big boy Vương Đình Chi. Như vậy không phải lúc nào cách cục này cũng được kích hoạt.

Tử Vi Đẩu Số Trung Châu Vận Đoán-Vương Đình Chi, trang 319-320:

2. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC KHI SUY ĐOÁN ĐẠI HẠN, LƯU NIÊN, LƯU NGUYỆT, LƯU NHẬT. Phàm đối với các sao mà có “lưu tinh” thì lấy lưu tinh làm chủ. Mệnh bàn vốn có các sao, không xung thì không khởi tác dụng.

Ứng kỳ và độ bền của mệnh:

Nhân–>Địa—>Thiên;

vận—>thân—>mệnh;

xinh gái—>đằm thắm—>nhân hậu;

đẹp trai—>tài cao——->dũng cảm;

bằng giỏi—>kiến thức rỗng—>giả dối;

có học—>thiếu tư duy—>trí thức rởm;

giao tiếp vụng—>hảo ý—>chân tình;

Nói chung, cái gì cũng sẽ bộc lộ dần theo thời gian, vị cay xộc lên trong nháy mắt vị đắng ngấm xuống tận trăm năm. Tinh đẩu biểu hiện trong nháy mắt, bản chất của đại vận sẽ biểu hiện trong cả 10 năm. Cái đơn giản lại tổng quát, cái chi tiết lại nhất thời.

Tinh đẩu biểu hiện trong nháy mắt, bản chất của đại vận sẽ biểu hiện trong cả 10 năm. Cái đơn giản lại tổng quát, cái chi tiết lại nhất thời.

Có nghĩa là:

Những đại vận thấy tinh đẩu sáng sủa hội tụ, nôm na là đẹp nhưng thành tựu so với vận khác lại tầm thường thì:

1. Xem lại khái niệm “đẹp” của đại vận.

2. Phải có một yếu tố A nào đó ẩn tàng có tác dụng điều chỉnh bề nổi là “đẹp”. Phải chăng A là ngũ hành âm dương, phải chăng A là thiên can mệnh cung, hay tứ hóa thiên nguyên thì tùy phái.

Tương tự khi gặp một vận tinh đẩu xấu hội tụ mà thực tế cái xấu không đáng kể, thậm chí hi hữu còn đại phát thì cũng như trên sẽ tìm được yếu tố A.

Nếu chấp nhận có tam tài tức ba cấp độ mạnh yếu rộng lớn khác nhau là Thiên Địa Nhân thì phải chăng phối hợp tinh đẩu chỉ cho biết yếu tố nhân. Quan điểm phân cấp này đối lập với quan điểm hài hòa tất cả ngũ hành của ông Sở Hoàng trong bộ Hỷ Kị. Đây cũng chính là bế tắc trong phần luận ngũ hành của tác giả Nguyễn Phát Lộc khi ông không phân biệt được thứ tự quan trọng của các tương tác.

Nói cách khác, các tính trạng bộc lộ ra bên ngoài chịu chi phối của trình tự DNA bên trong và không biểu hiện hoàn toàn trình tự của DNA.

Thôi, viết vậy, lười quá, ai quan tâm tự tìm nhé.

Còn về mệnh cung thiên can. Ví dụ: Tử Vi cư ngọ vô Hình Kỵ, Giáp Đinh Kỷ vị chí bô-xít.

Thì, Giáp Đinh Kỷ không hẳn do hóa khí khi phối GĐK vào. Mà có ý kiến cho rằng. Dần ẩn tàng Giáp, Ngọ ẩn tàng Đinh Kỷ nên Tử Vi cư ngọ lấy thiên can của dần ngọ biểu hiện bằng Lộc Tồn.

Rồi Tử vi nam hợi nữ dần cung, Nhâm Giáp sinh nhân phú quý đồng. Do lấy Nhâm can từ hợi và Giáp can từ dần.

Trang 99 TVĐSTB: câu 3. Thái Dương cư ngọ Canh Tân Đinh Kỷ thì Canh Tân lấy do hóa khi, còn Đinh Kỷ lấy do Lộc Tồn.

Điều này dẫn đến điểm rất quan trọng về cách chia đại vận thành nhiều mảnh và có vài ông giấu diếm dùng trên forum trước đây.

Ví dụ:

Sửu, tháng 12 Sau Tiết Tiểu Hàn, Quý chiếm 9 ngày, Tân chiếm 3 ngày, Kỷ

chiếm 18 ngày.

Tức là, đại vận sửu 10 năm: 3 năm đầu đứng chữ Quý, 1 năm sau đứng chữ Tân, 6 năm cuối đứng chữ Kỷ.

Đây cũng là tuyệt kỹ mà tử vi chợ cóc trong mơ cũng không có, các tử vi siêu thị nghiệm thử xem.

Và cũng nói luôn, là không bao giờ chứng minh hay hiểu vì sao 1 3 5 đặt ở ngọ dần thìn từ cách an sao tử vi hiện nay. Muốn truy gốc phải tìm từ các văn bản cổ hơn tử vi.

Triệt đóng nhâm quý cũng vậy, nó chỉ là biểu hiện chứ bản chất vì sao nó vậy mà không có tài liệu khác thì giải thích thế quái nào được. Vì trong phép an sao tử vi làm gì có các tiền đề đứng trước nó mà giải thích. Trong tử vi, nó được đặt cái huỵch như tiền đề, muốn giải thích nó bằng chính nó có mà ăn chinsu.

Sơ đẳng về phương pháp luận như vậy các ông còn không nắm được thì còn tìm tòi nghiên cứu cái gì.

Trước một vấn đề, phải biết mình cần gì đã.

Nhận xét về cuốn Tử Vi Đại Toàn của tác giả Thái Đình Nguyên

Đầu tiên là ngưỡng mộ tình yêu đối với tử vi của tác giả. Thiếu TY này mọi thứ chỉ là loại rác không thể tái chế.

Về phương pháp tử vi từ kỷ Jura cho đến thời tên lửa hành trình, đi đâu loanh quanh cũng chỉ vài phương pháp:

– Vòng tròn: dung hòa tất cả, pp này có ông Sở Hoàng với Hỉ kị đại đột phá, có tác giả VDTT với Hoàn Toàn Khoa Học, có Liễu Vô Cư Sỹ với “phải có cả cát tinh và sát tinh mới coi là tốt”. Mỗi phái này đưa ra các tiêu chuẩn để lấy điểm trung hòa.

– Điểm mốc: điển hình cho phương pháp luận này là phái ngũ hành, bất kể thế nào cứ sinh là tốt khắc là xấu, đôi khi có phản cách nhưng không nhiều. Triết lý của phái này là: người hàng xóm chết nhưng hai cha con bán quan tài lại mừng thầm. Không có tốt xấu, chỉ có tốt với ai, và xấu với ai. Hôm nay có người thăng quan thì cũng có người vào tù, vấn đề là khí nào trong ngũ khí nắm lệnh. Khí Alex nắm lệnh thì tất cả đàn em của Alex ngồi từ cấp Thứ trở lên, khí Alex thất lệnh thì: alo, alo, anh, anh khỏe không, 5 năm em mới gọi được cho anh, bận quá trời anh ơi…Điển hình có cụ BaLa lấy ngũ hành nạp âm của năm sinh làm chuẩn phán định tất cả phần còn lại của lá số.

– Cung bậc: chia làm các tầng khác nhau để xét như barem thi đại học, Thiên-Địa-Nhân, Sinh-Vượng-Mộ chẳng hạn. Phương pháp này xét theo thứ tự ưu tiên, to nhỏ, nặng nhẹ khác nhau. Cách xem hạn trong Tử Vi Giảng Minh thể hiện phương pháp chia tầng này. Phương pháp này lợi hại ở chỗ xem được cuống và lá, cân phân nặng nhẹ, suy xét thực hư.

Về tĩnh-động thì VN mình theo tĩnh, còn Đài Cảng theo động. Vì theo tĩnh, nên phải ôm 108 sao, trong một vận lại phải dùng các pp phân định sao nào ảnh hưởng nhiều sao nào ảnh hưởng ít. Sản phẩm trôi nổi thị trường là phương pháp sao treo sao rung sao bay. Nhiều người lên đây bán hàng nhái, nhưng tôi khẳng định là: không có đâu. Vì ngay chiều hôm nay, một chân truyền của sao treo rung bay đã ngồi đây cà fe chém gió với tôi.

Quyển TVĐT thay vì chọn cách đứng cao lên-nhìn rộng ra-tổng quát hóa thì lại đi sâu vào lá số, sách viết rất chi tiết phần tính lý tinh đẩu và các cách cục, dùng ngũ hành làm tôn chỉ đoán mệnh. Và nhu cầu thiết yếu là phải dùng các cách Sinh-Tuyệt-Mộ rồi Tuần Triệt theo các tuần hoa giáp để phân định ảnh hưởng nặng nhẹ của sao từ các cung xung chiếu, và tác dụng lên mệnh bàn nói chung.

Nói chính xác thì pp sinh tuyệt mộ này không sai, trước đây có bác Hổ Về Rừng dùng rồi, nhưng tùy hệ phái mà có nên dùng hay không. Chứ không phải thấy mọi người dùng mình cũng ôm vào. Đã khác mạch thì muốn ôm cũng không nổi. Dù sao, cách luận như luận Tử Phá cư sửu của tác giả khá đặc sắc. Quyển này vẫn không thoát khỏi bóng dáng đè nặng của các tiền bối tử vi Việt trước đây để khai sáng một cách nhìn mới, một cách nhìn nào đó thực sự mới và hợp lý, nhưng bạn nào tôn thờ ngũ hành chắc chắn sẽ rất thích quyển này.

Mệnh cục tương khắc, âm dương nghịch lý

Xưa nay mệnh cục tương sinh, và thế âm dương thuận lý được coi là tốt. Nay ta cân phân xem có đúng vậy không.

Thứ nhất, âm dương thuận lý ta biết 6 cường cung sẽ nhận các sao như Tuế Hổ Phù Long Phượng, còn âm dương nghịch lý 6 cường cung sẽ nhận thế Thiên Không Kiếp Sát Thiếu Âm.

Nay xét mệnh cục, có 3 loại tương tác:

– Mệnh cục tỉ hòa

– Mệnh cục tương sinh

– Mệnh cục tương khắc

Nếu mệnh cục tỉ hòa coi như mệnh cục cùng sinh cùng diệt, khi cục trường sinh thì mệnh cũng trường sinh và khi cục tuyệt mệnh cũng tuyệt.

Mệnh cục tương sinh có hai trường hợp, mệnh sinh cục và cục sinh mệnh. Mệnh sinh cục thì mệnh có thể hỗ trợ cục. Ví dụ: mệnh kim cục thủy, khi cục thủy tuyệt khí tại tị thì mệnh kim trường sinh tại tị, tạo thành thế tuyệt xứ phùng sinh. Và ngược lại cho trường hợp cục sinh mệnh.

Mệnh cục tương khắc cũng có hai trường hợp, mệnh khắc cục và cục khắc mệnh. Đã khắc thì hàm ý là không giúp đỡ và hàm ý là không thuần nhất. Ví dụ mệnh kim khắc cục mộc. Mộc khí tuyệt tại thân nhưng tại đó kim vượng.

Trên cách nhìn tổng quát lá số thì khi mệnh cục tương khắc, tại một cung vị bất kì nếu hành khí này vượng thì hành khí kia suy và ngược lại.

Bây giờ xét xem sinh hay khắc là tốt hay xấu. Ta biết cách cục VCD Nhật Nguyệt thích Không Vong và ưa Mộc Suy Tuyệt. Nếu mệnh cục tương khắc, thì khi cục khí mộc suy tuyệt chắc chắn mệnh khí sẽ vượng. Tức nôm na ta hiểu sự mộc suy tuyệt ở đây không hòan toàn.

Đến đây có hai ngã rẽ để hiểu:

1. Cục mộc suy tuyệt rồi thì mệnh cần sinh vượng mộ bù lại cho cục mới là tốt

2. Cục mộc suy tuyệt rồi thì mệnh không nên sinh vượng mộ mới là thuần nhất, nếu không sẽ thành cảnh trống đánh xuôi mà kèn thổi ngược.

Khi mệnh cục đồng hành, hay tương sinh thì sự đồng nhất của mệnh và cục cao hơn so với trường hợp mệnh cục tương khắc.

Đối với cách cục VCD Không Vong Nhật Nguyệt, ta biết cách này ưa Thiên Không cho nên phải là âm dương nghịch lý. Chứng tỏ âm dương thuận nghịch lý còn tùy cách cục mới biết được xấu tốt, không cứ thuận lý là tốt mà nghịch lý là xấu. Nếu thuận lý sẽ phù hợp với cách cục Tử Phủ Vũ Tướng Sát Phá Tham khi đó Tuế Hổ Phù Long Phượng Hổ Cái sẽ tề tựu. Còn với VCD không vong Nhật Nguyệt lại cần Thiên Không Đào Hồng hơn Tuế Hổ Phù. Cách này còn ưa Mộc Suy Tuyệt hơn Sinh Vượng Mộ. Nhưng khi đó cần mệnh khí sinh vượng hay tử tuyệt?

Tứ mộ khởi biến hóa

Theo quy luật ngũ hành áp trên địa bàn. Tứ mộ là nơi ngừng nghỉ của năm hành. Không cần biết phương pháp gì, cách biện nào thì tứ mộ vẫn là nơi ngưng nghỉ của một hành nào đó, trước khi nó Tuyệt và trước khi hành khác sinh ra. Cho nên vận tứ mộ là vận thay đổi. Thay đổi có hai chiều hướng là từ tốt sang xấu và từ xấu sang tốt. Cho dù người mới học không rõ thay đổi đó là chiều hướng nào thì có thể nắm chắc một điều: tại vận tứ mộ phải có sự thay đổi. Ai đang đắp chăn ấm hãy lo ngại, ai đang co ro dưới gầm cầu hãy hi vọng. Đến tứ mộ đất trời cũng phải đổi thay chứ không nói con người.

Việt Nam đã có nhiều lần thay triều đổi đại vào năm Tuất. Kể cả không thay chiều đổi đại thì những năm thìn tuất cũng có sự kiện đáng kể. Gần đây những năm thìn tuất là sự chống tiêu cực trong giáo dục. Người đương thời Đỗ Việt Khoa anh cứ nhằm năm thìn tuất là tỏa sáng. Sau đó thì không thấy nhắc đến anh nữa. Năm sửu của Việt Nam thường là năm thất bại của các bang hội. Nhiều cuộc khởi nghĩa bị dập tắt năm sửu.

Tiểu vận của nam giới trong tử vi luôn đi thuận. Cho nên những năm La Hầu Kế Đô Thái Bạch của nam giới là những năm tiểu vận rơi vào tứ mộ. Với dân gian mà nói phải ra chùa làm lễ giải hạn. Với nhà tử vi mà nói đó là những năm rơi vào tứ mộ. Không hẳn xấu nhưng phải có thay đổi. Nắm được vấn đề cơ bản này, sẽ giúp ích rất nhiêu cho người mới học xem số, kể cả những người xem lâu năm có tiêu chí để đối chiếu tránh được mông lung. Vì đời người nhiều lắm có hai lần trải qua đại vận tứ mộ.

Tất nhiên phải kể đến ảnh hưởng của tinh đẩu, nếu không thì an tinh đẩu làm gì. Nhưng tử vi là bài toán mô tả không gian 3 chiều và 1 chiều thời gian. Muốn xác định được một điểm trong không gian phải dùng ba trục tọa độ x, y, z. Ba trục này đôi một độc lập nhưng không thể thay thế cho nhau. Nếu hỏi như trên là hiểu một trục có thể thay thế cho cả ba. Tất nhiên, không có chuyện đó. Nhưng nếu tìm được một thước đo có thể đánh giá rõ ràng vấn đề, phép đo đơn giản thì thước đo đó có giá trị.

Chân lý là con đường đơn giản nhất trong những con đường tương đương. Điều này đúng với cả chân người.

Về Tứ Hóa Phi Tinh

Xem Nghịch Thủy Kỵ là rõ nhất hàm ý của tứ hóa. Cung A đối xung cung B. Cung A phi hóa Kỵ tới cung B, nhưng cung B vốn sẵn có Hóa Kỵ năm sinh thì gọi là nghịch thủy Kỵ. Hàm ý Hóa Kỵ A muốn trao cho B bị B từ chối vì B đã có Hóa Kỵ rồi. Và Hóa Kỵ do A trao lại chảy ngược lại A thành vòng tuần hoàn vĩnh cửu.

Nghịch thủy Kỵ mang nghĩa tốt cho quan hệ A và B, cụ thể tốt cho A, ý tứ là dòng chảy giữa A và B cứ thế mãi mãi luân chuyển không ngừng nghỉ.

Tuy nhiên, có trường hợp đường dẫn bị thủng và nước rò ra ngoài. Đó là khi cung B tự hóa. Khi cung B tự hóa thì Hóa Kỵ của A trao sang B sẽ được B nhận và tiêu đi mất, thành ra không còn Nghịch Thủy Kỵ nữa. Cho nên xấu.

Phép xem tứ hóa cần lưu ý có hai loại hóa khác nhau. Nếu xem tứ hóa theo kiểu gom sao tam hợp sẽ thành cảnh hóa bay đầy trời.

Loại thứ 1: Tứ hóa do năm sinh gây ra, hoặc tứ hóa do lưu niên gây ra. Đây là tứ hóa ngoại nhập. Nó như cây cỏ gỗ đá của thiên nhiên bày ra, con người có thể tùy đó sử dụng.

Loại thứ 2: Tứ hóa do can cung gây ra. Loại này là tâm ý các cung, nó muốn gì, muốn phi hóa đi đâu, và nó nhận phi hóa từ đâu, tự hóa thế nào đều chính là tứ hóa loại 2 này.

Ta tưởng tượng Chúa Trời đưa quả táo cho con người, thì quả táo này là tứ hóa loại 1. Con người đối với quả táo này có 4 cách xử lý, thì cách cách xử lý này là tứ hóa loại 2 do can cung thủ diễn. Có thể ăn, có thể ném, có thể đem trồng.

Cho nên mới thấy Chúa Trời đưa quả táo, thì chỉ thấy thùy tượng. Phải biết quả táo đó được dùng thế nào thì mới xem được số. Nhưng đừng nhầm hai loại tứ hóa kẻo lại bắt gà lúc 6 giờ chiều.

………

Người học tứ hóa nên nắm chắc hàm ý của phi hóa trước. Tự hóa là trường hợp riêng của phi hóa tại chỗ. Phi hóa là xu hướng tiềm năng, là con đường giao thông giữa các cung. Muốn có những chiếc xe tải chạy trên đường cần có hóa khí [năm sinh] hoặc hóa khí [lưu niên] xâm nhập.

Tôi nghĩ 90% người tử vi ở Việt nam hiện nay không hiểu ý nghĩa và cách dùng phi hóa.

Ví dụ mệnh nhận Hóa Lộc [năm sinh] nhưng từ đó lại phi Lộc sang tài bạch thì luận sao, phi Kỵ sang điền trạch thì luận sao. Họ đều ngáo ngơ cả.

Phi hóa trong tử vi chính là ý hướng của can chi trong tử bình. Can đó chi đó muốn gì, muốn hướng tác dụng sang đâu, blah bloh.

………

Tổng hợp

Tứ sát:

Sát Phá Tham của vòng chính tinh

Mộc Suy Tuyệt của vòng Trường Sinh

Kình Đà của can năm sinh

Không Đào Sát của chi năm sinh

Đến đây ta đã có thể xem tử vi theo hệ thống.

Với yếu lĩnh lượng đổi chất đổi, khi có 1 thì gọi là mầm mống, khi có 2 là thành hiện tượng, khi có 3 thì cực điểm, nhưng khi có 4 yếu tố hội tụ thì lại phản vi kỳ, không trở thành có, mà sát lại đảo thành cát.

Tứ sinh:

Tử Vũ Liêm của vòng chính tinh

Tuế Hổ Phù của vòng thái tuế

Lộc Tướng Ấn của vòng lộc tồn bác sỹ

Sinh Vượng Mộ của vòng trường sinh

Tứ sinh được mô tả trong thế chân mệnh thiên tử của topic này. Tứ sinh cộng hưởng với nhau thì hoàn mỹ.

Việc xem số xoay quay Tứ Không, Tứ Sát và Tứ Sinh. Dựa vào hệ thống này thì giờ đây chúng ta có thể xem tử vi một cách toàn diện, không thiếu sót. Và hiểu được cái gì là chính cái gì là phụ. Sau khi đã xác định được khung số, việc xét đoán các tiểu tiết sẽ có định hướng và bớt mông lung hơn, tất nhiên sẽ tự tin và kết quả sẽ chính xác hơn. Xin chúc mừng cộng đồng biết được điều này.

Mệnh Tài Quan trong cách hiểu tổng quát thì cũng là một loại “sao”. Loại sao này có thể tổ hợp với bất cứ bộ sao nào phía trên để ra chi tiết cuộc đời. Tức là bạn có 5 yếu tố để xét số rồi đấy. Trước giờ bạn nghĩ cứ phải nhìn từ mệnh tài quan nhìn đi. Giờ bạn đã biết có thể nhìn từ bất cứ cung nào cũng là lá số của mình, và mệnh tài quan cũng chỉ là một tam hợp.

Khi 5 yếu tố cộng hưởng: Mệnh tài quan có Tử Vũ Liêm+Tuế Hổ Phù+Lộc Tướng Ấn+Sinh Vượng Mộ.

Nếu Mệnh Tài Quan là tượng của Sinh Vượng Mộ thì Điền Tật Bào chính là tượng của Mộc Suy Tuyệt. Giả sử Điền Tật Bào của bạn hội tụ 4 yếu tố tứ sinh thì bạn có tứ sinh+ 1 Tuyệt tất nhiên sẽ không tốt bằng ngũ sinh khi Mệnh Tài Quan + 4 sinh rồi.

Và khi đại vận đi đến cung Tật, bạn cũng ngầm hiểu giống như mình từ vị trí Sinh Vượng Mộ đến vị trí Mộc Suy Tuyệt ắt không thể tốt đẹp. Đó là lý thống nhất về quy luật của tất cả các tam hợp.

….

Cũng chẳng có gì phải giữ làm của riêng. Vì có đưa ra cũng chưa chắc đã lãnh hội được.

Có những điều các tiền bối nói trước đây tôi rất coi thường, ví dụ như Nhật/Nguyệt thủ mệnh thì khắc đoạt phụ tinh/mẫu tinh nên cha mẹ mất sớm.

Sau này thực tế thấy nhiều lá số có Thái Dương hoặc Thái Âm thủ mệnh đều: hoặc sau khi cha/mẹ mất thì phát tài phát quyền, hoặc phát tài phát quyền xong trong thời gian ngắn cỡ vài tháng thì cha/mẹ mất. Cách đây không lâu khi cha tôi đưa lá số đối thủ chính trị của ông có Thái Dương thủ mệnh, sau khi lên chức vài tháng cha bại liệt rồi qua đời trong trạng thái thực vật. Tôi mới ngỡ ngàng đốn ngộ, buột miệng bảo: lá số này quả nhiên có Thái Dương thủ mệnh. Ngẫm lại mới thấy ngày xưa quá non nớt, chuyện đời thật rộng lớn mênh mông như biển Thái Bình.

Đó mới chính là phần tâm linh thú vị khó lý giải của tử vi, chứ không phải như mấy thằng ngu có vài thuật toán cơ bản không luận được lại đổ tại cho huyền bí.

Cho nên có lẽ các chiêu thức kinh khiếp nhất đều lộ lộ trong sách rồi, chỉ trách ta quá thông minh mà u mê thôi.

Ta vẫn lang thang buổi chợ chiều

Đường dài bóng đổ dáng liêu xiêu

Từ ngày hôm đó ai đi mất

Ta vẫn đi ngang buổi chợ chiều.

….

Vòng Thái Tuế không chịu tương tác với Không Vong nhưng vòng Trường Sinh thì đặc biệt chịu sự tác động mạnh mẽ của Không Vong. Nói vậy để bạn biết con gà không thể cộng với con vịt mà phải chọn đúng gà.

Vị trí Tuyệt rất hợp với Triệt, thậm chí có người coi nó là Triệt thứ hai.

Vị trí Mộ rất hợp với Tuần, cả hai cùng chủ tích lũy thu hút gom góp.

Cho nên bạn biết Trường Sinh không ưa Triệt Tuần chút nào, trừ khi phải đào dòng chảy với kỹ thuật âu thuyền nâng con tàu qua kênh đào Panama kỳ diệu.

Nói về sát tinh, có Địa Không và Linh Tinh hợp với cách cục VCD Nhật Nguyệt, còn Kình Đà thì phá hoại cách cục này. Mệnh thân đắc cách VCD Nhật Nguyệt rất kỵ hành vận Sát Phá Tham do tính âm dương đối chọi nhau điên đảo. Còn mệnh Sát Phá Tham gặp vận Nhật Nguyệt bạn có thể hỏi vua Quang Trung.

Câu đầu tiên khi nghĩ về cách cục Nhật Nguyệt là bạn phải nhớ tới thông minh. Cách cục Nhật Nguyệt đại diện cho trí thông minh, uyên bác trên bất cứ lá số nào. Cách cục Sát Phá Tham cho biết khả năng hành động. Cách cục Tử Phủ Vũ Tướng cho biết khả năng tổ chức quản lý. Sát Phá Tham thì thiên dương, Nhật Nguyệt thiên âm, còn Tử Phủ Vũ Tướng dung hòa ở giữa.

Cho nên nghĩ tới Nhật Nguyệt là nghĩ tới thông minh và trường thọ. Còn lại tùy bạn gia giảm khi cách chưa hoàn thiện hoặc bị phá.

Không Kiếp là lưỡi kiếm sắc bén. Khôi Việt là cái chuôi, Quang Quý là cái vỏ. Xuất chiêu mạnh yếu xem cục khí, ai cầm kiếm xem chính tinh.

Lưỡi kiếm mà không có chuôi và vỏ thì không dùng được. Cố dùng đứt tay.

Hỏa Tinh là ngọn lửa, Thai Tọa là chân đế. Quan Phúc là nắp chụp. Cục khí là dầu hỏa. Thành ngọn đèn Huê Kỳ sáng rực. Với Linh Tinh tương tự thành ngọn lửa hàn xì.

Không có chân đế và nắp chụp ngọn lửa không dùng được.

….

Đầu tiên nói về thể dụng. Thể dụng là nội hàm bất biến của quẻ. Nó phụ thuộc vào vị trí hào động là ở đâu. Ví dụ Thiên Phong Cấu thì mãi mãi là kim khắc mộc. Cho nên thể dụng cho biết cái Thế của quẻ. Thế đứng, thế chủ động hay thế bị động, thế chính danh hay thế danh bất chính đều do thể dụng mà ra. Ví dụ thể là kim khắc dụng mộc thì mình được thế chủ động. Mình là vua còn dụng là bề tôi. Nhưng ngoài thế còn có lực. Vào mùa xuân, kim tuyệt không khắc nổi mộc vượng. Vào thời Hiến Đế vua không bảo được Tào Tháo. Vào thời Chúa Trịnh thì vua Lê chỉ là cái bóng. Cho nên nhìn vào mùa gieo quẻ thì bạn biết lực lượng của hai phe thể dụng. Bạn biết có khắc nổi không, có sinh nổi không. Nó cho biết thực hư của mối quan hệ thể dụng. Bề ngoài Hiến Đế và Tào Tháo là vua tôi. Bên trong thì Tháo nắm quyền.

Yếu tố thứ ba là tên quẻ. Tên quẻ cho biết tính chất của thời đó. Địa Thiên Thái và Thiên Địa Bĩ đều là Thổ sinh Kim. Nhưng một thời thái một thời bĩ. Ý nghĩa quẻ có mối liên hệ chặt chẽ với tương quan nội quái ngoại quái. Bạn kiểm nghiệm sẽ hiểu sự kì diệu này. Vì dụ Bĩ là nội sinh ngoại không tốt. Thái là ngoại sinh nội nên tốt. Thiên Trạch Lý lễ dã lộ hành. Nội ngoại đều là kim nhưng ngoại quái Càn là quái mạnh. Nội quái Đoài yếu đuối thụ động hơn, phải chịu sự uốn nắn và chuẩn mực của càn, cho nên nghĩa quẻ là theo lề lối khuôn phép mà đi. Lý nghĩa đen là cái giày. Giày có khuôn thước. Sau khi dựa vào những cơ bản trên và thực hành. Bạn sẽ nắm vững cách xem.

….

Phát hiện quan trọng: tiểu vận có tác dụng lên tên cung hơn là thái tuế. Ví dụ tiểu vận đóng cung quan lộc thì năm đó công việc có biến chuyển. Thái tuế đóng đó thì chưa hẳn nha.

Thái tuế có tác động mạnh lên chính tinh cung nó đóng hơn là tên cung. Ví dụ cung điền có Thái Dương. Thái tuế đóng đó thì ảnh hưởng của Thái Dương lập tức phát huy. Chuyện điền trạch thì chưa chắc.

Lưu niên đại vận cho kết quả chung cuộc cả năm. Thành bại phải xem LNDV.

Nếu lười có thể nháng qua LNDV là có thể dự đoán kết cục. Ví dụ một năm mà Không Kiếp hãm rồi tóe loe hao bại xung quanh. Cho dù tiểu vận và thái tuế đẹp cũng không đến đâu. Kiểu được cấp trên hứa thật nhiều rồi thất hứa thật nhiều. Nhưng đừng dùng LNDV đoán tên cung. Nó có đóng vào phụ mẫu. Sự việc chưa chắc liên quan phụ mẫu.

Nhiều người xem tử vi lâu năm cũng không phân biệt được 3 loại vận này nên đành dự đoán cảm tính, sự mơ hồ thế nào không nói cũng biết

Chúc bạn thành công

….

Chính tinh là tâm thái, phụ tinh cho mô tả chính xác. Ví dụ: “cái áo” cụt lủn chỉ cho biết là cái áo, nhưng áo bộ đội, hay áo khoác, hay áo rét, hay áo gió, hay bra, thì tùy thuộc vào phụ tinh. Thoáng qua bề ngòai tướng người thì do chính tinh làm chủ. Cụ thể con người đó thế nào thì do phụ tinh chi tiết thêm.

Phân cách phải nắm chắc tầng bậc, thứ tự mới không thể nhầm lẫn. Vũ trụ có trật tự của nó, thời gian có thứ tự trước sau. Chỉ cần thay đổi thứ tự, ý nghĩa thậm chí bị đảo ngược.

Đó là thuận lý tự nhiên. Tử vi và đời có những cách thuận lý cũng có những cách nghịch lý. Thuận lý thì bền và được quần chúng ủng hộ. Nghịch lý thì cũng có thể thành công, nhưng phải trả giá bằng tai tiếng hoặc tù tội hoặc mạng sống. Ví dụ đi ăn cướp sẽ có tiền nhanh nhưng hậu quả là bỏ mạng hoặc đi tù. Tiếc là bây giờ nhiều người đi theo con đường bất chấp này.

Biểu hiện thành hình của sự nghịch lý tự nhiên là các vị trí sát tinh. Cứu cánh của nó là miếu đắc địa, tức vị trí cân bằng âm dương của sát tinh. Khi sát tinh miếu địa, thành công vang dội và bất ngờ nhưng bạo phát bạo tàn. Bạo tàn vì căn lõi của nó là sự nghịch lý rồi, nên không thể bền.

Tổng hợp từ Facebook

– Mệnh khắc xuất là sướng trước khổ sau hay khổ trước sướng sau?

– Khổ trước sướng sau.

– Vì sao có thể biết như vậy?

– Vì bốn mùa xuân hạ thu đông có trật tự rõ ràng.

Âm dương đã nghịch lý thì mệnh cục trái tính âm dương. Trái tính âm dương rồi thì sinh hay khắc đều không có tác dụng mạnh. Cho nên:

– Âm dương là tiên quyết, ngũ hành là hậu quyết.

Xét mệnh cục tương khắc phải trong không gian âm dương thuận nghịch lý.

Học mãi mới hiểu vì sao đời kêu oai oái mệnh cục tương sinh hay tương khắc đều chẳng khác gì nhau.

Trong tử vi thì dương mặc định cho tốt. Âm cho xấu. Ví dụ Tử Vi cung dương bao giờ cũng tốt hơn cung âm. Dương là thuần nhất rõ ràng. Âm là tạp loạn mập mờ. Ví dụ các chính tinh đồng cung dương là các sao cùng tính chất gặp nhau. Các chính tinh đồng cung âm là chính tinh khác tính chất gặp nhau.

Nếu tháng giờ cùng tính âm dương, mệnh thân đóng cung dương.

Nếu cung mệnh và năm cùng tính âm dương, đó là âm dương thuận lý, xác suất gặp sao tốt rất cao.

Nếu cung mệnh và tháng cùng tính âm dương, không gặp Hình Riêu.

Nếu cung mệnh và giờ cùng tính âm dương, không gặp Không Kiếp.

Cục dương với ngày dương tốt hơn ngày âm.

Cục âm thì hỗn độn có tốt có xấu.

Nếu tháng và ngày cùng tính âm dương Thai Tọa sẽ đóng cung dương.

Như vậy chưa cần lập lá số. Xem tổ hợp năm- tháng- ngày- giờ nếu thấy cùng tính âm dương nhiều sẽ tốt nhiều. Khác tính âm dương sẽ kém tốt.

Xem vận nếu nhập vận cung dương thấy nhiều sao xấu e rằng khó cứu vì cái xấu là thuần nhất. Nhập vận cung âm thấy nhiều sao tốt coi chừng cái tốt thiếu ổn định. Tuổi âm nhập vận cung dương tất nhiên phải chịu nhiều chóe ngoe. Cho dù nhiều sao tốt cũng không thể mãn ý như tuổi dương nhập cung dương.

Xem ra phép âm dương cô đọng quá mà ít người chịu dùng triệt để.

Thái Thứ Lang cho rằng mệnh VCD hợp vận Sát, Phá, Liêm, Tham, lục sát, lục bại. Cung VCD thì hợp Tuần Triệt án ngữ. Nhưng sách vở khác như Thiên Lương chỉ đề cập đến Bạch Hổ mà không hề nhắc tới 5 bại tinh còn lại là Tang Khốc Hư song Hao.

Kì thực do yếu quyết: ” hỏa không phát, kim không minh”. Dẫn đến mệnh rồi sao hợp với VCD đều phải là hỏa hoặc kim. Mà Tang mộc, Khốc Hư đều thuộc thủy. Song Hao thì Thái Lang cho là hỏa. Có sách cho là thủy. Các sách không dùng Hao cho VCD chắc quan điểm Hao thủy. Còn theo Thái Lang thì dùng Hao cho cung VCD ngon lành.

Cái gì nghịch với Đạo (quy luật tự nhiên) thì không bền. Cái gì thuận với Đạo thì không thể vội.

Nhược điểm song Hao: có tiền là tiêu, có sức là chơi.

Đặc điểm song Hao: tích độc nhanh, thải độc nhanh. Nên song Hao đi kèm sát tinh dễ trúng độc cấp tính mà đột quỵ. Song Hao kèm cát tinh phú quý không thể bền.

Nhược điểm Lộc Tồn: tụ không thể tán. Nên Lộc Tồn khả giải sát tinh nhưng lại làm ngưng trệ tam hóa. Dẫn đến hóa khí khó phát tác. Dễ nhiễm độc mạn tính. Khi phát hiện không thể cứu.

Hóa Kị phúc đức có xu hướng tự kỉ. Đi kèm Đà Riêu thì khó chữa. Hay nghĩ đến việc tự sát hoặc bi quan không lối thoát.

Trong mệnh lý, có những yếu tố luôn đi thuận, thể hiện quy luật bất biến. Ví dụ: vòng thái tuế, bốn mùa xuân hạ thu đông, quy luật sinh khắc của ngũ hành. Sách nói: “Thiên địa bất nhân coi vạn vật như chó rơm”. Hàm ý các quy luật tự nhiên cứ vận hành như vậy bất kể ý muốn con người ra sao. Người tốt hay người xấu nhảy từ tháp Effel xuống đều chết vì trọng trường tác dụng bất kể tốt xấu.

Nhưng liên quan đến con người luôn có thuận và nghịch. Như đại vận phải tính tới yếu tố nam nữ. Vong Trường Sinh Vòng Bác Sĩ đều kể tới yếu tố nam nữ. Cách an Hỏa Linh cũng kể đến nam nữ. Tiểu vận cũng kể đến yếu tố nam nữ. Cho nên các sao trên có thể xếp vào phần Nhân.

Tuy nhiên, các quy luật tự nhiên (chỉ an thuận hoặc chỉ an nghịch) hay còn gọi là phần Thiên luôn có ảnh hưởng lấn át áp đặt lên phần nhân. Tính chất của các sao đó như các hằng số bất biến. Sự luận giải cũng đơn nhất không đa nghĩa. Và là tiêu chuẩn để hiệu chỉnh khi có sự mập mờ từ các suy luận khác. Nhược điểm của yếu tố Thiên là thô mộc, thiếu chi tiết tinh xảo, rõ ràng nhưng chung chung.

Tham Sát Phá: tham sân si. Tham có lúc hóa Lộc hóa Quyền hóa Kỵ nhưng không hóa Khoa. Lòng tham có thể làm con người giàu có quyền lực cũng có thể gây họa (Kỵ) nhưng không thể mang lại sự sáng suốt (Khoa).

Phá có thể hóa Lộc, Phá có thể hóa Quyền, nhưng không hóa Khoa và Kỵ. Si mê có thể đem lại giàu có và quyền lực nhưng không đem lại sự sáng suốt nhưng cũng không gây họa ( có ý kiến cho rằng trong Phá luôn có tính Kỵ rồi nên không cần hóa Kỵ nữa).

Nhưng Sát tức sân hận thì không hóa, không thể chuyển hóa hay rất khó chuyển hóa.

Trong tử vi:

1. Dương là quy ước của tốt. Âm là quy ước của xấu.

2. Thuần tốt hơn Tạp.

3. Nếu tạp thì cân đối tốt hơn thiên lệch.

Điều 1 thể hiện qua vị trí khởi điểm của các cát tinh và chính tinh. Điểm hai thể hiện trong cách cục. Điểm ba thể hiện trong sự miếu đắc của sát tinh.

Thứ 7 là ngày dành cho gia đình.

Chủ nhật là ngày dành cho bản thân.

Những ngày còn lại dành cho xã hội.

Written by người phản đối những khuyến khích làm việc cả ngày thứ 7 và CN của bọn chủ người Nhật.

Quy luật tự nhiên có nhịp điệu có chu kỳ. Mặt trời mọc rồi lặn hàng ngày. Từ lâu loài người đã phát hiện ra chu kỳ 7. Tại vị trí số 7, năng lượng yếu nhất và cần phải tĩnh dưỡng. Trong tử vi đó là ngôi Thất Sát đứng thứ 7 kể từ vị trí sung mãn là Thiên Phủ. Phủ trù phú thì Sát rất nghèo. Phủ đầy năng lượng thì Sát ít năng lượng. Phủ vượng thì Sát diệt. Trong Tarot, con bài số 7 của cả bốn nguyên tố đều mang nghĩa xấu. Thất côn chủ tranh đoạt. Thất kiếm chủ trộm cắp. Thất cốc chủ mê muội. Thất tiền chủ sự nghỉ ngơi. Thất tiền mang ý nghĩa khá nhất tứ nguyên tố thì cũng không thể hoạt động được.

Tử vi là tà đạo và chỉ có những người chính khí ngút trời mới có thể làm chủ được nó. Còn lại đều bị tử vi dắt vào con đường lầm lạc, đều làm nô lệ cho nó và bị tâm ma sai khiến bất kể kẻ đó bao tuổi, tài cao bao nhiêu. Cho nên học tử vi mà thấy càng ngày Tham Sân Si càng lộ rõ và ngấu nghiến tâm can thì kẻ đó đã bước vào ma đạo rồi. Những lời khuyến cáo của tôi hay bị bọn u mê coi thường. Chúng không hiểu bản chất tà ngụy của các thuật bói. Chúng không hiểu vì sao các đại đức họ chỉ khuyên người đời tu tâm chứ đừng ham cầu bói toán. Biết sẽ chết lúc nào. Nhưng không biết bệnh gì. Dù biết bệnh gì. Nhưng không biết cách chữa thì biết làm gì. Hay cái biết đó để phục vụ cho lòng tham của tâm, tham phúc và sợ họa. Phúc không phải đuổi theo mà được. Phúc do nó tự tìm mình mà đến. Họa không phải đuổi mà đi. Họa do nó tự bỏ ta mà đi. Vạn sự do tâm. Tâm thiện phúc đến. Tâm ác họa đến. Bọn bói toán chỉ cầu biết cái biểu hiện mà không biết được nguyên nhân thì sao chúng có thể giúp người. Chưa nói trình độ của chúng thì như gia cầm lục súc.

Tứ hóa là bốn loại tâm lý cảm xúc, nói gọn là tâm thế. Hóa Kỵ là tâm thế tiêu cực. Tứ hóa phái cho rằng lục sát tinh không đáng sợ, đáng sợ là khi Hóa Kỵ đến kích phát lục sát tinh tác họa. Lục sát tinh nó như tính xấu tiềm ẩn trong con người bạn do DNA quy định khi chúng ta sinh ra. Nhưng nếu không có tâm lý tiêu cực thì lục sát tinh đó cũng không tác họa. Con người sơ sinh mang hai tính thiện ác. Thiện như cát tinh, ác như lục sát. Nhưng nếu không vào hoàn cảnh nhất định của cả thân và tâm, thì những căn ác đó không có điều kiện nảy nở mọc thành quả, thậm chí còn lặn mất. Hóa Lộc bản chất là loại tâm lý tích cực, có tác dụng kích phát theo hướng lạc quan. Khi đi cùng lục sát, Hóa Lộc biến lục sát thành kỳ cách. Ví dụ như sự tinh xảo của các nghệ nhân hay các cầu thủ bóng đá. Họ dùng cái quái cái tinh xảo đó để phục vụ cái tốt. Hoa sen trong bùn là tượng tương ứng của Hóa Lộc trong lục sát. Diêu Đà Kỵ là một cách cục thể hiện sự kích phát của Hóa Kỵ. Bản chất là Kỵ kích phát Đà Diêu. Trong cách cục có thể chỉ có Đà Diêu, khi gặp vận có Kỵ kích phát sẽ xảy ra chuyện không hay.

Qua bài này, bạn hiểu thêm về tứ hóa, cảm thấy sờ được, nắm được tứ hóa chứ không mơ hồ như kinh điển từ ngàn xưa. Ngoài ra, chịu khó áp dụng bạn còn hiểu được ứng kỳ. Cứ khi nào Hóa Kỵ nhập hoặc xung cung lục sát thì xấu. Cứ khi nào Hóa Lộc nhập hoặc xung thì khả quan. Không có Lộc Kỵ kích phát thì không sợ sát tinh. Tất nhiên đi ngang con chó, nó đã không bảo gì đừng có đá vào mõm nó.

Thái Âm cặp với 3 người đàn ông: Cơ Nhật Đồng.

Thái Dương cặp với 3 người đàn bà: Cự Nguyệt Lương.

Tử Vi làm việc với 5 đồng đảng: Phủ Tướng Sát Phá Tham.

Nhóm sao âm chủ quan hệ con người hơn là nhóm sao dương. Nhóm sao dương chủ quan hệ công việc hơn là nhóm sao âm.

Cần nghiêm khắc nhìn lại thuyết tam tài. Đây là thiếu sót lớn nhất của giới mệnh lý ngày nay.

Tượng Khí Số và Lý. Mãi không hiểu Lý là gì sau mới biết Lý là câu chuyện.

Khách hàng không mua rượu vang, họ mua câu chuyện về nút gỗ sồi gắn với chai rượu ấy. Vì câu chuyện hàm chứa mạch xuyên suốt từ lúc hình thành chai vang đó. Câu chuyện cho họ thấy sự có lý. Câu chuyện cho họ lý do mua nó và uống nó chứ không phải loại vang khác.

Tử vi cũng có Lý bên cạnh Tượng Khí Số. Lý của tử vi là câu chuyện hợp lý giữa các tương tác sao. Khách hàng muốn nghe câu chuyện xuyên suốt toàn lá số. Nên hãy túm được mạch chuyện và kể cho họ. Mà muốn làm được việc đó thì phải giỏi. Cố gắng giỏi nhé.

Những người có Không Kiếp thủ mệnh, nhất là Không Kiếp hãm địa là những người khi nói chuyện hay tỏ ra biểu hiện nguy hiểm. Không hẳn họ muốn vậy, và cách nhìn sự thế của họ như vậy. Sự việc có thể đơn giản thường lại bị họ làm cho rối tung lên. Một người vá xe bình thường cũng có thể trở thành điệp viên quốc tế trong mắt họ. Tuy nhiên, đó chỉ là thùy tượng của Không Kiếp. Tùy tình huống cụ thể mà cân phân khác nhau. Nhưng qua đó, ta thấy được cuộc đời phụ thuộc vào cách nhìn đời hơn là phụ thuộc vào đời thực. Thấy sự việc nguy hiểm sẽ có tâm thái tương ứng đối phó với sự việc đó. Phải chăng truyền thuyết các đại sư ngồi thiền, chim chóc rắn rết có thể bu quanh là có thật?

[Mình cũng đang tỏ vẻ nguy hiểm ^^]

Vậy sao Khôi Việt Quang Quý giải quyết được sự “tỏ vẻ nguy hiểm” này?

Cách nghiên cứu một sao trong tử vi rất đơn giản. Bạn cứ nhìn thẳng vào nó, trong khi mọi thứ xung quanh nó thay đổi thì bạn vẫn nhìn thẳng vào nó. Rồi bạn sẽ nhận ra nó, nhận ra mối liên hệ giữa bầu trời sao xung quanh nó với nó.

Ngũ hành là thuộc tính. Âm dương là trạng thái. Cùng là sắt nhưng có sắt nguội sắt nóng, có sắt khối sắt vụn, có sắt thuần sắt tạp.

Trong tử vi. Yếu tố A có tính chất tiên thiên của nó. Nhưng khi gặp yếu tố B thì cát hung là sự tương tác giữa A và B. Nói cách khác đó là hậu thiên của A. Ví dụ A là đèn, B là trời nắng. AB là đốt đèn giữa trời nắng. Cho nên cần lắm nhận thức đúng đắn khi xem vận. Cùng cái đèn đó nhưng trong đêm thì lung linh huyền ảo.

Hay như mệnh Sát Phá Tham đến đại vận Nhật Nguyệt, dù Nhật Nguyệt có rực rỡ cùng các cát tinh đi kèm đến đâu thì cũng khó mà tốt đẹp. Cái nhìn này khác với cái nhìn khi nhập đại vận nào đó, không cần xét đến vốn mệnh là gì.

Tuần và Triệt là Không Vong. Không Vong có nghĩa là thời gian không thực. Trong đó Triệt là quá sớm. Tuần là quá muộn. Thái Dương hợp Triệt vì mặt trời chủ tán xạ chủ sáng sớm. Thái Âm hợp Tuần vì mặt trăng chủ thâu liễm thu vào. Cho nên khi Nhật Nguyệt hãm địa tức mặt trời và mặt trăng sai thời. Gặp Tuần Triệt thì thời được điều chỉnh lại.

Vấn đề ở chỗ muộn là muộn bao lâu, sớm là sớm bao lâu. Có thể ngẫm mà biết được.

Trong tử bình, động tĩnh do địa chi báo. Cát hung do thiên can quản. Ví dụ tiểu vận năm ất mùi, chắc chắn chi mùi được hiện và chi sửu bị xung. Vào năm đó sửu và mùi đều có chuyện. Nhưng cát hay hung phải xem biểu hiện của can ất. Dụng Kỷ, Ất phá Kỷ thổ dụng thần là hung. Dụng Canh, Ất hợp Canh là cát.

Trong tử vi thì địa chi năm vận cho biết cung bị động. Nhưng động cát hay động hung phải xem thiên can. Nôm na phái tứ hóa khẳng định cách xem của mình.

Ngũ hành sinh khắc đi cùng nhau song song. Có sinh mới có khắc và ngược lại. Kim khắc mộc để mộc sinh hỏa. Dao chẻ củi đốn cây để mang đi đốt. Thủy dập hỏa thành tro để hỏa sinh thổ. Hỏa khắc kim để kim sinh thủy. Lửa nung kim loại tan chảy thành lỏng. Thổ ngưng thủy để thủy bớt tràn lan có thể dưỡng mộc. Mộc khắc thổ để thổ sinh kim. Cây mọc trên đất để chuyển khoáng vào đất.

Đó là khắc để mà sinh. Và còn sinh để mà khắc.

Hỏa sinh thổ để thổ khắc thủy cứu hỏa.

Thổ sinh kim để kim khắc mộc cứu thổ.

Kim sinh thủy để thủy khắc hỏa cứu kim.

Thủy sinh mộc để mộc khắc thổ cứu thủy.

Mộc sinh hỏa để hỏa khắc kim cứu mộc.

Cho nên xét ngũ hành đầy đủ cần biết cả sinh khắc vậy. Vì sao chưa sinh vì chưa bị khắc. Bị khắc mới chuyển hóa. Vì sao còn khắc vì khắc chưa đủ để sinh.

Tiếp theo là ngũ hành phản khắc nha. Bình thường dương khắc dương nhưng phản khắc là âm khắc dương.

Bình thường thủy khắc hỏa. Nhưng âm hỏa (ngọn lửa không trực tiếp) phản khắc thủy thì thủy cũng sinh mộc. Ví dụ lửa đun nước nước hóa hơi (mộc).

Thổ khắc thủy nhưng thủy phản khắc xói mòn thổ mà lộ kim.

Kim khắc mộc (cây) nhưng âm mộc (khí) phản khắc ăn mòn làm kim loại chảy nước.

Phản khắc có thể luận như sau:

Hỏa khắc kim nhưng kim hóa thủy phản khắc lại hỏa làm hỏa sinh thổ.

Kim khắc mộc nhưng mộc hóa hỏa khắc lại kim làm kim sinh thủy.

Mộc khắc thổ nhưng thổ sinh kim khắc lại mộc làm mộc sinh hỏa.

Thổ khắc thủy nhưng thủy sinh mộc phản khắc lại thổ làm thổ sinh kim.

Thủy khắc hỏa nhưng hỏa sinh thổ phản khắc lại thủy làm thủy sinh mộc.

Nếu nắm được do khắc mà sinh và do sinh mà khắc thì thông đạt ngũ hành.

Lửa là dương hỏa. Nhiệt là âm hỏa. Gặp lửa có thể bén ngay nhưng quá trình truyền nhiệt cần có thời gian. Cái gì cần có thời gian cần có tích lũy số lượng mới chuyển hóa thì cái đó thuộc về âm.

Cô cảnh sát giao thông xinh đẹp dắt bà cụ qua đường cho phóng viên chụp ảnh. Là hiện tượng âm hay dương? Phải chăng là âm khi hai nhân vật trong sự việc là nữ. Nhưng không, đó là dương. Vì hiện tượng trên là không thường thấy là đặc biệt, là nỗ lực 5 phút đã có thể thực hiện được. Thời gian ngắn thì bạn biết ngay là dương. Âm cần có quá trình. Số lượng ít bạn biết ngay là dương. Âm cần xảy ra ở nơi nơi.

Vậy thì hiện tượng âm là gì với giao thông. Đó là quy hoạch quy mô lớn. Đó là giáo dục ý thức tham gia giao thông của người dân trong thời gian dài. Đó là hệ thống cống ngầm tương xứng với số dân trên mặt đất. Đó là không đập cầu đi bộ mới xây để dựng cầu vượt. Những cái đó cần có tầm nhìn cần nỗ lực trong thời gian dài. Nó thuộc về âm. Nếu nó thành công thì toàn bộ thành phố chuyển mình thành tiêu biểu giao thông của thế giới. Cái tiêu biểu đó là dương.

Chứ cái dương nhỏ nhoi dắt bà cụ qua đường làm trò lòe con mắt người dân để gây thiện cảm. Chỉ làm trò được vài lần, nhiều quá thành lố. Trong khi tắc vẫn tắc, khổ vẫn khổ, ăn chặn vẫn ăn chặn, mất lòng tin vẫn mất lòng tin.

Cái âm tác dụng cần thời gian. Thủy xói mòn thổ cũng cần thời gian. Nước chảy đá mòn chính là hiện tượng thủy phá thổ. Phản khắc thuộc âm. Âm cần bền bỉ lâu dài và tích lũy. Không khí ăn mòn kim loại tức mộc (khí) phá kim cần thời gian. Khắc là gì. Khắc là thuận theo tự nhiên. Phản khắc là gì. Phản khắc là nghịch lại tự nhiên. Nghịch lại thì khó. Khó thì phải từ từ bền bỉ, không thể sốt xình xịch.

Trong phim bến Thượng Hải, quá trình tán gái của Hứa Văn Cường là thuận thiên, anh đến với Trình Trình trong thế dương Thái Sơn áp đỉnh. Nhưng quá trình tán gái của Đinh Lực là thế âm. Anh phải mài mòn Trình Trình theo thời gian, kiên trì ít một ít một. Và cuối cùng con cóc ăn thịt thiên nga.

Mỗi người có một mối quan tâm cũng như gắn bó vào một mấu chốt trong từng giai đoạn cuộc đời. Lá số tử vi có 12 cung. Có tốt có xấu. Nói theo thiên hướng là sở trường sở đoản mỗi người không giống nhau. Mới đầu xem tử vi ai cũng xem dàn trải mọi việc. Sau khi có kinh nghiệm mới biết thế nào là trọng điểm. Với một tay phó tổng cục trưởng. Vấn đề chủ chốt là có lên chức được nữa hay không. Điều chuyển công tác thế nào. Tất nhiên sức khỏe là điều quan trọng với mọi người nhất là quan chức có tuổi. Trọng điểm là sức khỏe và công tác, những lĩnh vực còn lại ít ảnh hưởng hơn. Có những trường hợp cụ thể khác nhau nhưng mấu chốt vẫn là công tác và sức khỏe.

Với những hoàng hậu và phi tần. Vấn đề là con trai có lên làm vua không. Làm vua lâu bền không. Thì cuộc đời bà mẹ sang trang. Có những bà thái hậu có con ở ngôi thời gian ngắn thì bị chết, không rõ bệnh hay tự chết, cho nên bà đó dành phần đời còn lại đi tu. Đi tu là đúng vì tuy trẻ nhưng cuộc đời coi như chung kết rồi. Bà ấy có đi buôn, có viết sách, có làm gì nữa thì cơ bản thế cục đã định.

Cho nên số phận do chúng ta lựa chọn một phần. Chúng ta chọn công chức hay buôn bán thì cuộc đời sẽ xoay quanh những khung chính đó. Và cung trọng điểm theo đó mà hiện. Hơn nữa cơ bản trong mỗi một giai đoạn cuộc đời, ta ngồi nghĩ cũng biết điều chủ chốt là gì mà khi điều đó thay đổi thì mọi thứ thay đổi.

Mộc là khí. Mộc ứng với gió trong tứ nguyên tố. Trong Dịch, quẻ Tốn là gió thuộc mộc. Trong Đông y, thủy sinh mộc mộc sinh hỏa, thủy ứng với tinh, mộc ứng với khí, hỏa ứng với thần. Tinh sinh khí khí sinh thần. Lấy ngọn đèn bấc làm ví dụ thì dầu là tinh thủy dưới đáy. Bấc là khí mộc ở giữa kết nối. Ngọn lửa chính là thần hỏa phía trên cùng.

Lại có thủy đới mộc, hóa ra chính là xăng. Mộc ở đây là khí là nhẹ. Nhờ thành phần hydrocarbon no và nhẹ này mà xăng duy trì sự cháy. Mộc sinh hỏa.

Hôm trước nói về phản khắc hôm nay nói về phản sinh. Mộc sinh hỏa nhưng hỏa cũng thiêu đốt mộc, hỏa càng sáng thì mộc càng tiêu. Kim sinh thủy nhưng thủy càng nhiều càng mòn kim. Thủy sinh mộc nhưng mộc nhiều hút cạn nước. Hỏa sinh thổ nhưng thổ nhiều thì hỏa cũng tắt. Thổ sinh kim nhưng kim nhiều thì thổ không còn là thổ.

Quá trình sinh là tiệm tiến lượng đổi chất đổi. Cho nên dương không sinh dương. Âm không sinh âm. Mà dương sinh âm, khi âm đã trưởng thì âm lại sinh dương. Mới đầu củi nhiều lửa ít. Củi là dương lửa là âm. Sau lửa to củi ít dần. Lửa dần thành dương mà củi dần thành âm. Đó chính là chuyển hóa âm dương.

Tứ sinh là nơi vấn đề phát sinh. Thích hợp với các sao ưa tung hoành như Thiên Mã Không Kiếp, song Hao Thất Sát Vũ Tướng Đồng Lương cung dương.

Tứ bại là nơi vấn đề vừa phát sinh. Thích hợp với các sao bại tinh như Khốc Hư miếu tí ngọ. Tang Hổ miếu mão dậu. Song Hao miếu mão dậu. Cơ Cự miếu mão dậu. Cho nên có ý kiến cho rằng Cơ Cự phù hợp với các bại tinh như Tang Hổ Khốc Hư Song Hao. Thực ra chúng là những kẻ đồng hương.

Tứ mộ là nơi an tĩnh, nơi tập hợp lại binh lực, nơi ủ mưu để chuyển hóa từ cũ sang cái mới. Cho nên tứ mộ phù hợp với những sao ưa sự an định như Tả Hữu Xương Khúc Hóa Kị Thai Tọa Quang Quý Cơ Lương Liêm Phủ. Và không phù hợp với các sao thích động như Đồng Cự. Đồng ở mộ như đứa trẻ bị nhốt ở nhà. Cự vốn là ám tinh ở mộ u ám càng không ai soi rọi làm sáng cho, nên càng hôn ám.

Nguyên lý của cát tinh hay sát tinh miếu là sự thuận lợi do phù hợp với địa bàn mang lại. Những cung đó coi như quê hương của các tinh đẩu đó. Nhưng sát tinh miếu vượng còn tuân theo 1 nguyên lý nữa đó là sự kìm hãm cái xấu. Kìm hãm sự mất cân bằng. Đây gọi là chế hóa.

Nguyên lý trên giống như sự thuần cách trong tử bình. Nguyên lý dưới giống như sự cân bằng theo phép lấy dụng thần theo thân vượng nhược của tử bình.

Tuy nhiên nhìn lại 3 phân cách trên. Thì tứ bại và quê hương của lục bại Tang Hổ Khốc Hư Hao tuy có gây mệt mỏi nhưng không phải là sự sát phạt tột cùng cực đoan. Bại và hao có thể hiểu như cơn ốm, như vụ tai nạn có thể đền tiền mà xong, như sự mệt mỏi nhọc nhằn không xấu để chết mà chẳng tốt để vui.

Sát địa chính là tứ sinh. Tứ sinh chính là tứ sát. Quê hương và hộ khẩu vĩnh viễn của Kiếp Sát Thiên Mã. Nơi thường trú và địa bàn ưa thích của Không Kiếp. Ở tứ sinh sự việc chỉ có hai thái cực, một là tột cùng vui sướng, hai là tột cùng bi thảm. Không có chỗ cho kiểu nửa buồn nửa vui nửa âu sầu như tứ bại. Ở đây tính chất con bạc của Không Kiếp được ủng hộ triệt để.

Tứ sinh chính là tứ sát.

Tứ bại chính là tứ thành.

Tứ ám (mộ) lại chính là tứ vinh.

Địa Không: trộm.

Địa Kiếp: cướp.

Trộm cướp gặp nhau rất tâm đầu ý hợp.

Địa Không là không được.

Địa Kiếp là có rồi mất.

Không Kiếp gặp nhau an ủi nhau thôi thì tôi cũng như anh.

Tên khai sinh của Địa Không là Thiên Không. Sau này nhập tịch Việt Nam thì đổi thành Địa Không. Cho nên Không Kiếp bản chất là “của thiên trả địa”. Cái có lấp ló cái không.

Thiên Cơ là hỏi. Cự Môn là đáp. Cơ Cự gặp nhau là là có hỏi có đáp nên miếu địa.

Thiên Đồng là đồng ý. Cự Môn là phản đối. Đồng Cự là phản đối gặp đồng ý nên hãm địa.

Cự là gái trẻ. Cơ là trai trẻ. Trai trẻ gặp gái trẻ thì đăng đối.

Cự là gái trẻ. Nhật vượng là trai trẻ. Nên Nhật vượng thì Cự vượng.

Cơ là trai trẻ. Nguyệt vượng là gái trẻ. Nên Nguyệt vượng thì Cơ vượng.

Nhật hãm là trai già. Trai già gặp gái trẻ thì khó hợp nên Nhật hãm thì Cự hãm.

Nguyệt hãm là gái già. Gặp Cơ là phi công. Nên Nguyệt hãm thì Cơ hãm.

Đồng là đồng ý. Âm là im lặng. Đồng Âm im lặng và đồng ý.

Cự là hỏi. Cự Nhật là người đàn ông hỏi ở dần thân. Khi đó Đồng Âm là người phụ nữ đồng ý ở tý ngọ. Đó là tượng thuận vợ thuận chồng.

Nhật còn là thông minh. Nguyệt là hiền ngoan. Cự Nhật là hỏi thông minh. Đồng Âm là sự đồng ý ngoan ngoãn. Nhật khôn thì Nguyệt ngoan.

Đồng là cậu bé trai. Lương là cô bé con của Nguyệt vĩnh viễn tam hợp Nguyệt. Đồng Lương gặp nhau thì đăng đối. Đồng đồng ý, Lương thì lành vì là con của mẹ hiền (Thái Âm).

Cơ Cự Đồng Lương về động từ là hỏi đáp thuận tòng, về tính chất là linh hoạt hiền lành nhẹ nhàng, về giới tính Cơ Đồng là trai Lương Cự là gái. Về tuổi tác thì Đồng Lương nhỏ tuổi Cơ Cự thì thành niên. Tham Liêm là trung niên. Nhật Nguyệt thể hiện chung lúc già lúc trẻ.

Cơ Lương cũng là cách miếu vì Cơ thiện Lương lành. Cơ trai thành niên gặp cô gái nhỏ.

Nhật là ý chí. Nguyệt là tấm lòng. Trai cần khôn. Gái cần ngoan.

Tham Lang hình là thủy khí là mộc, tính dâm và tham lam. Khí mộc nên hợp với Hỏa Linh vì ngũ hành sinh khắc theo khí không theo hình. Nhưng tính dâm tham theo hình không theo khí. Mang tính đào hoa nên tại tứ bại địa Tham hãm địa. Hãm vì tính dâm tham không được kiềm chế. Hãm vì Tham ưa lén lút ẩm ướt tối thui ở tứ mộ hơn là những nơi đường đường chính chính như tứ chính (cũng là tứ bại). Tại tứ bại Tham làm hủ hóa Tử Vi.

Tại tứ mộ nhất là âm mộ sửu mùi. Tham miếu địa vì tìm được bạn tình và không gian phù hợp đó là Vũ Khúc. Sự đam mê hào hoa của Tham gặp được sự khéo léo tài năng của Vũ Khúc. Sự bừa phứa của Tham được khuôn chỉnh bởi sự cương nghị của Vũ Khúc. Tính mộc của Tham được âm kim của Vũ khắc chế. Trong khi tính mộc của Tham khắc chế tính thổ của Tử Vi nên sự hoang tàng của con dê Đát Kỷ này khống chế hoàn toàn Trụ Vương cường tráng.

Nhiều bạn hỏi khi nào là tứ chính, khi nào là tứ bại. Thực ra, chính và bại chỉ là hai cách gọi khác nhau của cùng 1 sự. Tuy nhiên phân tiếp theo âm dương thì Tý Ngọ là chính còn Mão Dậu là bại.

Tử Vi tại mão dậu bị Tham khống chế hoàn toàn. Đất mão dậu luôn là niềm đau của Tử Phủ Vũ Tướng.

Tại Tý Ngọ ít ra Tử Vi đóng cung dương và tại ngọ Tử Vi tại chính vị ngôi cửu ngũ chí tôn.

Cũng như tứ mã tứ sinh dần thân tị hợi. Tử Vi ở dần thân gặp Thiên Phủ được coi là tốt hơn tị hợi. Cho nên dần thân có thể coi là sinh địa. Còn Tử Vi cầm kiếm Thất Sát ở tị hợi. Thứ nhất là âm cung khó hợp tính dương của Tử. Thứ hai là khi đó đức vua phải chinh chiến. Cho nên tị hợi có thể coi là mã địa phù hợp hơn là sinh địa.

Đất tứ mộ cũng chia âm dương. Dương mộ là La Võng. Âm mộ là sửu mùi. Đối với Tử Vi tại la võng đi cùng Tử Tướng xung đối Phá Quân. Ít ra vẫn là cung dương và chính danh với Tử Vi. Còn tại âm mộ sửu mùi bị Phá Quân quấn chặt thành thần bất trung tử bất hiếu. Sự bất nhân của Phá thìn tuất vẫn đường đường là một người anh hùng chứ không ám tàng như Tử Phá. Đó cũng là tính chất khác nhau cơ bản của cung âm cung dương. Tại la võng Nhật Nguyệt cũng xung nhau quyết liệt chứ không quấn quít như sửu mùi. Cho nên nếu nói tính chất tứ mộ là kìm hãm sa lầy thì đó là âm mộ. Còn dương mộ có hẳn một tên khác là La Võng. Cái tên thiên la địa võng thể hiện phần nào tính chất khốc liệt của dương mộ. Dương mộ không phải chỗ hãm lại bằng âm mưu mà là chỗ khuất phục bẵng võ lực bằng bá đạo.

Trong lá số tử vi có 6 cung cùng là cung dương và 6 cung cùng là cung âm. Như cung mệnh tài quan phuc di thê là có cùng tính âm dương. Và 6 cung còn lại như phụ tử nô điền tật bào có cùng tính âm dương. Cùng tính âm dương thì có thể xung chiếu tam hợp với nhau, gây ảnh hưởng với nhau trực tiếp. Khác tính âm dương thì chỉ có thể gặp nhau qua giáp hợp hại. Nói cách khác giáp hợp hại là cách mà các cung khác tính âm dương gặp nhau. Các cung khác tính âm dương thì các sao phân bố ở đó cũng khác chủng loại tính lý. Nói cách khác các sao đó không bao giờ có thể cộng hưởng theo cách ngưu tầm ngưu mã tầm mã. Sự cộng hưởng của cùng tính âm dương là cộng hưởng gây tăng cường độ số lượng. Sự cộng hưởng khác tính âm dương là cộng hưởng gián tiếp, gây tốt hay xấu theo thời gian lâu dài chứ không ngay tức khắc như cộng hưởng cùng tính lý.

Có 5 cặp sao vĩnh viễn nhị hợp nhau như Phủ và Nhật; Cơ và Phá; Vũ và Nguyệt; Đồng và Tham; Liêm và Lương.

Tính chất của các căp nhị hợp không cùng loại mà cũng không đối nghịch chan chát. Vì dù sao không thể cộng cũng không thể trừ do khác thứ nguyên hay hông cùng loại. Chúng tồn tại song song với nhau như hai mặt của vấn đề. Cơ hệ thống hợp với Phá bát nháo. Khi Cơ miếu thì Phá hãm còn khi Phá miếu thì Cơ hãm. Nhưng ngũ hành của Cơ là mộc được âm thủy của Phá sinh trợ. Cơ và Phá cùng là sao âm. Tức âm dương ngũ hành của các cặp sao này thuận nhau. Nhưng sự đắc hãm là đối nghịch. Điều này hợp lý vì hai mặt của một vấn đề khó mà cùng tỏa sáng.

Phủ Nhật hỏa thổ tương sinh cùng là sao dương. Phủ chủ gom chứa ẩn giấu che chở, Nhật chủ tỏa sáng phát huy quảng bá.

Đồng Tham cùng là sao dương thủy mộc tương sinh. Tham chủ vơ vét tư túi, Đồng chủ phúc chia sẻ xởi lởi.

Vũ Nguyệt cùng là sao âm kim thủy tương sinh, Vũ chủ luồn lách khéo léo, Nguyệt lại chủ thu liễm an định.

Liêm Lương đều là sao âm, hỏa thổ tương sinh. Lương hình mộc khí thổ chủ lành chủ bao dung. Liêm chủ nguyên tắc hình phạt.

Các bộ sao lục hại vĩnh viễn gồm có: Tử vi Cự Môn; Cơ Tướng; Sát Nhật. Các sao Tử Cự Tướng Sát không tham gia nhị hợp chỉ tham gia lục hại. Với Tử Vi đó là sự cô độc chí tôn không cần sự ám trợ của bất kì ai. Với Cự Môn đó là sự chống đối bẩm sinh, không thích ai giúp và không thích giúp ai. Với Tướng Sát cũng vậy. Sát thủ cô độc Thất Sát và sự chấp chưởng hành chính không lôi thôi của Thiên Tướng.

Cặp Sát Nhật cùng là sao dương và hỏa khắc kim. Tính chất xây dựng quảng bá của Nhật bị đối chọi bởi tính hủy diệt của Thất Sát.

Thiên Cơ và Thái Dương là hai sao vừa hợp vừa hại. Nhưng Cơ hợp cái xấu là Phá và hại cải tốt là Tướng. Còn Nhật hại cái xấu là Sát và Hợp cái thiện là Phủ. Những sao như Đồng Lương chỉ hợp không hại, điều đó nói lên tính cách không tranh giành của Đồng Lương. Tham Lang tuy là tham trong tham sân si nhưng cũng không tham gia lục hại thể hiện cái xấu thụ động của Tham, cái xấu không áp đặt không tranh đoạt.

Từ hại hợp hiểu được tính trừ ác của Thái Dương và xu hướng theo ác của Thiên Cơ. Thái Dương tuy là văn tinh nho nhã nhưng dám tranh đấu với cái ác. Hình ảnh cho Thái Dương là các trí sĩ cách mạng như Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu. Họ đều là người có học và không phải tay dao súng nhưng không phải vì thế mà sợ ác phụ tà.

Cũng hiểu sự chống đối bất mãn của Cự Môn khi công khai bác bỏ ngôi của Tử Vi. Mặc dù bị thổ của Tử Vi áp chế nên sự chống đối của Cự là vô lực nhưng dù sao đức vua chắc chắn phải đạp lên miệng thế gian mà thi hành vương đạo.

Cặp đối xung vĩnh viễn Phá Tướng vừa hợp vừa hại với Thiên Cơ. Nhưng thế lục hại của Cơ Tướng lạ kì ở chỗ Cơ mộc được Tướng thủy sinh. Đây là cặp lục hại tương sinh duy nhất. Có thể nó mang hai hàm nghĩa. Một là phe chính nghĩa Thiên Tướng không thể bị khắc chế. Hai là Thiên Cơ cũng không phải sao ác. Hoặc cũng có thể tính hệ thống của Cơ cạnh tranh tính bảo thủ cơ chế của Thiên Tướng.

Nôm na có thể hiểu. Nhị hợp là hỗ trợ, sự hỗ trợ nhưng không tham gia cùng như đồng bọn (tam hợp). Hỗ trợ như cha mẹ hỗ trợ con ăn học nhưng cha mẹ không thi hộ được. Lục hại là sự cạnh tranh. Cạnh tranh nhưng không đối đầu hay hủy diệt nhau. Cạnh tranh như các bạn học cùng đi thi, như môn thể thao đua ngựa. Hợp và hại không cùng thứ nguyên nên không thể cộng dồn tăng lượng như tam hợp. Nhưng ảnh hưởng của nó không thể không xét đến trong tử vi. Có điều nếu cứ gom sao tả pí lù cùng với tam hợp xung chiếu tất sẽ sai và thêm rối.

Thế đối xung vĩnh viễn của chính tinh đòi hỏi hai chính tinh đó cùng 1 vòng Tử Vi hoặc Thiên Phủ. Phủ đối Sát và Tướng đối Phá, cho thấy sự đặc biệt nghiêm trọng của Sát Phá nên cần sự coi chừng trông nom của Phủ Tướng.

Thế nhị hợp và lục hại vĩnh viễn cần sự đóng góp của 2 chính tinh thuộc 2 tinh hệ khác nhau, 1 sao từ Tử Vi và 1 sao từ Thiên Phủ.

Tinh hệ chòm Tử Vi có một đặc điểm là không có sao nào vĩnh viễn xung chiếu sao nào, tất cả các sao đều xung với cung vô chính diệu. Và đặc biệt hơn, toàn bộ tam hợp xung ngôi Tử Vi đều không có chính tinh. Ví dụ ngôi Tử Vi ở tý thuộc tam hợp thân tý thìn thì tam hợp xung đối với nó ở dần ngọ tuất không có chính tinh nào thuộc chòm Tử Vi. Nói cách khác chòm Tử Vi không có nội xung và ngôi Tử Vi không chịu sự tương xung của tam hợp đối.

Thế nhưng Tử Vi có vây cánh vĩnh viễn là Vũ và Liêm. Thiên Cơ có vây cánh Thiên Đồng. Vây cánh từ tam hợp vĩnh viễn thể hiện đồng bọn đồng đảng hay chính bản thể sao đó ở vị trí khác. Như Nguyệt với Lương như Phủ với Tướng, cùng một gốc sinh ra, theo thời sinh vượng mộ khác nhau mà diễn hóa khác nhau. Các sao có tam hợp vĩnh viễn cơ bản là sao đa hình, có nhiều bộ mặt chứ không thuần nhất. Vũ hay Liêm cũng là bộ mặt hay trạng thái lúc nào đó của Tử Vi. Phủ hay Tướng cũng là hai bộ mặt của cùng một sự vật. Nguyệt hiền thì Lương lành.

Nhưng ngôi vị Thái Dương không tam hợp với bất cứ chính tinh nào trong chòm tử vi. Thái Dương cũng không xung đối với chính tinh nào. Nói cách khác Thái Dương duy nhất và đơn độc như mặt trời vĩ đại rọi ánh sáng về 3 cung tam hợp và chính chiếu với nó. Nó cũng không có bộ mặt hay biến thể nào khác. Phe xung đối Thái Dương có Đồng Cơ trong tam hợp khác với ngôi Tử Vi bất khả chống đối.

Từ bố trí chòm Tử Vi có thể thấy hình bóng quân thần khánh hội bất khả chống đối của Tử Vi và sự cô độc chí tôn của vầng Thái Dương ban phát ánh sáng vô lượng tới các cung.

Trong chòm Thiên Phủ, một mạch 7 sao liên hoàn. Tam hợp Sát Phá Tham vĩnh viễn xung tam hợp Phủ Tướng, Tham Lang ở vị trí dễ thở nhất không bị áp chế. Cự Môn là hình ảnh của Thái Dương bên chòm tử vi khi không tam hợp cũng như không xung chiếu với bất cứ cung nào. Trong tam hợp xung đối với Cự Môn là Nguyệt Lương một phe hiền lương vốn có. Dựa trên nguyên tắc bày sao của chòm Thiên Phủ thì Cự Môn phải mang tính tà ám xấu xa đối với tính hiền lành của Nguyệt Lương. Nếu Nguyệt Lương không tranh giành thì Cự Môn như cái hố đen hút sạch tất cả những gì tam hợp hay đối xung với nó. Nên tượng Cự Môn là cánh cửa lớn là cái mồm là hố đen chuyên hút vào. Đối lập với sự tỏa sáng của Thái Dương luôn ban phát tỏa ra. Cho nên khi Cự gặp Nhật sáng, Cự Môn no nê ánh sáng nên vượng địa. Qua đó thấy thêm sự ích kỷ của Cự Môn. Trước giờ người đời chỉ hiểu Cự là chống đối chứ không hiểu sức hút khủng khiếp của nó. Chính vì tính câu hút khủng khiếp mà nó rất hợp với các sao Không Vong như tuần triệt, mà dấu vết của tính chất này là cách cục Thạch Trung ẩn ngọc. Cự hút sáng vì nó là vùng ám tối. Cho nên chắc chắn không thể hợp với Hóa Kỵ chủ đêm đen và cũng là sao thu liễm. Cự Kỵ bị xếp vào phá cách là vì vậy. Cự Môn ghét sự ám tối của tứ mộ vì Cự đã ám vốn khát khao ánh sáng vào tứ mộ không thể khá lên nên Cự hãm tứ mộ. Ở tứ sinh, Cự nhận được ánh sáng từ Thái Dương nhưng sự miếu hãm của Cự tại tứ sinh phải nhìn mặt Thái Dương, nếu Thái Dương miếu thì Cự vượng nếu Thái Dương hãm thì Cự đói ánh sáng cũng hãm địa. Nhưng khi Thái Dương ở ngọ thì Cự hãm ở tuất, mặc dù cùng tam hợp. Điều đó cho thấy sự khác nhau của tam hợp và xung chiếu. Xung chiếu và đồng cung thì Nhật vượng có thể bù cho Cự thành vượng. Nhưng trong tam hợp thì không. Xung chiếu chính là rọi đèn vào trực diện, tác dụng ngay lập tức, còn tam hợp là hợp chứ không phải xung chiếu. Một Cự hãm dù tam hợp Thái Dương nói lên điều đó và nói lên rằng trong đội của bạn có những người giỏi và người kém, người giỏi đó không chuyển hóa người kém tốt lên, nhưng kẻ thù sẽ làm anh ta giỏi lên.

Và khi Cự gặp Cơ thì Nhật Nguyệt đồng cung sửu mùi. Cự miếu khi đồng cung với Cơ mặc dù Cơ không có ánh sáng như Nhật, phải chăng Cơ có 1 cái gì đó khác mà Cự cần được bổ khuyết. Cự có một nhu cầu nào đó được Cơ đáp ứng.

Tứ mộ bít bùng thì Tuần Triệt là sự trải rộng.

Tứ mộ là tối ám thì Tuần Triệt là sự quang đãng.

Tứ mộ trợ tối thì tuần triệt trợ sáng.

Cự Môn cần khoảng không và ánh sáng, một khao khát chính đáng và hướng thiện, như người tù trong địa ngục hướng về thiên đường rực rỡ cao xa.

Cự muốn đối cung của nó là khoảng trống, cho nên nó thích đối cung vô chính diệu như Cự Cơ mão dậu. Cự Nhật dần thân. Nếu đối cung là chính tinh thì mong sao đó là ánh sáng của Thái Dương ở tị hợi. Ở sửu mùi tuy Cự đồng cung với Đồng, đối cung là vô chính diệu nhưng hiềm là đất tứ mộ không phù hợp nên Cự hãm địa.

Cách đồng cung của Cự có Cự Đồng Cự Nhật Cự Cơ. Trong trường hợp Cự Cơ đối cung ở tý ngọ, cần sự hỗ trợ của Tuần Triệt để tạo khoảng trống, Cơ ví như tảng đá lấp mặt Cự Môn nên cách cục gọi là Thạch Trung Ẩn Ngọc. Nói về tính không của địa bàn thì tứ sinh hay tứ mã gần với tính không nhất. Trong khi tứ mộ tĩnh tứ chính chuẩn mực thì tứ mã thay đổi và chuyển động. Vì có bóng dáng tính không nên Không Kiếp thích tứ mã, tại tứ mã dần thân tị hợi Cự Môn cũng khá thoải mái với Thái Dương. Người cha kèm cô con gái. Đến cung mão dậu thì gả cho chàng trai trẻ Thiên Cơ. Người mẹ kèm chàng trai trẻ Thiên Cơ đến mão dậu thì trao cho cô gái trẻ Cự Môn. Từ cung tý Cự nhìn thấy tình yêu của đời mình ở Thiên Cơ ở ngọ, chàng tỏa sáng nhẹ nhàng làm Cự muốn nghịch chuyển không thời gian đến với chàng qua cây cầu Tuần Triệt. Đến sửu Cự Môn kết hôn với chàng trai Thiên Đồng ham chơi. Hai vợ chồng choảng nhau suốt ngày rồi ra tòa. Sang cung dần Cự về với người cha già Thái Dương tu dưỡng vá víu lại bầm giập của đời gái sau khi bị Thiên Đồng vầy vò. Trong khi đó Thiên Cơ cũng ngược đường ngược nắng về tìm Cự, và anh chị tìm thấy tình yêu của đời mình ở mão dậu. Hai vợ chồng buôn bán xuất nhập khẩu điên đảo chẳng mấy chốc thành cự phú. Rồi Cự gặp chồng cũ ở tứ mộ. Thiên Đồng giờ đã tướp như xơ mướp. Khi Cự đến tị thì người cha Thái Dương đã già ở hợi. Cự lại đến ngọ hướng về người chồng Thiên Cơ và mong sao nhịp cầu Tuần Triệt giúp họ đến với nhau.

Trong tử vi, các chính tinh cùng tam hợp vĩnh viễn như Tử Vũ Liêm và Sát Phá Tham thì tương sinh, đối xung như Phủ Sát và Tướng Phá thì tương hòa, lục hại như Nhật Sát hay Tử Cự mới tương khắc. Cho thấy sự đối xung dù trái ngược tính chất sao nhưng vẫn là sự tương hỗ lẫn nhau tạo sự cân bằng nhất định. Trong khi thế tương khắc của ngũ hành phản ánh sự khác biệt cả về tính chất và bất phối hợp. Các cặp sao miếu vượng đồng cung đa số là tương sinh tương hòa. Chỉ trừ có cặp Cự Nhật và Tham Vũ là có tương khắc. Các cặp sao cực hãm đa số nằm ở tị hợi mão dậu có trường hợp tương sinh như Vũ Phá, nhưng Vũ Phá đều là sao âm. Sự phối hợp hai sao âm như Liêm Phá hay Vũ Phá đều là sự cực đoan. Không tốt so với các trường hợp 1 sao dương 1 sao âm đồng cung.

Miếu hãm là sự tổng hòa của âm dương+ngũ hành+tính lý. Nhưng trên cái nhìn tổng quát ngũ hành tương sinh và tỉ hòa đa số tốt hơn tương khắc dù ngũ hành là bài toán gần đúng. Sự phối hợp cộng hưởng các sao đòi hỏi cần có sự phối hợp ngũ hành âm dương làm nền tảng.

Miếu hãm của sao là sự tổng hợp thực dụng nhất từ âm dương ngũ hành và tính lý. Nói về địa bàn thì đất có thổ công sông có hà bá. Tị hợi và mão dậu là địa bàn xảy ra chính tinh cực hãm nhiều nhất. Mão dậu là đất ưa thích của bại địa song Hao và Tang Hổ Hình Riêu. Tị hợi là đất ưa thích của Không Kiếp. Đã là cung âm và là đất ưa thích của sát bại tinh thì chính tinh cát tinh đến đó phải chịu tù túng hãm địa. Duy có Cơ Cự miếu mão dậu. Duy có Tử Sát tạm ổn tị hợi. Tuy là tạm ổn nhưng thế Tử Sát là một thế yếu của Tử Vi.

Ba sao có tính chất tiên thiên mặc định xấu của tử vi là Sát Phá Tham. Nó là hình bóng Mộc Suy Tuyệt. Trong đó Sát là Tuyệt, Tham là Mộc Dục và Phá là Suy. Sát Tuyệt nên hoành hành cung tứ tuyệt, miếu ở dần thân và đắc ở tị hợi. Tuy nhiên là sao dương nên thoải mái nhất ở dần thân. Tham lộng hành ở tứ bại áp chế và hủ hóa Tử Vi. Phá bất nhân nghịch tử ở tứ mộ và ngụy quân tử hóa Tử Vi. Ở cung âm trong trục sở trường, 3 sao trên đều đồng cung Tử Vi.

Đã là 3 sao xấu. Cho nên khi hãm địa là xấu nhất. Và sự xấu nhất nằm trên tị hợi mão dậu. Trục tị hợi có thể gọi thay bằng trục sát. Trục mão dậu có thể gọi thay bằng trục bại.

Cực hãm có thể phản hóa thành kì cách, nhưng cũng có thể Hóa Kị để tồi tệ thêm. Như Vũ Phá tuổi nhâm, Liêm Tham tuổi quý là cách cục Kình Đà hiệp Kị điển hình. Tử Tham tuổi Quý là cách cục Tử Tham song Hao Kị. Thế Hóa Kị của Tham luôn có Hóa Lộc từ Phá Quân tam hợp. Cũng như tuổi Nhâm thế Hóa Kị của Vũ luôn có Quyền của Tử Vi tam hợp.

Nói cách khác trong Quyền của Tử Vi có tàng Kị. Trong Lộc của Phá Quân cũng có tàng Kị. Tuổi Giáp thì Liêm Hóa Lộc luôn có Vũ hóa Khoa củng cố. Tuổi Bính có Lộc Quyền song hành. Tuổi Đinh có Khoa Quyền song hành.

Như vậy là có đủ các cặp:

Lộc Quyền

Khoa Quyền

Lộc Khoa

Lộc Kị

Quyền Kị

Mệnh tuần thân triệt Cơ Nguyệt Đồng Lương

Mệnh triệt thân tuần cần vô chính diệu

Mệnh trước, thân sau. Triệt tác dụng mạnh 30 năm đầu. Tuần dai dẳng cả đời. Vì sao có con số 30 vì thời gian chỉ có số 60. Chia đôi hai nửa thì 30 thuộc nửa đầu. Con số 30 của triệt nói rằng triệt khỏe mạnh 30 năm đầu.

Cho nên mệnh triệt thân tuần là chính cách không vong. Như trứng gặp trứng, đá gặp đá. Sách Thái Thứ Lang cho rằng mệnh triệt thân tuần thì cần vô chính diệu là vì vậy. Vì không vong khi đó là chính cách.

Nói về thời gian thì sát tinh bộc phát sau đó tàn phai. Cát tinh thì bền vững ổn định. Trong tử vi cát tinh nhiều hành thổ và Tả Hữu Xương Khúc đều đắc ở tứ mộ. Biểu tượng thủ lãnh của tử vi là ngôi Tử Vi cũng được gán hành thổ. Vị phó vương thiên phủ cũng được gán hành thổ. Trong môn tử vi, thổ đại diện cho trung dung đại diện cho chuẩn mực. Như Tử Vi là điểm chuẩn của 14 chính tinh. Lộc Tồn là điểm chuẩn của chính vị thiên can. Thể hiện sự ổn định bền vững. Tử Vi tốt nhất gặp Lộc Tồn chứ không phải Khoa Quyền Lộc. Phủ Tướng thậm chí không cần Khoa Quyền Lộc.

Ngoài đời thực cũng vậy. Cái gì gian ác hay xảo trá ban đầu hoành hành rất mạnh, nhưng về lâu về dài, ảnh hưởng càng kém dần. Nói cách khác cái gì không có sự bền vững là sát tinh. Cái gì mưu mẹo chỉ có tác dụng nhất thời. Về lâu về dài, những cái hào nhoáng đó bong đi mất chỉ còn cốt lõi bản chất thủ diễn. Mới đầu đi tán gái hỏi vợ, tay xảo trá bóng mượt chiều lòng. Khi đã đạt mục đích hay không đạt mục đích. Chúng lật lọng giở dói. Vì sự tốt đó không phải bản chất của chúng mà vì mục đích chúng phải giả tốt. Vì sao thiên hạ bị lừa. Vì mới đầu bọn đi lừa có một túi đường. Chúng ném cái chóc vào tai con mồi. Đường rơi xuống tim nở hoa. Cô gái tin tưởng giao tiền bạc và thân thể cho chúng sử dụng lạm dụng rồi chán rồi thì chúng chà đạp.

Cho nên Hoàng Thạch Công phải thử Trương Lương 3 lần mới giao sách. Thử 3 lần xem độ nhẫn có dài không. Thử 3 lần xem tâm có suy chuyển không. Thử 3 lần xem lớp sơn tử tế có bong ra hay không. Gia Cát cũng phải thử 3 lần xem Lưu Bị có nhẫn không. Hay khi ông cần thì ông cần vậy. Lúc bất cần thì khỏi vòng cong đuôi. Sự nhẫn chính là độ bền mà nó không có ở sát tinh nhất là sát tinh hãm địa. Trong tư duy của người kém thành công, có điểm chung là thiển cận. Thiển là nông còn cận là gần. Không nghĩ sâu và không nhìn xa. Nếu chúng ta cứ nhìn sâu và xa mãi thì chúng ta đều là người lương thiện. Vì lương thiện là sự cư xử cân bằng. Vì nhìn xa mãi thì gieo nhân nào gặp quả đó. Không thể khinh suất coi thường.

Điểm chung của Lê Văn Luyện, Nguyễn Đức Nghĩa, Nguyễn Hải Dương là sự manh động không tính hậu quả. Đó cũng là đặc tính của sát tinh. Là sự vô trách nhiệm với việc mình làm. Thường thì người ta vì cái lợi trước mắt mà sẵn sàng thiêu đốt tương lai. Vì cơn đói mà ăn mất bát thóc giống. Sự cân bằng giữa lâu dài và tức thời chính là hạnh phúc.

Cát tinh, người tốt có điểm chung là sự bền vững lâu dài. Đòi hỏi chữ nhẫn. Đòi hỏi thử thách. Theo thời gian cái gì bên trong cùng sẽ biểu hiện và lộ ra sau cùng. Cho nên cần thời gian. Cần thời gian để trồng cây, để xây dựng một thương hiệu, hay phát triển nghề. Chúa cũng cần thời gian để truyền giáo. Ngày đầu bị truy quét cực kì gian khổ. Nhưng cái tốt cái đẹp luôn may mắn rơi vào kẽ đá và mọc lên. Vì cái tốt kiên trì hơn cái ác. Triệt rất mạnh mẽ 30 năm đầu. Nó thuộc kim cho đúng tượng con dao hay dây thép. Đã siết là thành hình và có tì vết. Nó áp mệnh thì tác dụng rất mạnh mẽ triệt để, cho nên mệnh cần vô chính diệu mới hợp cách. Còn tuần áp mệnh thì mức độ không mạnh như triệt. Các sao mềm như Cơ Nguyệt Đồng Lương có thể chịu được. Trong đó Đồng Cơ là một bộ tam hợp. Nguyệt Lương là một bộ tam hợp. 4 sao mềm nhất tử vi lý số.

Có người hỏi khi nào có thể phản vi kì cách. Chỉ có thể phản vi khi có yếu tố dương. Không có dương thì không thể phản vi. Như Không với Kiếp, phản vi chỉ có thể là Không. Hai tên bất lương Không Kiếp thì Không có đầu óc và thích lọc lừa. Kiếp khỏe chân tay và thiên về cướp bóc. Nói với Không, khuyên nhủ Không và chuyển hóa Không dễ hơn Kiếp. Không thuộc dương có sự bao quát dù cực đoan. Kiếp thuộc âm có sự cụ thể và chi tiết. Sát tinh âm như cái xấu đã thành hình khó mà chuyển hóa. Sát tinh dương như cái xấu mới sinh còn có thể uốn nắn. Cho nên muốn phản cách phải có yếu tốt dương. Phải có cái mầm của sự vươn lên ở trong bùn thì mới thành. Dương mộc là cây còn sống. Âm mộc là gỗ đã chết. Cây sống có thể uốn, cây chết chỉ có thể đục và ghép mà thôi.

….

Con người có hai cực đại là sinh và tử. Sinh được mặc định là cát, tử được quy ước là hung. Cát hung là việc của bản thân mình còn việc sinh tử liên quan đến người thân thì gọi là việc hiếu hỷ. Trong đó việc hỷ là việc có thêm người. Việc hiếu là việc có người thân qua đời. Trong chòm thái tuế 12 cung, việc hiếu được đánh giá bởi tam hợp Tang Tuế Điếu, trong đó ý nghĩa của Tang Môn và Điếu Khách khá rõ ràng chủ việc tang và người tới viếng. Việc hỉ được đánh dấu bởi chòm Đào Hồng Hỉ với Thiên Hỷ vĩnh viễn xung Hồng Loan. Tang và Hỷ là hai tam hợp liền kề nên không bao giờ xung chiếu nhau tạo cảnh dở khóc dở cười tróe ngoe.

Thiên Hỉ cũng được bố trí để không gặp được Thiên Mã. Nhưng chỉ khi đóng ở tứ chính là Hồng Hỷ không gặp Cô Quả. Còn lại Hồng Hỉ luôn gặp cô quả. Tức là có vui nhưng cô đơn.

Xét kĩ hơn thì Tuế Hổ Phù chủ cãi vã tranh chấp. Tang Tuế Điếu chủ tan buồn. Đào Hồng Hỉ chủ vui vẻ. Và Âm Long Trực chủ không cạnh tranh mà an phận.

Tức là có 4 thái cực: cạnh tranh, an phận, vui, buồn. Vui buồn có lẽ là hai thái cực rõ ràng. Còn cạnh tranh hay an phận đều gây nên những ấm ức. Tuế Hổ Phù ngoài nghĩa cạnh tranh có thể gọi là THẮNG. Còn Âm Long Trực ngoài nghĩa an phận có thể gọi là THUA. Vậy là có Vui, Buồn, Thắng, Thua.

Thắng thua xong lại vui buồn

Buồn vui rồi lại mưu cầu thắng thua

….

Cái gì hợp với Không sẽ ghét Mộ. Cái gì hợp với Mộ sẽ ghét Không. Vì Không là giải tỏa phóng khoáng thì Mộ là kìm nén tích tụ. Không là rộng thì Mộ là đọng. Không là cho thì Mộ là giữ. Nhật Nguyệt cần khoảng không để soi rọi. Nhật Nguyệt ghét tứ mộ o bế. Đồng Cự thích Không để đồng thoáng cửa mở, nên Đồng Cự ghét tứ mộ vì Đồng tắc còn cửa đóng. Hóa Kị thích tứ mộ an tĩnh như con mèo lười. Hóa Kị ghét Không thành mông lung. Nếu không gặp Không thì ít ra gặp tứ mã tung hoành. Quý nhân không cư tứ mộ nên Quý Nhân chẳng ngại Không Vong. Các cát tinh thích an định ở tứ mộ nên các cát tinh chẳng cần quý nhân. Quý nhân là dành cho hiểm cảnh. Tứ mộ như phe của bên bảo thủ bên có sẵn bên đang nắm quyền, chứ tứ mộ không hợp cho phe cách mạng. Cách mạng thích tứ mã xung động. Không Kiếp là sao âm nên thích tị hợi hơn dần thân. Đồng Lương phe chính nghĩa thích dần thân cung dương hơn tị hợi. Khi mộ gặp không vong thì không vong phá mộ. Dương mộ cứng như đá ong nên gia La Võng khẳng định. Âm mộ nhão như bùn lầy. Nên Triệt Kình phá La Võng vì Triệt chủ cắt phá chia tách. Âm mộ nhão nhoét nên cần Tuần để thu hút đóng khung. Cho nên Nhật Nguyệt ở sửu mùi cần triệt chia tách tại bản cung. Nhưng cung vcd ở mùi thì cần tuần để thu hút ánh sáng Nhật Nguyệt.

….

Sự cộng hưởng của các vòng sao trong tử vi cũng tương tự sự cộng hưởng các yếu tố trong đời. Ví dụ sự cộng hưởng của thời gian của sức khỏe của sự nghiệp của gia đình. Nếu thuở sức khỏe tốt mà tiền bạc sự nghiệp cũng tốt, gia đình cũng đầm ấm là lí tưởng. Còn nếu không có sự cộng hưởng. Ví dụ lúc khỏe thì nghèo, già rồi không mấy thời gian lại giàu thì không có mấy thời gian hưởng. Lúc khỏe thì nghèo lúc giàu thì yếu tiền cũng chỉ để chữa bệnh. Lúc nghèo thì cả nhà sum vầy. Giàu rồi gia đình li tán. Cho nên sự cộng hưởng của các vòng sao là quan trọng. Lúc lên được tất cả cộng hưởng nên năng lượng rất mạnh. Lúc xuống thì sự cộng hưởng năng lượng xấu cũng tạo ra sự chấm dứt gọn gàng. Cách cục Trúc La là sự cộng hưởng sát tuyệt của các vòng sao Trường Sinh (Mộc Suy Tuyệt); chính tinh ( Sát Phá Tham); Thái Tuế (Đào Hồng Không Sát). Khi đầy đủ các yếu tố thiên địa nhân, sự sát sẽ xảy ra. Đó là cốt yếu của cách cục. Cách cục cần có sự phối hợp của các vòng sao thuộc tam tài chứ không chỉ 1 tài thiên hay địa hay nhân.

Bạn xét thử Linh Xương Đà Vũ?

….

Trời tròn đất vuông. Tự nhiên tròn. Khoa học vuông. Nếu thứ nguyên của vuông là 1 thì thứ nguyên của tròn là pi. Nếu thứ nguyên của tròn là 1 thì thứ nguyên của vuông là pi. Thứ nguyên của vuông và tròn không thể nào cùng là số nguyên. Pi là số vô tỷ. Cho nên khoa học mãi mãi chỉ tiệm cận tự nhiên. Không tài nào trùng khít. Nguyên tắc lề lối xã hội loài người cũng vuông. Luật pháp loài người cũng vuông. Đời thực thì lại tròn. Con người từ xưa đã phát hiện ra sai khác này nên đã bỏ vuông mà theo tròn. Đó là những người đi tu. Đó là sự phát biểu Đạo khả đạo phi thường đạo. Đạo là hình tròn không thể mô tả bằng hình vuông dù số hình vuông là rất lớn. Người theo tròn thì thờ chân lý. Người theo vuông thì thờ chiến thắng. Người chiến thắng được gọi là thành công. Còn người theo tròn thì không có thành công. Vì không có thành công nên không có thất bại. Nhưng Phật phải ở trong chùa. Phật phải ở trong đời.

Có đạo thì cũng có đời

Đời không muốn thấy đạo truyền ở đâu

Vì tròn nên đời không hiểu đạo. Khi kể về đạo phải dùng vuông để kể thì đời mới hiểu. Vuông là ngón tay chỉ. Tròn là mặt trăng. Vì tròn nên không thể nắm bắt không thể đặt để. Nên tròn phải được bọc bên ngoài là vuông. Để có thể đặt để trên bàn trên kệ thờ cho người đời ngắm nhìn tròn.

Nhìn vuông là để ra tròn

Thấy tròn là lúc chẳng còn thấy vuông

Cự là trả lời. Cơ là hỏi. Không hỏi mà trả lời là vô duyên cho nên Cự gặp được Cơ là miếu địa.

Cự là logic. Cơ là con số. Cự gặp Cơ là vừa có số vừa có lý. Cự không thì thiên về logic. Cơ không thì thích cụ thể. Cho nên Cự Cơ thành kì cách. Nhiều nhà toán học có Cự Môn ở mệnh. Cũng nhiều thầy giáo dạy toán có cách cục Cơ Không Kiếp.

Cự là nói. Cơ là suy nghĩ. Cự Cơ là nói có nghĩ.

Càn là càn rỡ. Khôn là khôn ngoan. Li là li tán. Khảm là hợp vào. Tốn là tốn kém. Cấn là lấn cấn. Chấn là chấn động. Đoài là đòi hỏi.

Tưởng đùa mà thật.

Mệnh là cái đầu. Thân là đôi tay. Phúc là tâm.

Không Kiếp là dối trá. Hỏa Linh là điên loạn. Kình Đà là cố chấp.

Tâm thiện đến đâu, phúc sâu đến đó.

Tâm nhẫn đến đâu, phúc lâu đến đó.

Tuần là bùng binh. Triệt là đèn xanh đèn đỏ. Một cách hóa giải xoay tròn. Một cách hóa giải ngăn chặn.

Bùng binh là một sự ngăn trở đối với đường thẳng và sự nhanh. Nhưng bùng binh là cơ hội để các xe chuyển hướng an toàn.

Đèn giao thông là sự ngăn trở của đường thẳng và sự nhanh. Nhưng cũng là cơ hội để các xe chuyển hướng an toàn.

Đối với các xe không muốn chuyển hướng thì Tuần và Triệt là sự cản trở. Tuần thì chuyển chậm và liên tục. Triệt thì đóng mở đóng mở. Sự xung đột của Sát Phá Tham ở mức độ nào đó cần có sự hạn chế điều chỉnh của TT. Đây chính là các tổ lái đường phố. Tử Phủ là xe nguyên thủ trong nước. Nhật Nguyệt là xe nguyên thủ quốc tế. Tử Phủ Nhật Nguyệt ít thích Tuần Triệt.

Tiểu vận tốt trong đại vận xấu như ngày nắng trong mùa mưa.

Lá số bà Nancy Reagan cách cục Phủ Tướng triều tam không hội đủ Tả Hữu Long Phượng Lộc Ấn nên quý cách. Mệnh VCD ngoài Nhật Nguyệt có thể nhận sự đầm ấm của Phủ Tướng. Vì Phủ Tướng không hóa nên ưa thích Lộc Tồn. Vì VCD không vong nên ưa thích Mộc Suy Tuyệt.

Cơ bản những tranh cãi tồn tại vì người đời không chịu tìm cách cục khi xem một lá số tử vi. Quý? cách cục gì? Phú? cách cục gì?

Cách cục VCD đắc tam không hội song Lộc là kì cách. Nếu không có song Lộc mà chỉ có tam không thì nhiều ý tưởng, thông minh nhưng không có thành quả.

Lá số VCD của Trần Lập tại dậu được tổ hợp Tử Phủ Vũ Tướng khá tốt đẹp. Tổ hợp Nhật Nguyệt tịnh minh thiếu song Lộc và bị sát tinh xâm phạm. Đại vận Nhật Nguyệt phát mạnh nhưng mệnh VCD đến đại vận Sát Phá Tham là vận Trúc La nên gặp ác hạn. Mệnh thân nhiều sát tinh có Tuần Triệt án ngữ như bom Văn Phú nổ chậm. Hình thái cách cục giống lá số Lý Tiểu Long và John Lennon, sát tinh ngộ chế. Đến khi không thể chế thì tác họa.

Kì lạ cả thái tuế Lưu niên ĐV và tiểu vận đều hội cung tật. Phải chăng gợi mở một cách xem vận?

Tiểu vận có Riêu Y Bệnh Phù. Năm Bính Liêm hóa Kị xung tật. Kị thủ có thể thoát nhưng Kị xung thì khó né. Đại vận Bính Tý Liêm lần nữa hóa Kị xung tật. Xem ra không phải ngẫu nhiên mà Hóa Kị cố tình tác họa. Một bản mệnh vốn bị Kị xung ẩn tàng sự bất trắc sẽ đến trong cuộc đời. Đến vận liên hoàn Kị xung nữa thì không đỡ nổi.

“Lộc tùy Kị tẩu” cho biết rõ thế nào là Kị xung, thế nào là Lộc xung, thế nào là phát xạ, thế nào là thu liễm.

Nếu Lộc là ánh sáng thì Kị là con mắt.

Hóa Lộc thủ, Hóa Quyền chiếu và ngược lại Quyền thủ Lộc chiếu trường hợp nào tốt hơn? Trả lời câu hỏi cơ bản này là cả một nghệ thuật cầu kì.

Vốn có một Hóa Kị, lại thêm một Kị đến xung. Tốt hay xấu? Chọn đúng thiên đường, chọn sai ra đường. Đây cũng là một nghệ thuật cầu kì.

Cung vốn có Hóa Kị, vận có Hóa Lộc đến xung hàm ý tốt hay xấu? Chọn đúng là thiên đường, chọn sai là ra đường. Lại một nghệ thuật cầu kì.

Cung phu, cung nô, hay cung tử tức liên quan trực tiếp việc có người yêu nếu người đó chưa kết hôn?

Nhân có bạn nói về nhất lục cộng tông. Lưu ý nhất lục cộng tông là cặp đối ngẫu nhưng chỉ có một chiều thuận sinh là chiều nghịch của địa bàn. Nghĩa là xem phúc để rõ hơn về nguồn tử tức. Xem tật để rõ hơn nguồn phúc. Xem mệnh để rõ hơn nguồn họa. Xem tài để rõ hơn nguồn điền.

Nhưng cũng có nghĩa là xem tử để rõ hơn về hậu của phúc. Xem nô để rõ hơn về hậu của phối, cho nên có ý kiến cho rằng nô là vợ hai hoặc chồng hai. Cái đó đúng. Xem phúc để rõ hơn về hậu của họa. Xem điền để rõ hơn tiền có tích lũy được không. Bắc phái xem điền để biết có của tích lũy không. Xem họa để rõ hơn hậu của mệnh.

MỆNH —> HỌA —>PHÚC

PHỤ—>TÀI—>ĐIỀN

PHỐI—>NÔ—>MỆNH

Bạn có liên hệ gì duyên khởi duyên diệt của VẬN?

Đây cũng là một nghệ thuật cầu kì.

Cung số 6 là đối xứng của cung bên cạnh cung 1. Nói chung loanh quanh là chủ sự tiếp diễn. Cho nên nhất lục cộng tông nghĩa là cùng 1 tổ mà ra.

Nếu xếp các việc con người làm theo một thang bậc thiện- ác đúng- sai. Thì ranh giới thiện-ác đúng-sai sẽ được tâm lý con người quy ước là ở giữa. Dù cái thang đó có dài ra hay ngắn lại theo thời gian thì lằn ranh tâm lý luôn rơi vào giữa.

Luật pháp là sự quy ước cái ĐÚNG. Thế nào là ĐÚNG thì xem luật. Không đúng luật là sai. Nếu không có luật pháp thì không có căn cứ để xử đúng sai. Luật pháp thay đổi theo thời gian căn cứ vào thực tế và kinh nghiệm xử thế của loài người. Và luật pháp luôn có xu hướng tiệm cận chân lý nhưng không phải chân lý.

Người có đạo đức đơn giản là người tuân thủ luật pháp. Sống thời nào theo luật pháp thời đó. CÔNG LÝ là cái lý của công chúng. Công chúng là đa số xã hội. Họ quyết định thế nào là Đúng.

Luật pháp là giao ước giữa người và người với nhau. Để khi xảy ra chuyện thì căn cứ vào đó để xét và xử.

Người bị luật pháp giết là người bị người giết. Người chết già là người bị trời giết vì những quy luật hạn chế của sinh giới.

Thái Tuế là luật pháp, Bạch Hổ là công an, Quan Phù là viện kiểm sát.

Cơ bản thì số phận có hai phần. Phần do mình chủ động và phần do mình thụ động. Nỗ lực bản thân chỉ có thể thay đổi phần chủ động. Còn phần bị động thì vô phương. Mở rộng phần chủ động càng rộng càng tốt cũng là một cách thay đổi số phận. So sánh khập khiễng là nắm đằng chuôi. Gốc rễ là Tâm. Thân cành là Ý. Lá quả là hành động. Vì vạn vật đồng nhất thể nên cơ cấu bộ máy quốc gia cũng vậy. Tâm chính là ý thức hệ, cộng sản hay tư bản. Ý chính là ý thức hệ được diễn giải thành văn bản như Hiến Pháp Luật Pháp. Hành chính là sự thực hành những quy ước đó. Số phận phần chủ động được quyết định trực tiếp bởi hành động. Mối quan hệ này tuân theo quy luật tự nhiên. Hành động thế này sẽ tương ứng có hậu quả thế này. Hành động thế kia có hậu quả thế kia. Hành động thường theo thói quen. Hành động cũng chính là lựa chọn. Chọn làm cái này không làm cái kia. Chọn người này không chọn người kia. Hành động là chuỗi các lựa chọn. Lựa chọn thì bị quyết định bởi Ý. Ý chính là muốn hay không muốn. Ý bị quyết định bởi tâm. Tâm ác thì có ý giết người. Tâm thiện thì không nảy Ý giết người. Dù cả hai loại tâm có rơi vào hoàn cảnh như nhau thì lựa chọn cũng khác nhau. Trả đũa hay không trả đũa. Lấy hay bỏ. Thông minh là cấp độ của Ý. Sáng ý là thông minh. Tối ý là ngu. Thông minh là có tài. Có người tài mắt có người tài tay. Nôm na đều sáng ý. Tài là có làm được không? Đức là có nên làm hay không? Thông minh không có nghĩa là tâm tốt. Vì ý nằm dưới cấp độ của tâm. Ý như con sao. Sắc hoặc cùn. Tâm quyết định con dao đó nấu ăn hay chém người. Cho nên muốn đổi số phận thì tu Tâm. Tâm dẫn Ý tốt theo. Ý lại chỉ thân làm gì. Kết quả của hành động chính là phần chủ động của số phận. Biểu hiện của số phận thay đổi là thói quen thay đổi. Biểu hiện của số phận thay đổi là quan điểm thay đổi. Cụ thể là cách làm thay đổi. Ba cái đó chưa thấy thay đổi thì ta chỉ già đi và chờ may rủi của phần còn lại của số phận rơi xuống thôi.

Thanh kiếm cắm xuống là biểu tượng của quyền lực, sự răn đe. Kiếm chỉ lên trời là khởi nghĩa tấn công. Kiếm giương ngang là phòng thủ. Đó là tam kiếm.

Vì sao lấy vòng Thái Tuế làm thước đo các sao khác mà không lấy vòng Lộc Tồn? Vì vòng Thái Tuế không phụ thuộc vào địa bàn như vòng Lộc Tồn Bác Sĩ. Lộc Tồn ít ra phải né tứ mộ.

Vòng Trường Sinh còn phụ thuộc hơn khi Trường Sinh buộc phải đóng ở 4 cung dần thân tị hợi.

Các bạn học tử vi có phương pháp có hệ thống dù chưa giỏi rồi sẽ giỏi. Còn không có hệ thống, dù nay đoán trúng mai lại đoán trật cũng chẳng biết vì sao.

Thông thường tam hợp phái cho rằng xung chiếu và thủ là giống nhau. Nhưng tứ hóa phái cho rằng thủ và chiếu là khác nhau, thậm chí còn có một chiều. Đó chính là phép hội sao: sự phân biệt chiều hội chiếu.

Việc xem vận hạn cần có nguyên tắc. Có nguyên tắc mới hiểu căn nguyên. Như một người vốn có tính ăn cắp. Gặp được kho hàng mới nảy sinh lòng tham. Đến khi người gác lơ là mới thực hiện hành vi ăn cắp. Chứ không phải ai lúc nào thấy kho hàng cũng ăn cắp.

Xem vận cũng vậy. Hiện nay đa số xem vận từ ngọn. Thấy tiểu vận quét vào cung nào liền đoán sự việc liên quan cung đó. Thì làm sao trúng. Lá số lập nên cho biết tiềm năng ý hướng của mệnh tạo. Nhưng đó chỉ là cách cục chứ không cho biết cát hung. Đến đại vận thì những ý hướng đó bắt đầu nổi rõ hơn. Và trận địa bày sẵn. Khi lưu niên dẫm phải đúng kíp nổ. Sự kiện liền xảy ra. Như vậy sự kiện có gốc có thân mới có ngọn. Truy tìm từ gốc có thể dò được năm lưu niên ứng kì. Trong đại vận có khả năng phát quyền. Lưu niên tới kích hoạt sẽ phát quyền. Trong đại vận không phát quyền. Lưu niên tới đấm bùm bụp vào cung quan cũng không đổi. Xem tiếp về gốc của quyền. Như Quang Trung bẩm sinh là thiên tướng quân. Đến vận phát quyền sẽ khác hẳn người thường. Mình không có, đến vận mượn được chỉ là cái áo sặc sỡ bên ngoài mà thôi. Quá vận sẽ trở lại con số 0 ban đầu. Nên cơ bản lộ trình xem vận là Thiên- kết cấu lá số (chủ tư chất tiềm năng thiên khiếu sở trường), Địa- đại vận dẫn hóa (chủ cách cục và xu hướng cát hung), Nhân- lưu niên ứng kì (chủ cát hung). Xem trong đại vận có tín hiệu phát tài mới tìm lưu niên phát tài. Đại vận tuy vẫn là cách cục nhưng đã đóng khung ấn định cát hung rồi.

Trong cả rừng phú và sách, các bạn học tử vi hãy chọn cho mình những nhận định chuẩn mực (nói cách khác là ví dụ mẫu). Học thuộc và kiểm nghiệm nhiều lần nhận định đó. Sau tích lũy các nhận định đó sẽ hình thành yếu lĩnh của phép xem. Còn hơn lan man ôm đồm quá nhiều nhận định. Nếu cả quyển sách tóm lược vào 10 câu trọng yếu. Thì 10 câu đó là gì?

Hàng Long Thập Bát Chưởng cũng vậy. Đó là 18 chưởng tiêu biểu đủ để toàn diện cho phép đánh. Tuy là trong thực tế có nhiều biến hóa đa đoan nhưng con số 18 đủ để đại diện những trọng yếu. Nắm vững 18 phép đó có thể tự biến hóa toàn diện. Các tiền bối trải qua quá trình nghiên cứu và chắt lọc thấy rằng không thể rút xuống 17 chiêu, còn nếu để 19 chiêu thì thừa. Như một giáo trình ngoại ngữ, các vấn đề đưa ra là chọn lọc với mục đích là đơn giản nhất nhưng toàn diện nhất. Cho nên học trọn vẹn một giáo trình tốt hơn mỗi quyển học một tí.

Sách của Trung Châu tuy tỉ mỉ nhưng nhược điểm là dễ gây loạn. Nếu người đọc rút được những câu trọng điểm và từ đó nương vào thì đỡ khổ hơn.

Ăn mặc là hình thức, phòng ở là nội tâm. Macbook là hình thức, quản lý file là nội tâm. Cả hai đều quan trọng, nội tâm là bên trong nên theo thời gian sẽ bộc lộ ra sau.

Con đến trường để học tập. Học tập để khai phá tiềm năng của bản thân rồi sau này đóng góp xã hội. Giáo dục là để phát hiện sở trường và vun đắp sở trường, định hướng thành sản phẩm hữu ích cho cộng đồng. Chứ học tập không phải để hơn người, không phải để hơn con nhà hàng xóm như tiềm thức ăn sâu vào đa số phụ huynh Việt. “Mày cũng chẳng bằng con người ta”.

Theo chiều nghịch của địa bàn: quan —> mệnh —> tài. Cung quan là khí chất bên trong mệnh. Cung tài là biểu hiện bên ngoài mệnh.

Nói về đời thực, tiền tài là phục sức bề ngoài. Khả năng và khí chất ẩn ở bên trong.

Khi năm sinh gửi tứ hóa đến các cung. Các cung có 4 thái độ đối với hóa khí được gửi đến. Đó chính là tự hóa. Đây là mô phỏng chính xác nhất tâm tư của đời người. Khi người khác yêu (Hóa Lộc) bạn. Bạn có 4 cách đối đáp: yêu lại (Lộc), kiêu kì (Quyền), hòa nhã (Khoa), thu mình lại (Kị). Tương tự khi người khác đánh (Quyền) bạn, bạn có thể: cười nhăn nhở, đánh lại, phân bua, và sợ hãi. Bạn tươi cười chào (Hóa Lộc) người khác. Người khác có thể niềm nở lại, có thể kiêu, có thể chừng mực, có thể sợ hãi bị bạn lừa. Đó là phản ứng nằm ngoài ý muốn của ta.

Cho nên đừng có ngồi trách đời sao phũ với mình. Đời nó phũ chung với mọi người. Còn cách phản ứng với cái phũ đó là do mình

Điền của nô chính là nô của điền, đó là cung tài bạch. X của Y chính là Y của X với bất kì X hay Y là gì.

Hoá Kị cung phối ý là một người cũng thấy nhiều. Hoá Lộc cung phối ý là bao nhiêu người cũng còn ít. Hoá Kị là ghét, Hoá Lộc là yêu quá. Yêu quá hay ghét quá đều dẫn đến một kết cục chung. Điều này khác với nhận định truyền thống rằng cứ Khoa Quyền Lộc là tốt. Ai dè trong thực tế Lộc cũng cho kết quả li hôn. Cho nên hiểu bản chất cách cục và hiểu qua loa về cách cục cho kết quả sai một li đi một dặm. Tương tự thì Khoa Quyền cung phối cũng không hề dễ chịu.

Nếu tam hợp phái là phái của tam hợp thì tứ hoá phái là phái của chính xung.

Phụ mẫu của vợ mình là bố mẹ vợ chính là phối của phụ mẫu. Tức phối của phụ mẫu mình là ông bà thông gia của bố mẹ mình.

Tử tức của phụ mẫu chính là phụ mẫu của tử tức, hay chính là con dâu của bố mẹ mình, tức mẹ của con cái mình, tức vợ mình.

Bào của phụ mẫu chính là phụ mẫu của bào. Bào của phụ mẫu là cô dì chú bác mình, chính là phụ mẫu của bào tức bố mẹ của tụi anh em họ mình.

Tử tức cố định là con mình, thì Tử tức của phép di cung là con dâu con rể. Phối của mình là vợ mình, phối của bố mẹ mình là thông gia. Như vậy bản chất cung phối là thông gia.

Qua di cung anh em là anh em họ.

Nhờ đó ta biết phép di cung là phép “phối chéo”, âm với dương và dương với âm. Khi dương với dương là chính, âm với âm là chính, thì âm với dương là chéo. Trong đời thực có mối quan hệ bố mẹ vợ, anh em họ, chẳng lẽ trong mệnh lý không có.

Cát tinh hãm: tiền hung hậu cát, ví dụ Thái Dương hãm thành công muộn, đây chính là thiếu dương trong tứ tượng.

Sát tinh miếu: tiền cát hậu hung, ví dụ Không Kiếp miếu bạo phát bạo tàn, đây chính là thiếu âm trong tứ tượng.

Vận đến vòng Thái Tuế là đến thiên thời, vận đến tam hợp mệnh như được là chính mình. Cát hung là do trời nhưng sướng khổ do mình cảm nhận. Giả sử tam hợp mệnh không trùng tam hợp Thái Tuế thì ví dụ tinh giản nhất là: đến tam hợp Thái Tuế được làm vua, còn đến tam hợp mệnh được sống như chính mình. Làm vua là thành công nhưng sống như chính mình là hạnh phúc. Kiếp nhân sinh ảo diệu ở chỗ là được cái này mất cái kia. Đây chính là dạng thiếu âm thiếu dương trong tứ tượng. Người học thường bị loạn những chỗ này. Đây cũng là yếu quyết để xem vận. Tam hợp mệnh là một dạng “đúng” như tam hợp Thái Tuế thì nô và tật chính là “sai”, cho nên đặt Thiên Thương và Thiên Sứ làm dấu.

Theo nhất lục cộng tông:

Cung di là cung bào hậu thiên. Gọi là anh em xã hội, những người bạn quen từ xã hội.

Cung thê là điền hậu thiên. Vợ chính là gia đình. Người xưa gọi là hiền nội.

Cung phúc là tật hậu thiên, tử là phúc hậu thiên, tật là mệnh hậu thiên.

Cung quan là tử tức hậu thiên. Công việc là đưa con tinh thần. Đi nghịch nhất lục từ mệnh đến quan là 5 bước, bằng đi thuận từ mệnh đến quan cũng là 5 bước.

Cung bào là quan hậu thiên, là quan của cung điền. Về điền là về vườn. Bào là công việc lúc về vườn.

Khó khăn của tử vi không phải là tìm ra cái mới, mà sử dụng cái đã có đúng như vai trò của nó, sắp xếp cái đã có đúng như trật tự của nó, một cách đơn giản nhất.

Tang Tuế Phá cùng âm dương nhưng nghịch ngũ hành. So với dương tử phúc thuận ngũ hành nhưng nghịch âm dương, cái nào tốt hơn? Trả lời được thì bạn giỏi nhì thế giới.

Trước đây tư duy của chúng ta cho rằng Tuần và Triệt là cản trở, rồi tiến bộ hơn lại cho rằng Tuần Triệt là lực lượng điều chỉnh. Để rồi vẫn mơ hồ câu hỏi: vậy miếu địa gặp Tuần Triệt thì xem thế nào.

Bây giờ hãy thay đổi đi. Hãy nghĩ rằng TT là cách điều chuyển năng lượng khác đi. Nghĩa là miếu hay hãm khi gặp TT vẫn là miếu hãm. Nhưng ví dụ Tuần câu hút năng lượng Nhật Nguyệt về, vo lại, nén dần, nén dần, đến khi thật chặt thì mới làm một cái nổ bum. Đó, mới là Tuần Triệt.

Tuần tích tụ dồn nén đến cực hạn thì bung ra. Triệt vét sạch dốc sạch năng lượng đến cực hạn thì co lại. Triệt giống như dùng doping, kích thích và vét sạch sức lực dùng khi đó để ngày mai nằm bệt mệt mỏi gấp n bình thường. Tuần cộng, triệt trừ. Tuần già Triệt trẻ. Tuần muộn, Triệt sớm. Đó là cách sử dụng năng lượng của Tuần Triệt vậy.

Thái Dương ngọ nên gặp Triệt, Thái Dương tí nên gặp Tuần. Chân lí giản dị vậy thôi.

Không phải cứ số nào cũng lên chức là hay, số nào giàu là hay. Quan trọng là đi đúng con đường của mệnh thì cuộc đời sẽ hanh thông. Còn cứ chạy theo thói đời thì sẽ đau khổ. Xem tử vi để nhìn ra con đường của mệnh. Công chức hay binh nghiệp hay tá điền. Đi con đường nào cũng có cái hay riêng. Sự an phận của người hiểu và không hiểu mệnh ở chỗ đó. “Số tôi không giàu” từ người bi quan và người hiểu mệnh nói ra khác nhau ở chỗ đó. Phương Tây gọi là sở trường sở thích. Phương đông chúng ta gọi là Số Phận. Làm một bà nội trợ hạnh phúc chồng con thành đạt còn hơn bon chen làm bà công chức làng nhàng. Hạnh phúc là đi đúng con đường vận mệnh của mình. Không hão vọng, dù con đường số mệnh của mình nhàn hay vất vả. Chỉ cần là số mệnh của mình, mình sẽ đi hết con đường đó. Đó chính là kiên định, đó chính là cá tính, đó chính là đặc sắc. Đi đúng đường mình sẽ tôn trọng đường người khác. Anh đánh cá việc anh, tôi kiếm củi kệ tôi. Giúp được nhau thì tốt, không thì đường ai nấy đi. Vui với cái của chính mình sẽ thông cảm với cái của người khác. Tử vi giúp con người thấy được con đường vận mệnh.

Lưu niên Thái Tuế:

Hoá Lộc nhập/ xung mệnh còn Hoá Kị nhập/ xung thê: lấy vợ.

Hoá Lộc nhập/ xung thê còn Hoá Kị nhập/ xung mệnh: bỏ vợ/ vợ bỏ.

Vì sao? Phải chăng vì một khi phụ nữ họ đã nắm được Hoá Lộc, họ cần chồng làm gì? Không phải, mà vì sự vận hành của Lộc Kị, cái chúng ta nói với nhau thành công thức như trên chỉ để dễ nhớ.

Lưu niên phi Hoá Lộc nhập tật, Hoá Kị nhập mệnh thì năm đó báo hiệu là năm xấu. Đừng nhầm Lộc di mệnh Kị nhé. Lộc di mệnh Kị lại tốt.

Tất cả nhận định của tiền nhân trong tử vi đều đúng, vấn đề là đúng đến đâu?

Thái Tuế Lộc Tồn chỉ là cột mốc, lên hay xuống do thời vận. Thời vận thay đổi từ các dấu mốc đó. Lên xuống tuỳ trường hợp.

John Lennon, Nguyễn Cao Kỳ, Tưởng Giới Thạch, John Kennedy, Muhammad Ali, Tôn Trung Sơn đều “ra đi” trong đại vận Thái Tuế.

Vận trình như nắng mưa bên ngoài. Cái cây còn sống thì nắng mưa rồi cũng qua hết. Nếu cây đã chết, vào nắng sẽ khô, ngâm mưa sẽ mục. Vấn đề không phải mưa nắng mà là nội tại cái cây.

Trong tử vi cái gì là nội khí?

Các tình yêu thấy chưa. Chung quy cứ phải Hoá Lộc Hoá Quyền. Cho dù cực hãm, làm cái phản hoá là xong. Tự cường là tự do. Kể cả có Không Kiếp Hoả Linh, có Quyền Lộc là thành Tôn Trung Sơn vĩ đại. Tiền và quyền có thể sai khiến và sử dụng côn đồ cũng như quân đội. Tuy nhiên để bền vững phải có Khoa và Kị.

Địa chi cho biết cái gì. Thiên can cho biết như thế nào. Cho nên vận địa chi như lưu niên thái tuế và tiểu vận, dù xem cách nào cũng chỉ cho biết cái gì. Thiên can tứ hoá mới cho biết cát hung. Sự cát hung do tứ hoá biểu hiện cũng giản dị. Như đại vận cung mão của Mao Trạch Đông, mới nhìn thì Không Kiếp hãm địa VCD, nhưng đại vận có Lộc Quyền nguyên thuỷ và Lộc Quyền đại vận xung chiếu, đại vận đó thành công quyết định, đả bại Tưởng thống nhất Trung Hoa. Như số của Tôn dù có Hoả Linh Không Kiếp, có Lộc Quyền chuyển thành cát cách. Thành công trong con mắt người đời, đó là Lộc Quyền.

Thượng trung hạ cách của tử vi có thể nhìn thấy từ vị trí của tứ hoá nguyên thuỷ. Thông thường các tổ hợp như tứ hoá toàn phùng là cực mạnh, Khoa Quyền Lộc là mạnh, sau đó đến Lộc Quyền, rồi Quyền Khoa, Quyền Kị… Các tổ hợp thiếu Hoá Lộc yếu hơn các tổ hợp khác. Ví dụ như Khoa Quyền hay Quyền Kị đều không tồi nhưng không thể so với Lộc Quyền. Kể cả Lộc Khoa cũng là tổ hợp khuyết thiếu. Đôi khi đơn hoá hợp cách lại có tác dụng tốt hơn nhị hoá hay tam hoá lủng củng.

Quang Quý Thai Toạ là dạng hoá khí của tứ cát Xương Khúc Tả Hữu. Xương Khúc Tả Hữu khi hoá cũng có thể thành Khoa Kỵ nhưng không thể thành Quyền Lộc. Vì tiến hoá của XKTH đã là Quang Quý Thai Toạ. Ứng dụng là gì? Là các sao hoá khí có thể dùng làm cơ sở để xét đoán. Tinh đẩu khi chưa hoá cũng như cá chép, hàm ý và tình tứ chưa rõ ràng. Còn khi đã hoá, là rồng, ý tứ là rõ rệt, biểu hiện cũng đơn nhất, tính chất cũng tinh tuý. Cho nên tứ cát Tả Hữu Xương Khúc ít được nhắc đến, hay nói đúng hơn là không cần nhắc đến. Chỉ xét tương tác tứ vinh, tứ hoá và lục sát đã đủ bao hàm trong đó: chính là tương tác của cát tinh và sát tinh. Thêm Không Vong đại diện thiên hãm, La Võng đại diện địa hãm, Thương Sứ đại diện nhân hãm. Gộp là lục hãm. Quý tinh, tứ hoá, sát tinh, và lục hãm phơi bày là đầy đủ căn cứ xét đoán một lá số. Không thể thiếu sót.

Sinh 1 đến 6, thuỷ nhị cục

Sinh 7 đến 12, mộc tam cục

Sinh 13 đến 18, kim tứ cục

Sinh 19 đến 24, thổ ngũ cục

Sinh ngày 25 đến 30, hoả lục cục

Là chính cục.

Tháng chủ cung, ngày chủ tinh.

Hình: có vẻ bề ngoài là cái máy bay

Lý: bay được

Khí: nhiên liệu

Vận: may hay rủi

Dụng: tầm ảnh hưởng bao lâu bao xa, bao nhiêu quan trọng? Máy bay do thám không người lái tuy nhỏ nhưng tầm ảnh hưởng có khi hơn Boeing 747.

Máy bay mô hình bán cho trẻ em khá giống bề ngoài nhưng không bay được. Máy bay đồ chơi bay được nhưng tầm ảnh hưởng chỉ là đồ chơi, tầm ảnh hưởng chỉ là vài trăm mét, sức bền chỉ là vài chục phút.

Nhưng mà có hình rồi mới xét lý, có hình lý mới xét khí. Không có hình lý chỉ có mỗi khí thì như hồn không có xác nhập vào, như địa chi không có thiên can biểu hiện.

Lý là sự hợp lý, hợp lý về khí động học, hợp lý về trọng trường mới bay được.

Hình lý khí cần tương xứng với nhau. Nếu không cân xứng thì vô dụng. Khí vượng thì lớn, khí suy thì nhỏ, khí âm thì lâu, khí dương thì mạnh mẽ.

Lý trong tử vi là cách cục. Cách cục là tổ hợp có lý của vài sao. Cách cục đó thấm đậm khí âm dương ngũ hành thì mạnh mẽ, không thì hời hợt nhếch nhác.

Hình dáng: chuẩn cho vận động viên bơi lội.

Lý: bơi đúng kỹ thuật

Khí: yếu

Vận: đen

Kết quả: vô dụng

Khí: vượng

Vận: đỏ

Kết quả: 100 huy chương vàng Olympic

Nói về tam hợp phái có thể gói trong hai câu:

Bị rách nhưng lại có vàng

Tuy rằng miếu đổ thành hoàng còn thiêng

Cự Môn hoá Lộc: tán dương, khen ngợi

Cự Môn hoá Quyền: đe doạ, hạ lệnh

Cự Môn hoá Khoa: giảng giải

Cự Môn hoá Kị: oán trách

Cự Môn Không Kiếp: nói dối

Miếu hãm của tinh đẩu có giá trị đáng kể. Cho dù không gặp phản cách Lộc Quyền nhưng sự miếu đắc của sát tinh vẫn cho kết quả tốt đẹp. Cho nên nếu gặp Hoá Kị tứ mộ, hay Kình Dương tứ mộ đơn lẻ. Có thể nhận định đó là tốt. Miếu hãm của tinh đẩu dù sao cũng do Khí mà ra. Tinh đẩu là cái Hình, cách cục là sự có Lý, miếu hãm là một biểu hiện của Khí.

Bệnh tật thuộc về mộ. Ngưng đọng trì trệ. Cần gặp Không để khai phá sự ngưng trệ này. Nên bệnh nhẹ gặp Không thì khỏi, bệnh nặng gặp Không thì vong.

Chính tinh mệnh thân của con cái ứng với chính tinh cung tử tức của cha mẹ, hoặc cung mệnh thân của cha mẹ. Cho nên đôi khi vận cha mẹ mất chưa chắc đã động cung phụ mẫu mà động tinh đẩu chính là chính tinh mệnh thân của cha mẹ. Ví dụ cha mệnh Thiên Tướng đến năm mất thì vận người con nhập đúng cung có Thiên Tướng.

Cách xem tiểu vận cho tuổi âm cần được rà soát lại nghiêm ngặt.

Trước khi học cách xem vận cần nắm được học thuyết tam tài thì sẽ không bị thừa hay thiếu.

Không có một quy luật hay công thức nào đơn điệu như kiểu vận rơi trúng cung thê thì cưới, hay Hoá Kị xung thê thì li hôn, vì vận rơi cung thê có thể cưới có thể bỏ, Kị xung cung thê có thể cưới có thể bỏ. Bởi vì đó chỉ là một yếu tố. Cần có ít nhất ba yếu tố độc lập mới đủ cho hệ quy chiếu tam tài. Cho nên có những vòng lặp 10 năm hoặc 12 năm khi thiên can hay địa chi quay lại đúng như vậy nhưng sự kiện thì không giống nhau.

Đàn ông lấy vk rồi thì mang tượng Thái Âm.

Đàn bà lấy ck rồi thì mang tượng Thái Dương.

Vượng suy là quan hệ can và chi. Hợp phá là quan hệ can và can. Hợp xung là quan hệ chi và chi. Chung quy tử bình chỉ có hai loại quan hệ này, cùng âm dương và khác âm dương. Cho nên dụng thần cũng chỉ có hai loại: một loại theo vượng suy và một loại theo cách cục.

Mối quan hệ can can hay chi chi là mối quan hệ tiềm năng, tức là có thể xấu cũng có thể tốt, chưa thể kết luận. Ví dụ địa chi tương xung có thể kích phát cũng có thể huỷ diệt. Yếu xung mạnh là kích phát. Mạnh xung yếu là huỷ diệt. Mối quan hệ can- chi hay mối quan hệ vượng suy là mối quan hệ có thể kết luận. Nói cách khác quan hệ can-can chi-chi là quan hệ cần, quan hệ can-chi là quan hệ đủ.

Nhưng như vậy cho biết cách cục dụng thần cần xét trước. Sự mạnh yếu của cách cục được xét bằng vượng suy. Từ đó mà có cách cục cao thấp.

Trong bốn trụ thì năm ngày cùng tính âm dương. Tháng giờ cùng tính âm dương. Năm như phúc đức, ngày như bản mệnh. Năm là gốc mệnh của mình, là mình khi nhỏ. Ngày là mệnh sau này mình tạo ra được. Tháng là lực lượng phủ chụp mình quản mình. Giờ là lực lượng mình tạo ra và do mình quản. Nó như quan và tài của tử vi. Cho nên khi năm hay ngày bị vận tới xung. Sự ảnh hưởng là trực tiếp rõ ràng. Khi tháng và giờ bị xung, sự ảnh hưởng là gián tiếp và từ từ. Có thể ví dụ cực đoan như bản thân bị ốm và vk con bị ốm. Đều là ảnh hưởng nghiêm trọng nhưng một trực tiếp một gián tiếp khác nhau.

Mỗi tam hợp lấy một cung đại diện. Tứ tượng của tử vi có thể là: ta (mệnh), người (nô), phúc (phúc), hoạ (tật).

Thái Dương cư tỵ miếu địa nhưng là cung âm, vì thế bên ngoài có danh có tí rực rỡ, nhưng mà bên trong không có thực như bên ngoài. Ví dụ: có danh nhưng mà nghèo, hoặc có tài nhưng không gặp thời. Cái lệch về âm dương ảnh hưởng đến bên trong, đến sự lâu dài, chứ không dễ thấy như bề ngoài.

Thái Tuế chủ danh cho nên chủ cả dự. Danh là tiếng, dự là được người khác khen. Người thuộc vòng Tuế Hổ Phù đến chết cũng coi mình là chân lý, đến chết cũng không nhận sai. Thế nhưng tuế hổ phù không làm người đó chủ động trong hành động của mình. Con người có thể phân ra hai loại: sống chủ động và sống bị động. Trong tứ hoá thì Lộc Quyền là chủ động, Khoa Kị là bị động. Còn trong cách cục thì song Lộc là chủ động. Nhật Nguyệt chiếu hư vô có tam Không là đỉnh cao của cách cục Không Vong. Nó cấu thành bởi tam tài thiên địa nhân là: Không Vong, Nhật Nguyệt và song Lộc. Không Vong là môi trường cho vầng Nhật Nguyệt soi rọi, nhưng cần có song Lộc mới hoàn hảo. Sự có mặt của song Lộc nói lên sự chủ động. Hạt giống thành công của đời người.

Tử Vi cư ngọ vô Hình Kị

Giáp Đinh Kỉ vị chí công khanh

Vì Tử Vi khi đó gặp Lộc Tồn là tử vi chủ động. Tử vi Hình Kị là Tử Vi bị động.

Dương âm cùng tồn tại nhưng dương luôn thống âm. Xem nhé.

Đàn bà tuy đòi hỏi nữ quyền, bình quyền. Ok hết nhưng chung quy trong thế giới này đàn ông vẫn thống trị. Chị em nên mở lòng chấp nhận sự thực này nhé.

Thiên luôn áp địa. Khi cả thiên hà này hỗn loạn sao bay khắp nơi thì cái quả cầu bé nhỏ này cũng chẳng thay đổi được gì.

Bà cả luôn lấn át bà hai, vì chính quy. Danh chính thì ngôn thuận. Này Hà Hồ, chị cho mượn ck chị đấy nhé. Dùng xong nhớ trả chị còn cho người khác mượn.

Quân đội chính quy và cảnh sát luôn lấn át xã hội đen. Về lòng dân cũng như về bài bản hệ thống. Hơn nữa, quan mà đi ăn cướp vẫn dễ hơn bọn trộm cắp đường chợ.

Khoa học luôn lấn át huyền học (vì tâm lý con người). Khoa học là ánh sáng, huyền học là bóng tối. Bóng tối là nơi không có ánh sáng. Trong con mắt và ngôn từ người đời, bóng tối bị định nghĩa bằng ánh sáng. Huyền học cũng đang bị định nghĩa bằng khoa học. Thực ra, đó là nhu cầu chủ quan của con người. Chứ bóng tối và ánh sáng ngàn năm cùng tồn tại, không có nhu cầu định nghĩa. Ngay khi huyền học phơi bày được quy luật gì, người đời xếp cái đó vào khoa học. Thứ chưa biết và đã biết mãi cứ là hai mảng âm dương quyện với nhau.

Thực ra âm dương vốn không hơn kém gì nhau. Nhưng tâm lý con người ta phân biệt. Tâm lý chúng ta hướng sáng hơn tối, hướng khô hơn ướt, hướng thiện hơn ác. Chứ đối với Đạo mà nói, thiện hay ác chẳng khác gì nhau. Khoá sắt hay khoá vàng đều là khoá.

Vậy vì sao có âm dương? Vì con người tự phân biệt ra vậy. Để làm gì? Để có cái nói với nhau về vũ trụ. Một vũ trụ bản chất của nó là vũ trụ không lời.

Ngũ dương tòng khí bất tòng thế

Ngũ âm tòng thế vô tình nghĩa

Dương chủ ấn định xác lập. Như một nhân sĩ cách mạng đi theo lý tưởng của mình. Đó là lí do trai tráng rời bỏ gia đình đi tòng quân chiến đấu.

Âm như cảm xúc, đi theo bản năng và xu hướng mà bất kể lí do lí trí. Đó là lí do Mị Châu rải lông ngỗng.

Cho nên phản cách chỉ xảy ra với sát tinh dương như Địa Không, Kình Dương và Hoả Tinh. Quý cách có Kình Dương nhập miếu chứ không có Đà La nhập miếu. Âm tòng thế nên không thể sáng lập cái mới, không sáng lập cái mới thì không thể phản cách.

Khi mà những thứ mình thiết lập đã cho thành quả thì đời phải chùng xuống lấy đà. Khi đó phải thiết lập cơ sở mới, và cần có thời gian để thiết lập mới nở hoa. Chứ lúc đó còn u mê tiếc nuối thì suy nghĩ thoái hoá quá. Giống như bố mẹ cho nền tảng cung Mệnh, ba mươi năm hưởng tràn cung mây, rồi sang cung Thân đời mình mình lo, bố mẹ già mà nền tảng mới con xây chưa vững thì phải chịu khó khăn một thời gian. Xã hội cũng vậy, trải qua thời kì thiết lập các bộ luật thời đại, kiểu hình thái xã hội. Đến lúc cơ sở hạ tầng phát triển vượt quá thiết lập thượng tầng cũ thì phải thay đổi. Lúc đó người ta gọi là thời chiến hay thời loạn. Tử vi cứ ba cung thì lại đến mộ. Tứ sinh là sinh, tứ chính là vượng, vượng xong lại mộ để ẩn tàng để an nghỉ để xốc lại quần áo. Sau đó lại tứ sinh, tứ đẹp rồi lại tứ mộ tức tứ già.

Nhịp đời cứ lên xuống như hình sin. Lúc xuống không phải là thoái mà là lấy đà. Nên chuẩn bị lấy đà mới trước suy thoái không? Không. Vì lúc đó cái cũ chưa vươn tới đỉnh cao. Lộc Tồn thiết lập, Kình Dương vút rồi Đà La sa xuống, Lộc Tồn mới xuất hiện, Kình Dương lại vút cao.

Sát tinh là vũ khí. Kình là giáo dài, Đà là đao sắc. Hoả Linh là dùi cui điện, súng ống bom mìn. Không Kiếp là vũ khí người tức quần chúng cách mạng.

Cách tốt cần có 1 đến 2 sát tinh ngoài những cát và quý tinh khác. Tốt nhất là có một sát tinh. Hoặc hai sát tinh cùng cặp. Nếu cách cục không có sát tinh, chỉ như cái vỏ bề ngoài đẹp đẽ nhưng bên trong rỗng tuếch. Các tổ hợp chính tinh không phải Tử Phủ Nhật Nguyệt rất cần sát tinh yểm trợ. Lí do là vua chúa không cần mang theo đao kiếm nhưng cầm dùi cui điện cầm điện thoại cầm nút điều khiển bom, quan quân nhất định phải có vũ khí bên mình. Bách tính cũng cần cuốc xẻng xà beng để lao động. Cuốc xẻng xà beng tức Kình Đà. Búa liềm tức Kình Đà.

Quần cát ủng nhất sát thì đó là cực quý. Tưởng có một Linh Tinh kèm cát hoá. Bill Gates có một Linh Tinh kèm thượng cách Nhật Nguyệt tịnh minh song Lộc. Linh Tinh của Bill Gates là công nghệ thông tin. Tôn có đủ Hoả Linh Không Kiếp Lộc Quyền, nhưng sát tinh của Tôn hơi nặng nên tàn phá cơ thể không thể chịu nổi. Ôm cả bom dẫn theo quần chúng cách mạng thì thành trì ọp ẹp Mãn Thanh sao chịu nổi.

Tử Phủ Nhật Nguyệt hợp Hoả Linh. Hoả Linh là hương hoả là hào quang là ánh sáng của đế vương của thần phật. Bảo Đại có một Linh Tinh cung thân trong tổ hợp Tử Vũ Liêm. Tay cầm dùi cui điện làm trùm hai chục năm với Tử Vi đắc Lộc Tướng Ấn.

Cho nên Tử Phủ không hợp Kình Đà. Vua gì lăm lăm thanh kiếm, vua gì cầm cuốc xẻng xà beng của giai cấp công nông lên dốc. Kình Đà có vẻ là vũ khí trang bị của giai cấp bình dân như công nông binh lính, không phải thứ vũ khí hào hoa của giới thượng lưu.

Không Kiếp đi với Đồng là quần chúng cách mạng. Không Kiếp đi với Tướng là quân đội nhân dân. Không Kiếp đi với Phá Quân là tổ chức khủng bố. Không Kiếp đi với Tử Vi: đế ngộ hung đồ. Vì vua là ngôi chí tôn chính chủ, có bao giờ thích quần chúng cách mạng. Gặp phải lũ nữ tặc táo tợn thì thân trai còn đâu mảnh chip vắt hông. Lộc Tướng Ấn là ấn ngọc giáp vàng của hoàng thượng, cũng đời nào muốn lọt vào tay Không Kiếp thảo dân cho chúng bán đồ cổ làm món tiền như Đại Nam Quốc Ấn.

Có vũ khí rồi nhưng ta cần Lộc Quyền để sử dụng hiệu quả thành công món vũ khí đó.

Vậy công thức thành công là gì: thiểu sát + đa cát quý + cát hoá.

….

THIÊN: Phúc di thê: phúc là thiên, di là địa, thê là nhân. Nhờ hồng phúc dẫn dắt đến môi trường phù hợp gặp được cô vợ rốn lồi.

ĐỊA: Tật bào điền: tật là thiên, bào là địa, điền là nhân.

NHÂN: Phụ nô tử: phụ là thiên, nô là địa, tử là nhân. Cha mẹ phía trên, bạn bè xung quanh, con cháu phía sau.

Mệnh quan tài là BẢN NGÃ tại trung tâm.

Các vòng thiên địa nhân đều đi thuận.

Trong thiên vốn cũng có thiên

Địa kia nhân đó cũng ba bốn tầng

Hàng thiên cơ bản như bầu trời phủ chụp lên đầu chúng ta. Ở đó có mụ vợ rốn lồi mới đau. Nói vui vậy nhưng người xưa cho rằng vợ chồng là duyên tiền định, nó như phúc cũng vốn có sẵn từ trước. Hàng thiên cơ bản là khó thay đổi bằng sức người nhất trong các hàng và ảnh hưởng cũng lâu và rộng nhất tới đời giai chúng ta.

Hàng địa cho biết cảnh lúc nhỏ. Sức khoẻ rồi môi trường sống rồi anh chị em là những thứ quây quần ta lúc nhỏ. Chúng ta đến từ trời cao, được gieo xuống đất nảy chồi và do hàng nhân chăm sóc cai quản.

Cho nên dưới hàng địa là nhân. Trên có cha mẹ, xung quanh có bạn gái, dưới là con cháu. Mỗi người chăm sóc ta một thời kì và làm khổ ta vào thời kì khác. Cha mẹ chăm lúc bé, về già cần được chăm sóc lại. Bạn gái chăm lúc ta xa vợ và làm khổ ta khi vợ ở nhà. Con cái chăm ta lúc già và cần ta chăm lúc nhỏ.

Hàng thiên hay địa hay nhân tuy có tầng cấp nhưng đều có sự bá đạo riêng. Như quá khứ hiện tại và tương lai liên hoàn tiếp diễn không ngừng. Thiên của thiên là PHÚC, tức nhân. NHÂN của NHÂN là tử tức quả.

Phân hàng xem khó bị lầm. Như Tôn được hàng nhân nhưng mất địa. Tưởng được thiên địa lại hỏng nhân. Từ đó mà biết được nguyên hàm ẩn chứa sâu xa trong mỗi lá số.

….

Hôm nay quay lại nói chuyện về phúc đức hay còn là chuyện “thượng cách bất khả vô sát đáo”, tức trong thượng cách không thể không có sát tinh. Như thí nghiệm mouse utopia, khi chuột được nuôi trong điều kiện ăn uống đầy đủ chịch theo nhu cầu và không có sự đe doạ trong môi trường. Số lượng chuột tăng lên đến hai nghìn con nhưng sau sáu trăm ngày thì tuyệt diệt. Nôm na là trong cuộc sống không có đấu tranh, không có sự giành giật mà dễ dàng quá thì chủng loài cũng sẽ tuyệt diệt. Như các gia tộc khi đã phát triển đến cực thịnh thì con cháu bắt đầu suy kém. Có người giải thích vì cha ông anh hùng nhưng lấy vợ xinh vợ hiền nên con cháu cũng hiền lành mà thoái hoá. Kỳ thực không phải vậy, mà chỉ đơn giản là nhàn cư vi bất thiện. Cũng bộ gene đó nhưng môi trường đã không còn phải giành giật tranh đấu nữa. Đừng tưởng tranh đấu là vì miếng cơm manh áo. Sự tranh đấu giữ các hoàng tử cũng là tranh đấu. Sự tranh đấu của vị trí đứng đầu tập đoàn cũng là tranh đấu. Tranh đấu với bệnh tật cũng là tranh đấu. Khi không còn tranh đấu, sự sống cũng không còn. Trước đây tôi cũng bị mê say với những cách cục thuần cát của các thiên hoàng, những cách cục khủng khiếp Tử Vi cư ngọ vô Hình Kị, của tuổi Giáp Đinh Kỉ. Nhưng thời thuần cát của Minh Trị chỉ chọi dế và chơi gái. Đến thời sát đáo mới là thời của người anh hùng. Để quay ngược nhận định là cả một sự dũng cảm của người nghiên cứu. Khi tôi phát hiện thuần cát là man thư thì cũng là lúc mặt trời chân lý chiếu đến chân các bạn. Những gì chúng ta được nhồi nhét bấy lâu chỉ là nhữn mảnh vụn của chân lý. Sách viết gì thì viết cứ trái với cuộc đời là sách sai. Cho nên cơ hội phát triển hiện nay thuộc về mọi gia đình Việt Nam. Toàn quốc Việt Nam cũng là một đất nước đang phát triển và có nhiều vấn đề phải đương đầu. Nhân dân vẫn ham chịch ham đẻ chứ không như dân Nhật đỉnh cao: chúng tôi văn minh rồi giờ không đẻ nữa để cống hiến xã hội. Kệ các bạn thôi, Việt Nam mình vẫn đẻ tẹt chứ không chơi như chuột Utopia.

Có lẽ đó là lí do Bill Gates không để tại tài sản hoàn toàn cho con cái. Cũng may cho các cháu chứ không các cháu lại khổ một đời. Nếu có tài, các cháu thừa sức tạo được khối tài sản đó.

Có lẽ mong ước của người xưa là mong con cháu không bị lạc hậu với sự tiến bộ của xã hội, cuộc sống không quá khó khăn mà luôn có vấn đề để giải quyết. Có lẽ đa phần xã hội này đang hạnh phúc mà họ không biết. Và Việt Nam đang hạnh phúc mà Việt Nam không biết.

….

Các sao có cách an đơn thuần như an theo can năm chi năm là những sao hàng thiên. Nói cách khác đây là phông nền cho lá số. Tác dụng của những sao này mang tính chất tổng quát, và thường thể hiện tác dụng về lâu về dài. Ví dụ như vòng Thái Tuế Lộc Tồn. Người thuộc tam hợp thái tuế muốn tự mình làm chủ. Đó là nhận định đại cương cho toàn bộ cuộc đời. Chứ đời trai cũng có những lúc thân bất do kỷ long đong lắm chứ. Hoặc tam hợp Thiên Không trước thành sau bại. Là những nhận định cực kì đại cương. Không có tác dụng luận những sự kiện thay đổi nhanh như tiểu vận nguyệt vận.

Những sao sinh ra do phối hợp của nhiều yếu tố năm tháng ngày giờ thuộc hàng Nhân. Hàng Nhân cho biểu hiện tức thì, như chích kim thấy máu. Tứ hoá chính là sao hàng Nhân. Bắc phái thiên về thực dụng, hiện về hiện hữu cho nên gạt bỏ hết những sao hàng thiên, vì cho rằng có tác dụng không rõ rệt. Nam phái thì hơi sa đà vào các sao hàng thiên nên luận đoán tổng quát thì trúng nhưng xem vận thì mông lung.

Những gì nam phái ta coi trọng như Không Vong, La Võng, Thương Sứ, Sinh Tuế Lộc, Khôi Việt, Quan Phúc đều là các sao hàng thiên chủ bối cảnh. Giống như mệnh cục tỉ hoà âm dương thuận lý. Hay đó, đúng đó, nhưng bao quát quá, thầy xem không cứng dễ bị phản biện mà nghi ngờ cả chính mình.

Cũng như thuyết âm dương ngũ hành, đúng nhưng vì bao quát nên chung chung quá. Áp dụng không khéo thì dễ loạn tẩu. Còn cứ chích kim thấy máu mãi. Thấy máu đó, nhưng máu đầu hay máu chân?

Câu hỏi: sao hàng địa là những sao nào?

….

Nói thêm về Khôi Việt. Như bài trước nói rằng Khôi Việt đi với Hình Diêu thì trách phạt. Khôi Việt đi với Tả Hữu là giúp đỡ. Trong tử vi kinh nghiệm đã chỉ ra điểm này:

Việc người xích mích khá không?

Tử Vi Khôi Việt ba ông phải tìm

Nếu tóm gọn lại Khôi Việt là gì? Quý nhân thì kinh điển rồi. Khôi Việt lại biến Không Kiếp quần chúng cách mạng thành quân đội nhân dân chính quy. Khôi Việt lại là khôi giáp. Tức Khôi Việt là chính quy. Khôi Việt là công lý. Có Khôi Việt Tả Hữu là công lý đứng về phía mình nên thắng kiện. Nhưng sự đời phân chia âm dương. Khôi Việt chủ việc quan việc xã hội nên chỉ giải hoạ kiện cáo thôi. Còn bệnh tật không giải được. Bệnh tật hay mâu thuẫn gia đình thì Khôi Việt không giải được. Việc không phải việc quan, việc không phải chủ lý mà chủ tình thì phải tìm Quan Phúc. Tượng Quan Phúc là thầy tu là cố vấn tâm linh.

Khôi Việt không ở La Võng vì La Võng không có công lý. Thiên La là nơi biên ải, công lý trên mũi gươm. Địa Võng là thế giới ngầm, công lý nằm trên nắm đấm. Ở đó không cần thần công lý, chỉ cần bác sĩ là đủ.

Khôi Việt của tuổi Đinh tuổi Quý là thuận lý âm dương. Còn lại tất cả đều trái lý âm dương. Vì Đinh Quý an Khôi Việt ở La Võng nhưng Khôi Việt không ở La Võng nên phải né. Nghĩa là bản chất của Khôi Việt là trái lý âm dương. Là không cùng âm dương với Tuế Hổ Phù. Vì sao thần công lý lại không đi với bộ ba công an kiểm sát toà án? Vì Tuế Hổ Phù là định nghĩa của sự đúng, không cần thần công lý nhúng tay vô. Đã công an là phải đúng, nếu có sai cũng không đáng kể vì họ là người thi hành luật pháp. Chứng tỏ Khôi Việt là công lý thực sự chứ không phải luật pháp.

Khôi Việt là chính nghĩa nên làm đám đông Không Kiếp thành quần chúng cách mạng đấu tranh cho chính nghĩa.

….

Hiện nay người xem tử vi quá chúi mũi vào cung mệnh thân mà quên đi mất thế sao Tử Vi của toàn lá số. Tôi đã từng ngạc nhiên khi xem mệnh Phá Quân ở thân hãm địa đóng mệnh mà cuộc đời rất tài hoa và thành công. Bởi vì khi đó tôi chỉ chúi mũi vào Phá Quân hãm địa mà quên đi thế đứng Tử Vi cư ngọ hội tụ cát hoá quý tinh rực rỡ. Bài viết này từng chia sẻ trên tuvilyso.org để nhắc nhở cả một thế hệ hãy ngẩng lên một chút để nhìn rộng hơn một chút. Thế đứng của chính tinh mới chỉ số phận. Thế đứng của mệnh chỉ chỉ tính cách hình tướng, vận trình mà thôi. Một người cho dù Phá hãm ở thân nhưng Tử Vi của họ ở ngọ rực rỡ vẫn tốt số. Một người Thái Dương ở ngọ nhưng Tử Tham ở dậu lủng củng vẫn xấu số. Cái nhìn này sẽ giải thoát vì sao mệnh thân Sát Phá Tham thậm chí không có văn tinh mà lại thành học giả, bởi vì thế đứng Nhật Nguyệt của họ quá hoàn thiện và quá rực rỡ. Tính cách họ là Sát Phá Tham nhưng con đường họ chọn là Nhật Nguyệt.

….

Phá chủ si trong ba anh em tham sân si Sát Phá Tham. Vì si nên luỵ. Kẻ si tình cuối cùng là Phá. Nhưng trong si có phá nên không bền. Cứ chóng vánh chòng vành.

Lá số Elizabeth nhiều chồng không chỉ vì Thai Riêu Phục Tướng mà còn vì thân gặp Không Vong. Đàn bà hay đàn ông mệnh thân gặp không vong thì chuyện đời có nhiều thăng trầm thay đổi. Triệt gây đổ vỡ nặng nề, còn tuần gây đứt nối đứt nối nhập nhằng. Nguyễn Cao Kỳ mệnh triệt, Bảo Đại thân triệt, Lý Tiểu Long mệnh triệt, John Lennon thân triệt đều là các anh hùng lưng trời gãy cánh. Cho nên cái xấu của tuần triệt chắc chắn không phải bất tài rồi.

Tuần Triệt có thể nói là hai lực lượng tham gia trực tiếp vào định mệnh. Những người như Mao Tưởng Tôn Bill Gates mệnh thân đều né được Tuần Triệt. Mặc dù quan của Mao gặp Triệt cũng từng lên voi xuống chó, mặc dù tài của Bill gặp Triệt nhưng đắc cách và mệnh thân không gặp triệt tuần. Người mới xem tử vi khi luận cung mệnh của Lý Tiểu Long sẽ gặp cả đống bùng nhùng, không thể nào luận được đâu là phát đâu là sát.

Nếu có thầy nào xem số và phán: số anh mệnh thân gặp triệt tuần nên lưng trời gãy cánh, thì với người mới học là cả sự đùa cợt, sự đùa cợt mang tính cẩu thả. Nhưng không, khi mới lái xe không dám đi cạnh container vì sợ, sợ do lái kém. Khi lái giỏi rồi mới dám đi cạnh vì đã tự tin lái giỏi nên không còn sợ. Nhưng khi lái cực giỏi lại sợ không dám đi cạnh container nữa vì sợ, sợ vì cực giỏi nên biết ngoài cái ta có thể chủ động còn có cái ta không thể chủ động.

Chân lý giản dị tới mức làm người ta nghi ngờ.

….

Hai cung đối xung tuy là một nhưng chuyển hoá như con gà và quả trứng. Con gà đẻ ra trứng, trứng nở thành gà. Hai cung nhị hợp thì như lòng bàn tay và mu bàn tay.

Tài và quan là một cặp đối ngẫu. Tài chủ tư duy chi tiết. Quan chủ tư duy tổng quát. Quan như quần áo bên ngoài, tài như tiền trong ví. Thân cư quan trọng hệ thống, thân cư tài trọng góc độ. Thân cư quan trọng hình thức, thân cư tài trọng nội dung. Thân cư quan thích nói xa xôi, thân cư tài thích nói chuyện hôm nay và ngay ngày mai.

….

Tử sinh hữu mệnh, phú quý tại thiên. Có nghĩa là sống chết có mệnh, phú quý do trời. Mệnh là mạng sống, còn thiên? Trước giờ người ta hay hiểu thiên là trời. Đúng nhưng chưa rõ. Thiên là trời nhưng không phải ông trời bị Tôn Ngộ Không đánh cho chui xuống gầm bàn, mà thiên là các quy luật hằng có vốn có và tự có. Như quy luật trọng trường, quy luật lượng đổi chất đổi, quy luật nói quá hoá nhàm. Thì sự phú quý tức lợi và danh đạt được do bản thân có vận dụng tốt những quy luật tự nhiên hay không. Ai vận dụng tốt thì người đó thành công, chứ chẳng có ông trời đứng ra phát phiếu bé ngoan cho nhân loại. Chúng ta có sinh mệnh, trong thời gian hữu hạn của sinh mệnh chúng ta cố gắng xoay sở phát hiện tìm hiểu và vận dụng các quy luật tự nhiên. Đó chính là PHÚ QUÝ TẠI THIÊN. Cách sử dụng thời gian cá nhân, cách vận dụng hoàn cảnh của bản thân, chính là TẠI THIÊN. Trai ham sắc, gái ham tài cũng là TẠI THIÊN. Lạng lách đánh võng nhiều sẽ có ngày tai nạn, đó là TẠI THIÊN. Cuối đường dựng lắm chung cư, thì đường tắc đó là TẠI THIÊN. Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén đó là TẠI THIÊN. Tất cả đều là những quy luật của tự nhiên. Cho nên nếu không chủ động tiến bước một cách mạnh mẽ thì chẳng có ông TRỜI nào ban cho ta cái PHÚ QUÝ đâu. Chúng ta có lá số, lá số là bản đồ của những con đường. Bước đi do bản thân. Đi theo con đường này sẽ gặp hậu quả này. Đi theo con đường khác thì kết quả cũng sẽ khác. Không bước đi thì thời gian tự xô ta xuống hố. Chuyển động là sự ép buộc lên tất cả các sinh mệnh.

TẠI THIÊN, THIỆN TAI

….

64. Người có Tuần Triệt mệnh thân là những người mang tính cách ẩn. Cách hành xử của họ cũng ẩn. Ví dụ chọn hai con đường: một là đường lớn chính thống và có đèn giao thông, hai là đường ngóc ngách nhỏ hẹp và có nhiều khúc quanh. Họ sẽ chọn con đường thứ hai. Trong cuộc sống, họ cũng không thích đối mặt hay ra mặt khi phải xử lý vấn đề. Điều này tương ứng với tính hư ảo của Không Vong.

65. Người có Thái Tuế là người có bề ngoài đúng, người có Lộc Tồn là người có bên trong đúng. Cho nên Tuế mà không có Lộc thì như xác không hồn. Lộc mà không có Tuế thì như hồn không xác.

….

Tình yêu là một phần của cuộc sống. Với những người chưa có khả năng tự lập trong cuộc sống. Nói trắng ra là chưa tự kiếm ăn được, thì tình yêu của họ đi trên đôi nạng. Vẻ đẹp của tình yêu đó là vẻ đẹp trên đôi nạng. Đẹp tới mức chỉ tồn tại trên phim, trong sách. Chỉ cần hé cửa sổ, một cơn gió nhẹ cũng làm tình yêu đó méo mồm. Đẹp như đứa bé mà họ không phải nuôi, không phải chăm nó ốm, không phải chịu những lúc trái tính của nó. Một vẻ đẹp Long Phượng Hổ Cái thiếu vắng Lộc Tồn. Vẻ đẹp đó chỉ tồn tại được một thời gian ngắn khi cây nạng chưa sụp gẫy. Bảo sao thanh niên ngày nay nghìn like là các em đi đốt xe đốt nhà. Các em cứ bước ra ngoài đường lao động, các em cứ xuống ruộng trồng rau xem. Khi đó tình yêu của các em mới bén rễ sống động được. Còn không, có đẹp cũng chỉ là cái xác không hồn mà thôi.

Lao động rồi các em sẽ bớt những câu hỏi ngu đi, bớt tô hô chuyện người khác đi, khi nhìn xuống chân mình cũng toàn rác rưởi. Các em sẽ bớt phán xét về những việc các em chưa làm được và thậm chí x bao giờ tin mình làm được. Các em sẽ hiểu mấy thằng có tiền nó chỉ chơi các em đến chán rồi sút thôi. Vì vẻ đẹp không có sự lao động là vẻ đẹp thụ động. Thụ động thì nằm đó mà chờ nghen các em. Nằm đó, chờ, OK?

….

Địa chi cho biết mối quan hệ bề ngoài theo tôn ti ngôi vị, như vua tôi, như chủ tớ, như vợ chồng. Nhưng mối quan hệ đó là hoà hay bất hoà, là hư hay thực thì do thiên can tứ hoá thủ diễn.

….

Không Vong, sát tinh, Vô chính diệu cùng một phe, hợp nhau. Thấy không vong mà không có sát tinh, lại có chính tinh là không vong phá cách. Khi gặp Không Vong cần có sát tinh hoặc vô chính diệu hoặc cả hai. Trong đó cách cục Không Vong Vô chính diệu tốt hơn không vong sát tinh.

Tuần là nở rộng như Bigbang. Triệt là co thắt lại như dark matter (vật chất đen). Tuần giống Đại Quá, Triệt giống Tiểu Quá. Tuần hợp với các dương sát tinh như Hoả Kình Không. Triệt hợp các âm sát tinh như Linh Đà Kiếp. Tuần Triệt khi phối với sát tinh mà trái lý âm dương thì giảm độ số, giống như tay phải móc túi quần bên trái.

Cho nên Bảo Đại Đồng Khánh thân Triệt thì không nên làm vua. Làm rồi thấy như vua ảo.

Không Vong đắc cách thì có trí tưởng tượng phong phú. Phù hợp với triết học, tôn giáo, nghệ thuật. Không Vong phá cách thì hoang tưởng, nói chuyện và diễn đạt thiếu mạch lạc không đầu không cuối.

Nhìn các nhà lãnh đạo như Trump, Gates, Mao, Tưởng, Tôn đều không phạm Không Vong mệnh thân. Lãnh đạo mà có Không Vong mệnh thân cần xem lại cách cục. Phá cách thì chính là bọn hữu danh vô thực, đưa ra các chủ trương đường lối viển vông.

Bobby Fischer trí tưởng tượng siêu phàm, tuần triệt mệnh thân đồng cung rốt cuộc cũng là loại người sống ảo. Garry Kasparov mệnh thân đồng cung tuần cũng siêu phàm tưởng tượng nhưng ra tranh cử như trò hề.

Lý Tiểu Long mệnh triệt, Nguyễn Cao Kỳ mệnh triệt, John Lennon thân triệt, John F Kennedy thân tuần, Marylin Monroe thân tuần. Kết cục như đã biết. Thường thì mệnh thân tuần triệt ứng kì sẽ vào đại vận La Võng. Không Vong tối kị La Võng. Trừ khi La Võng có Không Vong án ngữ. Tất cả những nhân vật nói trên đều đổ vỡ ở La Võng. Phạm Gia Khiêm cũng hạ cánh ở Địa Võng với cung quan vcd triệt.

Không Vong chủ xuất thế như tăng đạo, không hợp với đời thực. Đạo cũng tốt, đời cũng tốt. Nhưng nửa đời nửa đạo là bọn dở hơi.

Giữa mệnh với thân, cả hai đều không ưa Tuần Triệt chứ không phải vì mệnh là tư tưởng thân là hành động mà mệnh hợp không vong hơn thân. Mệnh không vong như vô hồn, thân không vong như không xác.

Không Vong là đặc sản của tử vi việt, mỗi tội sau này rơi rụng, con cháu không biết xem. Cơ bản cũng do không nắm được lý âm dương nên khó trách. Độ số cách cục chẳng nằm đâu xa. Không Vong chính là một phần quan trọng xác định độ số. Mệnh thân tuần triệt hay tài quan tuần triệt rồi thì chỉ còn biết thở dài:

Ôi thôi thôi, chùa Tân Thạnh năm canh ưng đóng lạnh.

Giờ tôi mới hiểu, sự sĩ diện ở một số người không giống nhau. Có người sĩ diện vì họ đang tự cho rằng mình là người khác. Có lẽ họ cũng có Không Vong mệnh thân. Các thanh niên sống ảo.

Còn Không Vong đối cung khác gì Không Vong bản cung, cần một đẳng cấp nữa để bàn tiếp. Mà đến lúc đó không bàn cũng tự thông.

….

THÁI TUẾ NHẬP QUÁI

Thái tuế nhập quái là cách xem do đại sư Tử Vân sáng lập. Cách xem này sử dụng yếu tố ngoại nhập vào lá số tử vi để đoán định. Thông tin ngoại nhập chính là địa chi. Anh tuổi gì? tôi tuổi dog. Vậy là nạp chi Tuất vào xem.

Có bốn tổ hợp tương tác: tuổi với tuổi, cung với tuổi, tuổi với cung và cung với cung. Hôm trước Nguyen Huu Nhut Anthony có đưa ra cách xem tương tác cung với cung. Anthony là người có não, đương nhiên cách xem của anh ấy đưa ra rất hữu dụng. Để tìm được yếu tố cung, bắt buộc phải có lá số trong tay. Nếu chỉ biết được tuổi của người đó thì không thể xem được theo phương pháp cung-cung. Còn trong dân gian thì hay hỏi ai đó tuổi gì, rồi đối chiếu với nhau. Như tuổi mão xung tuổi dậu. Cách xét tương tác tuổi với tuổi không sai, nhưng thô thiển. Nói cách khác, nếu lá số tử vi lập ra từ 5 yếu tố: năm tháng ngày giờ và giới tính. Thì cách lấy tuổi xét tương tác chỉ lấy địa chi của năm sinh, đương nhiên thô thiển. Cho nên mức độ chính xác có phần giới hạn.

Quay lại cách xem thái tuế nhập quái của Tử Vân. Nói đơn giản là với lá số đó, thì khi nhập tuổi khác lên các cung, xét được tương tác của chủ nhân lá số với tuổi đó như thế nào. Ví dụ người có mệnh cung thân (khỉ) thì sửu với họ là cung nô. Với người tuổi sửu có thể làm bạn. Nhưng bạn như thế nào cần xem chi tiết các sao thủ cung sửu. Hay như tuổi tuất, mệnh an tại thân khỉ. Nếu chỉ xét tuổi thìn thì thấy thìn tuất tương xung, nhưng nhập quái trên lá số có thể thấy cung thìn là cung tài bạch. Lá số đó đối với người tuổi thìn có thể hợp tác làm ăn.

Sau khi nhập quái, các tuổi rơi vào tam hợp mệnh tài quan của lá số gây ra tương tác mạnh mẽ nhất, vì dù sao mệnh tài quan cũng là bản mệnh mình nhất thể chia ba.

Nếu tuổi người vợ nhập quái rơi vào cung nô của người chồng, thì đó là tình yêu đích thực.Melinda Gates tuổi Giáp Thìn nhập quái vào cung Nô của Bill Gates. Bill thực sự coi vợ mình chính là cô nhân tình (chắc là mãi mãi).

Nếu tuổi người vợ nhập quái rơi vào cung điền, không biết có tình yêu hay không nhưng người chồng đó là gia đình đích thực. Nếu tuổi chồng nhập vào cung điền trên lá số người vợ thì họ có duyên phận không nhỏ.

Nếu tuổi người vợ nhập quái rơi vào cung thê của người chồng, thì người chồng coi đó là nhân duyên đích thực.

Bà Ivana Zelnickova tuổi Kỉ sửu nhập mệnh ông Trump. Khi gặp Trump đã trải qua cuộc hôn nhân đổ vỡ, và bà đang muốn lấy quốc tịch vào Mỹ. Trong 15 năm chung sống có 3 người con trong đó có Ivanka nổi tiếng vì xinh đẹp và tài năng. Nói chung bà Ivana đến và đi khỏi cuộc đời Trump mà không hề thua thiệt gì. Có thể nói thái tuế nhập mệnh là một điểm không hề ưu cho chủ nhân lá số.

Cô Marla Maples, người vợ thứ hai của Trump, sinh năm quý mão, nhập quái vào cung điền của Trump. Trump cặp với cô này trong thời gian vẫn còn giá thú với vợ trước. Cuộc hôn nhân với cô này đi kèm thời kì khó khăn của Trump, có lẽ do bị phụ nữ nhập “kho lúa” cho nên việc làm ăn của Trump cũng gặp nhiều rắc rối. Đó là nói vui, chứ hoàn toàn do số phận thăng trầm của chính Trump. Cô Maples chỉ là người đến cuộc đời Trump cho khớp với số phận của ông ta, chứ tội vạ gì do cô Maples đâu.

Cô Melania Knauss, tuổi canh tuất, nhập quái vào cung tử tức của Trump, tuổi cô cũng ngang tuổi con gái Trump luôn. Melania Knauss là sự quyến rũ có văn hóa. Một vẻ đẹp góc cạnh đường nét, không lòe loẹt cũng không nhoe nhoét.

Ngô Đình Diệm tuổi Canh tý, nhập quái vào lá số của Cựu hoàng Bảo Đại là cung quan lộc, cựu hoàng thân cư quan lộc gặp triệt. Cho nên, ông Ngô mới đầu là triều thần của Bảo Đại.

Steve Jobs sinh năm Ất Mùi bằng tuổi Bill Gates, nhập quái vào cung tài bạch của Gates. Hai người này bề ngoài là đối thủ nhưng bản chất là hai người bạn lớn của nhau. Tư tưởng và con đường có thể nói là một hướng hai đường.

Mark David Chapman, sát thủ giết John Lennon, tuổi Ất Mùi nhập quái vào cung thiên di của Lennon, cũng chính là cung thân của Lennon. Có hơi hướng giống ông Diệm nhập quái vào cung thân nhưng là cung quan của Bảo Đại. Ông Diệm lấy danh vị của Bảo Đại còn Chapman thì đoạt mệnh Lennon.

Với mỗi người chúng ta, tự nhập quái vào lá số mình sẽ có những kinh nghiệm tự thân. Và kinh nghiệm đó sẽ giống nhau. Giống như tình yêu, giữa ai với ai, ở đâu, và vào thời đại nào, thì cũng ngọt ngào và sân hận như nhau.

….

Người mệnh thân đều vô chính diệu lại có cả Tuần Triệt án ngữ có tài nhìn thấy việc mà người khác không nhìn thấy. Rất giỏi về những gì phi chính quy. Thường thành công, nhưng không nổi danh. Ngược lại với các cách cục Tuần Triệt áp chính tinh. Người có cách cục này sống và nhìn nhận rất thực tế.

Thời trẻ có thể anh ta mua ba que diêm để đốt soi Sơn Đoòng. Nhưng sau này anh ta sẽ biết dùng bật lửa. Trong sách gọi là “dị lộ công danh”.

….

BỔ SUNG CHO THÁI TUẾ NHẬP QUÁI

Ngoài thái tuế nhập quái. Người có vòng chính tinh bố trí giống nhau thường có duyên với nhau. Bất kể cung mệnh ở đâu. Bất kể tuổi gì. Vòng chính tinh giống nhau là một tín hiệu của sự tương đồng. Trong cách xét tương quan giữa hai người một cách thô thiển nhất, đây có thể coi là một công cụ hữu hiệu.

Nếu có thêm một yếu tố tương ứng như cung mệnh người này ứng với cung phu của người kia. Có thể nói là họ có duyên vợ chồng. Tôi đã từng đoán chắc hai người yêu nhau A và B sẽ thành vợ chồng cho đến khi xuất hiện lá số của người C với vị trí cung mệnh và bố trí chính tinh giống hệt người B. Có nghĩa là A yêu hai người khác năm khác tháng khác ngày giờ sinh nhưng lại có bố trí chính tinh và vị trí cung mệnh giống hệt nhau.

Qua đó có thể thấy vị trí các cung mệnh phụ phúc điền v.v… và chính tinh cho biết tương quan giữa hai lá số.

Tất nhiên khi đó ngũ hành nạp âm mệnh và can chi năm sinh cho thêm yếu tố quyết định.

Còn nếu hỏi cảm xúc. Giữa nhiều cánh cửa lựa chọn. Tình yêu luôn dẫn lối đến cánh cửa tệ hại nhất.

Người ta hay nên duyên yên phận với người ứng với cung phu thê của họ, nhưng lại yêu những gì ứng với cung nô nhất.

Nhất lục cộng tông thì thê và nô là một nguồn hai nhánh.

….

Ngoài Thái Tuế, Lộc Tồn, Trường Sinh và Tử Vi là các chủ tinh (tĩnh) thì tứ hoá thuộc khí cũng cho biết 4 vị trí quan trọng (động) của lá số. Tứ hoá đóng ở 4 cung nào, 4 cung đó là lực lượng dẫn động của lá số. Nói cách khác đó là 4 cung quan trọng của lá số. Đương nhiên ai cũng thích tứ hoá đóng cường cung nhất là mệnh tài quan, thì bản thân người đó được trực tiếp dẫn động lá số của mình nói cách khác là sự làm chủ số phận cao hơn. Nếu sáu cường cung là cung lồi, tức bản thân người đó chủ động được. Thì sáu nhược cung là cung lõm tức bản thân thụ động trước những vấn đề đó.

Sách nói “tôn tinh cư tiện vị” hàm ý trái lệch này.

Tứ hoá phái tinh vi hơn, phân chia thành tha cung và ngã cung.

….

Vừa có bạn hỏi về cung Bào. Theo nhất lục cộng tông. Bào là 1 thì di là 6, bào là 6 thì quan là 1. Cho nên cung bào là cung nhân quả của di và quan. Nói cách khác, bào cho biết gián tiếp về mối quan hệ xã hội cũng như công việc. Cũng như phu thê là 1 thì nô là 6, cung nô là vợ hai hoặc chồng hai của chủ nhân lá số. Vợ hai và chồng hai có lúc đến sau khi li hôn nhưng có lúc đến hơi sớm, và một phần là nhân quả của cuộc li hôn. Giống như vợ hai của Trump, vợ hai của Lennon. Các chị đến hơi sớm một chút.^^

….

Tật và nô là hai góc nhìn của cùng một vấn đề. Tật ẩn bên trong, nô lộ ra ngoài. Đào hoa cư tật là sự phong phú của nội tâm, Đào Hoa cư nô là sự phong phú của giao lưu. Tài và quan cũng là hai góc nhìn của cùng một vấn đề. Tiền tài là hiện vật hữu hình, danh tiếng là vô hình. Tiền để trong túi, mũ đội trên đầu. Nhìn từ bề ngoài thấy quần áo phục sức, bên trong chưa hẳn thực lực tài chính đã mạnh. Nhưng nếu có thực lực mà vô danh thì cũng giống như “áo gấm đi đêm” cũng là sự khuyết thiếu. Cần có cả hai hài hòa cân đối thì cách cục sẽ cao.

Tử tức và điền trạch cũng vậy. Lấy mệnh di làm một trục. Thì toàn bộ các cung Nô, Quan, Điền, Phúc, Phụ là những cung bao trùm lấy mệnh. Có thể đó là các yếu tố có trước như cha mẹ. Có thể đó là các yếu tố rộng lớn như quốc gia (điền trạch) hay dòng họ (phúc đức). Có thể đó là yếu tố tha nhân (nô bộc).

Nếu ví bản thân chúng ta đang nằm cuộn trong bụng mẹ thì có phần ôm lấy ta từ phía lưng. Có phần ta lại ôm trong bụng. Thì các cung Nô Quan Điền Phúc Phụ ôm lưng ta. Còn ta ôm trong lòng các cung Bào Phối Tử Tài Tật. Âm dương phân biệt rất rõ ràng.

Theo chiều nghịch lá số: quốc gia (điền)-dòng tộc(phúc)-cha mẹ-bản thân-anh em-vợ-con. Từ tiền đến hậu, từ quá khứ đến tương lai, cái có trước cái có sau được phân định rõ ràng.

Quay lại điền trạch với tử tức. Đây là một cặp chung riêng. Quốc gia dân tộc là chung, tử tức con mình là riêng. Điền trạch còn là quê hương bản quán, đặc biệt quan trọng đối với các lá số đế vương.

Cặp tiếp theo là phúc đức và phu thê. Phúc đức là họ nội nhà mình, phu thê đương nhiên là bên thông gia. Sự kết hợp tiêu biểu của âm dương được biểu hiện trong mối quan hệ xã hội mà ai cũng có thể thấy, Trong mệnh lý sự phân chia nhân quả là quy ước theo chiều thời gian, cái gì có trước làm nhân, cái gì có sau làm quả. Tuy nhiên, thời gian lại có tính tuần hoàn cho nên quả ngày nay lại là nhân cho ngày sau. Phúc ban đầu là nhân, phu thê là quả. Nhưng phu thê như nào lại quyết định con cái, mà con cái là hậu phúc. Nói cách khác phu thê lại là nhân cho quả phúc mới. Chuyện vợ chồng có thể nói là biểu hiện của phúc đức. Cho nên ý kiến cho rằng phúc đức là sự phù trợ của ông bà tổ tiên chỉ đúng với quan niệm dân gian. Khi khái niệm Phúc đó bao trùm nhiều mặt. Trong lá số tử vi được phân cung rõ ràng, thì cung mệnh mới chủ tuổi thọ. Xem thọ yểu xem ở mệnh. Phúc đức thể hiện bức tranh về nhà nội của đương số. Còn ông bà tổ tiên đương nhiên ảnh hưởng tới bản thân mình, nhưng trên lá số tử vi ảnh hưởng đó là gián tiếp. Nếu không cân phân rõ ràng như vậy, khi xem số tất bị loạn cào cào.

Cặp phụ mẫu và huynh đệ (bào) thì dễ thấy. Cung mệnh đặt trên lá số giữa phụ mẫu và huynh đệ. Theo chiều thời gian thì mệnh có trước, chẳng lẽ đều là con trưởng. Sự tình chẳng phải như vậy, đó chỉ là các quy ước của lá số. Mệnh là trung tâm đứng giữa. Thiết lập hai cung phụ mẫu và huynh đệ bên cạnh thì phụ mẫu phải đứng trước và huynh đệ đứng sau.

Trong các cặp nói trên, lại chia thành hai loại: loại có tương tác xung hợp như điền xung tử, tài hợp quan, là những tương tác rất mạnh mẽ và trực tiếp. Các cặp không có quan hệ xung hợp như tật và nô, phụ mẫu và huynh đệ là những cặp có quan hệ nhân quả nhưng gián tiếp. Các cặp gián tiếp chỉ thể hiện mạnh mẽ khi xuất hiện thế giáp. Như phụ mẫu và huynh đệ đều vô chính diệu lại có Hỏa Linh hai bên giáp mệnh thì khẳng định người đó vô duyên với cha mẹ và anh em ruột. Điển hình nhất là con hai dòng khi cha mẹ tái hôn. Vô chính diệu ở đây chẳng có gì bí mật ghê gớm, chỉ đơn giản là khi một cung không có chính tinh thì ảnh hưởng của sát tinh tại cung đó mạnh lên rất nhiều. Nó giống như một vùng đất không có lãnh chúa, giặc cướp đến múa gậy vườn hoang.

Còn hai cung tật và nô kẹp cung thiên di, thể hiện sự giao tiếp xã hội của người đó. Cung tật là người bạn tâm giao, có Đào Hoa là có hồng nhan tri kỷ. Cung nô là cái nợ của ta bên ngoài. Nô bộc chính là biểu hiện cái nợ ta phải trả. Họ đến đòi, và ta chìa tay ra trả. Trả hết, thì họ đi.

….

Lửa phát sáng nhưng lửa không phải ánh sáng. Sự khác nhau giữa lửa và mặt trời ở chỗ nhân tạo và thiên nhiên. Mặt trời sáng một cách tự nhiên, quyền chiếu rọi của mặt trời là đặc quyền, tới mọi nơi mặt trời muốn chiếu. Sự chiếu rọi của mặt trời không phụ thuộc vào đèn nến dân gian. Ngược lại ánh sáng của đèn nến dân gian phụ thuộc vào mặt trời. Cho nên mới có nghịch lý “thắp đèn giữa trời nắng” cơ bản là vô nghĩa. Mặt trời là Thái Dương, sự miếu hãm phụ thuộc vào địa bàn, địa bàn chính là địa cầu. Ngọn lửa là Hoả Linh, sự tồn tại Hoả Linh phụ thuộc vào bàn tay giữ lửa của con người, và vị trí của mặt trời. Cụ thể hơn Hoả hợp Thái Dương, Linh hợp Thái Âm vì cùng tính âm dương. Không biết có phải fake lá số không nhưng một vài Thiên Hoàng có lá số Nhật Hoả cư ngọ. Tưởng ôm Nguyệt Linh cư thìn đắc tam hoá, cơ bản như đã phân tích. Hoả Linh như đèn đuốc, tượng văn minh ánh sáng, chủ thần trong tinh (Kình Đà) khí (Không Kiếp) thần (Hoả Linh). Hoả Linh chủ về tâm linh nên tương khắc với chính quyền (Khôi Việt). Tưởng mang bộ Nguyệt Linh nên là người mê tín, một thuở tôn sùng Thượng Đế.

….

Trong Đông Y, hai mặt trong ngoài được gọi là biểu và lý. Như Nô Tật là một cặp biểu lý. Gan và đởm (mật) là một cặp biểu lý. Phủ và Tạng bao gồm các cặp biểu lý. Ngũ tạng: tâm can tỳ phế thận thuộc dương. Lục phủ: can, đởm, vị, tiểu trường, đại trường, tam tiêu thuộc âm. Dương chủ khí, chủ lý. Âm chủ vật, chủ hình.

Trên lá số cung mệnh có thể coi như đầu, thiên di là hậu môn. Đi từ mệnh đến di có hai đường. Mệnh và di như hai cực đầu cuối của cơ thể. Các cung nô bào quan điền phúc phụ mẫu sẽ tương ứng với các phủ. Các cung tật tài tử phối bào tương ứng với ngũ tạng. Trong đó: tật ứng với tâm, tài ứng với can, tử tức ứng với tỳ (lá lách), phối ứng với phế, bào ứng với thận. Cặp biểu lý của tâm là tiểu trường, của can là đởm, của tỳ là vị, của phế là đại trường, của thận là bàng quang.

Như vậy nô bộc ứng ruột non, quan lộc ứng với mật, điền trạch ứng dạ dày, phúc đức ứng đại tràng, phụ mẫu ứng bàng quang. Cung di ứng với tam tiêu.

Trong các cặp trên có cặp tài quan chủ gan và mật quả thực rất tương ứng với ý nghĩa của tài quan. Việc hành sự phụ thuộc vào việc to gan lớn mật của bản thân.

Cặp tử điền là tỳ vị. Cung điền chủ dạ dày cũng rất ứng nghiệm với ý nghĩa tài khố của điền cung.

Cung tật ách chủ nội tâm trước đã từng có sách nói qua, nhưng sau này các Thần Khê chế thành “con người thứ hai” là hoàn toàn sai. Nội tâm là nội tâm, không phải con người.

Thiên di ứng với tam tiêu cũng có thể chấp nhận được, vì Di cũng chủ ý xuất thoát. Như vậy có sáu cung: di, tật, tài, quan, tử, điền có ý nghĩa khá sát với tạng phủ. Các cũng còn lại được xếp theo thứ tự hợp lý hơn là có tương ứng rõ ràng với tạng phủ.

….

Thế giới gọi chúng ta là thầy bà. Chúng ta gọi thế giới là chúng sinh. Cơ bản thầy bà là một nghề trong xã hội này. Nghề là gì? Là có người giơ tay: tôi muốn … Cái mà con người muốn là tiền tài danh vọng tình ái hạnh phúc. Nôm na là họ muốn tốt cho họ và những người họ yêu quý. Họ ra yêu cầu, chúng ta đáp ứng được yêu cầu đó, và họ xuất tiền. Nếu ta làm được, ta là thầy giỏi. Nếu không làm được, ta là thầy kém. Vấn đề ở chỗ cái con người muốn về tâm linh na ná giống như chữa bệnh. Tôi bị đau dạ dày, thầy chữa cho tôi. Nguyên nhân của bệnh là vô thiên lủng. Có chữa được hay không còn tuỳ nguyên nhân tuỳ điều kiện đáp ứng yêu cầu chữa trị. Có những trường hợp không thể chữa được. Thầy y giỏi là thầy hiểu được bệnh và biết là có chữa được hay không. Thầy bói giỏi là thầy hiểu được nhân quả và biết là có điều chỉnh được hay không. Nghề thầy bà mới ở mức thuật, chưa tới mức đạo. Vẫn là đắm chìm trong bể khổ tiền tình. Ở góc độ đạo mà nói thì ai cũng như ai, không có chính cũng chẳng có phản. Coi ai cũng là con người không có thắng thua không có hơn kém. Mệnh không thể chữa được từ bên ngoài. Mệnh phải do mình chuyển hoá từ bên trong. Còn yêu người hay còn ghét người là còn thiên lệch. Chung quy giàu nghèo sang hèn, đều trải qua 24 giờ một ngày với chính mình. Ngoại cảnh hay tha nhân dù có mang đến sự vui hay sự buồn đều chỉ là giả tạm. Rồi còn lại bệnh mình mình đau, thân mình mình khổ, tâm mình mình bận. Hỉ sự bạn bè đến nâng chén. Nằm xuống bạn bè đến dâng hương. Chẳng kể già hay trẻ, nam hay nữ, chúng ta đều vậy. Xã hội coi giới thầy bà như một công cụ, để chỉ cho họ gặp phúc tránh hoạ. Các đạo môn chính tông coi thầy bà như loài yêu tà quỷ quái rải tiết gà tung máu chó. Vì mưu sinh thầy bà phải làm tiền, nhưng làm tiền đủ sống thôi chứ đừng ham giàu. Ông trời có đức hiếu sinh không tuyệt hết đường sống. Việc mưu sinh tốt nhất có thể làm, luôn là việc đúng. Thầy bà cần hiểu thầy bà không phải biểu tượng của đạo đức, cũng không phải đạo sư tìm giải thoát. Thầy bà là người biết pháp thuật nhưng còn thiếu đức nên làm thầy bà. Thầy bà là một nghề trong xã hội này. Đã làm nghề sẽ phải tạo nghiệp.

Hạnh phúc cũng như bầu trời này vậy,

Không chỉ dành cho một riêng ai

(Thơ Lưu Quang Vũ)

Không ai tìm được hạnh phúc bằng cách biết trước tương lai. Biết trước nhưng xử lý sự biết bằng dục vọng tham sân thì sự biết đó cũng như dầu đổ vào lửa mà thôi. Tham phúc cũng là tham. Xích vàng hay xích sắt đều là xích.

Tri túc tâm thường lạc

Vô cầu phẩm tự cao

(Biết đủ lòng thường vui

Không cầu xin, phẩm hạnh tự cao)

Chúng ta còn đi mãi trong vòng âm dương luân chuyển, và cũng sẽ mãi mãi là như vậy cho đến khi nhận ra cuối cùng chỉ còn mình với chính lòng mình. Không vì người đi mà buồn, không vì kẻ đến mà vui; buồn vui không tìm đến.

Không vì giàu mà cao, không vì nghèo mà thấp; cao thấp tự bình phân.

Không vì lợi mà đi trước, không vì hại mà đi sau; trước sau như một.

Không vì đúng mà ép người, không vì sai mà sợ người; đúng sai tự đảo nghịch.

Thầy bà chỉ là công cụ, tìm phúc cho thủ tướng hay thứ dân, cũng đều là công cụ cho người ta sai khiến. Có một cách tốt nhất và chắc chắn nhất để giúp cho phúc người là ban phúc. Phúc của ai mới đủ để ban phát cho mọi người? Cho nên hỏi sao giới thầy bà nhất yểu nhì bần tam vô tự.

Cầm vàng lại bán vàng đi

Để mua những thứ nhiều khi không vàng

….

Sự khác nhau của phái Mai Hoa và phái lục hào là tổng quát và chi tiết. Phái Mai Hoa định hình bằng tượng, định lượng bằng mùa. Phái lục hào không bị bó buộc bởi cách lấy quẻ theo thời gian như Mai Hoa nên không nặng vào tượng và liên hệ tượng của thực tế như Mai Hoa. Cách giải của lục hào là cách giải của bài toán có một đáp số. Cách giải của Mai Hoa là cách giải tìm sự tương ứng.

Vì thế lục hào ứng với cách gieo quẻ bằng đồng xu, sự tạo quẻ tương ứng với tâm cảnh người gieo. Phép gieo quẻ này ứng với hàng Nhân hơn là cách lấy quẻ của Mai Hoa ứng với hàng Thiên (tức thời gian).

Luận Mai Hoa đòi hỏi người luận phải có sự liên tưởng và liên hệ thiên bẩm, như Alex tôi chẳng hạn. Nếu khả năng liên tưởng liên hệ của bạn bị hạn chế thì bạn nên xem bằng lục hào. Phép liên hệ tượng quẻ của Mai Hoa thú vị nhất là phương pháp của Việt Dịch Chánh Tông. Phương pháp thì rất ngắn nhưng tuỳ thiên tư mỗi người mà cho kết quả khác nhau.

Vì sao chúng ta gieo quẻ? Vì nhiều trường hợp đương số không nhớ năm tháng ngày giờ sinh của họ.

Có người hỏi: gieo được quẻ Cổ biến thành Tỉnh, hỏi chuyện quay lại với bạn gái cũ có được không? Trả lời: không thể được. Vì sự cũ đã nằm yên rồi, không thể khơi lại được.

Vừa rồi có gặp người xem bói kiếm sống chuyên về lục hào, mà tôi lại hay dùng Mai Hoa hơn. Qua câu chuyện mà hứng thú viết bài này.

Mai Hoa quẻ không gieo mà do ta giơ tay hái xuống, nên tượng của Mai Hoa bao trùm toàn vũ trụ và thoát khỏi tâm lý của con người. Xem việc gì thì vận vào việc đó. Môn nào cũng hay, bạn giỏi lục hào nhất định sẽ giỏi tử bình. Bạn giỏi tử vi thì chắc chắn rất thích Mai Hoa.

Lợi hại của Bói Dịch lục hào là cách giải đơn giản, có nguyên tắc cụ thể. Cách lấy quẻ tự do linh hoạt và từ một quẻ có thể biến thành 63 quẻ khác. Tuy nhiên khi lắc quẻ mà đến ba hào động trở lên là quẻ đó coi như phế, phải lắc lại. Nên một quẻ cũng không thể biến thành 63 quẻ khác được. Nhưng sự phong phú của quẻ biến cũng vẫn ăn đứt Mai Hoa. Ứng kì của bói dịch lục hào có thể dùng địa chi để tính toán, ngoài ra còn có ngày xuất không xung mộ để dựa vào đó làm ứng kì.

Ứng kì của Mai Hoa ngoài ngũ hành theo mùa, ngũ hành nạp âm của tuổi người liên quan thì hoàn toàn phải dựa vào tượng lý của quẻ và quái. Sự liên hệ giữa đời thực và tượng quẻ là mấu chốt của dự đoán. Mọi tính toán chi tiết và bài bản theo ngũ hành sinh khắc là thứ yếu so với tượng quẻ.

Nhưng môn gì thì môn, yếu tố quyết định là niềm tin của người sử dụng vào phương pháp ngoài sự hiểu biết về phương pháp và những giới hạn của nó.

Sự tin tưởng có vẻ mù quáng vào khả năng của bói dịch lục hào, và kinh nghiệm hành nghề gần hai mươi năm của một thầy bói dịch giang hồ đối với tôi mà nói quả thực rất ấn tượng. Cùng là nắm vững Tăng San Bốc Dịch nhưng sự chuyên tâm nhiều năm cộng với kinh nghiệm thực tế phong phú sẽ hoàn thiện bức tranh của mỗi người. Các bạn trẻ ngày nay thông minh học nhanh, nhưng mỗi môn phớt qua một chút. Hơn nữa, bản thân các bạn cũng không hề để tâm cũng như đặt lòng tin vào môn mình sử dụng thì làm sao hạ đoán có hồn và chính xác được.

Thú thực trước khi gặp thầy bói dịch lục hào này, sự yêu mến của tôi dành cho môn lục hào cũng không mặn mà cho lắm. Có lẽ sự yêu mến của ông ta có sức lan toả không nhẹ.

….

Cung có Triệt Tuần là cả vấn đề nhức đầu về mô tả. Sau nhiều kiếm tìm hình ảnh liên hệ cho cung có Triệt Tuần mà bản cung gồm các tinh đẩu tốt đẹp, cuối cùng tìm được hai hình ảnh tương đối giống:

– Giống như một cô gái xinh đẹp nhưng nhỏ người, nhỏ chiều cao. Đây là giới hạn về không gian.

– Giống như cây quý còn nhỏ. Tài năng lúc còn bé. Đây là chưa tới về thời gian.

Một cung không gặp Triệt Tuần nhưng đối cung gặp Triệt Tuần, cung đó bị ảnh hưởng gián tiếp bởi Triệt Tuần.

Ví dụ: cung Tử gặp Triệt Tuần: được hào của, úa hào con. Cung Điền gặp Triệt Tuần: được hào con, non hào của.

Năng lượng của hai cung đối luôn có sự tương ứng. Nhất là trong trường hợp một bên gặp Triệt Tuần, sự tương ứng này càng rõ rệt. Nôm na trong bất cứ tam hợp hay đối cung. Triệt Tuần làm méo mó cấu trúc phân bố năng lượng.

Phu thê luôn xung đối quan lộc. Giàu vì bạn, sang vì vợ. Giữa chuyện hôn nhân và tương ứng công danh có mối liên hệ trong ngoài. Trong tử bình, quan quản thân, thân quản thê tài. Áo quan như lớp bên ngoài, thê thiếp như bông nhồi bên trong.

Tử tức luôn cung đối điền trạch. Con cái và của cải. Con cái được gọi là của để dành. Của cải là vất chất về vật. Thì con cái là của cải về người.

Nô bộc đối huynh đệ. Bán anh em xa mua láng giềng gần. Huynh đệ là anh em, gặp nhau do huyết thống. Láng giềng là nô bộc, gặp nhau do cuộc sống.

Khi một cung bị Triệt Tuần án ngữ, đối cung lập tức có sự tương ứng trả lại. Khi một cung không có chính tinh, chính tinh của cung đối diện được sử dụng. Cách dùng này cũng được Đài Cảng sử dụng để lấy tứ hoá từ cung đối về cho cung không có tứ hoá. Thậm chí lấy về rồi còn cho tam hợp. Như mượn hoá từ ngọ cho tý. Xong lại còn cho tam hợp với thìn. Cách vận dụng hồn nhiên và nhất quán.

….

Xem vận bằng phương pháp nào thì cũng phải tuân theo tam tài: thiên địa nhân. Có nghĩa là phải công nhận rằng không có một yếu tố nào thay mặt được cho tất cả. Thiên phải làm việc của thiên, Địa và Nhân cũng phải tự đóng vai trò của mình, không nhờ ai được.

Năm tháng ngày giờ, thì năm là hàng thiên, tháng là hàng địa, ngày là hàng nhân. Giờ là hàng thiên lớp kế tiếp tức Hậu Thiên, trong khi năm là Tiên Thiên.

Nam phái xem vận dùng nhiều yếu tố như: đại vận, tiểu vận, lưu niên đại vận (LNĐV) và các sao lưu. Các sao lưu thuộc về Tuế, yếu tố khách quan tự nhiên, tồn tại độc lập với cấu trúc nội tại của lá số. Trong khi Vận, sinh ra từ nội hàm lá số. Tuế như hoàn cảnh, Vận như con người.

Theo thuyết tam tài nói trên, để định vị được một giá trị trong lá số, cần có ít nhất ba yếu tố độc lập. Nam phái có ba chữ vận: đại vận, tiểu vận, và LNĐV. Đại vận chủ Thiên, là gốc của sự việc, chủ sự lâu dài trong một giáp (10 năm). Tiểu vận chủ Địa, chủ quá trình của sự việc giống như quẻ Hỗ của bói Dịch. LNĐV chủ Nhân, cho biết kết quả của sự việc thành bại nặng nhẹ ra sao.

Tiểu vận là Địa, cho nên thường gắn với các tính từ mô tả như cát hung thuận lợi hay trắc trở. Cả quá trình từ nguyên nhân đến kết quả cho biết đầy đủ thông tin. Nhưng người đời thích chích kim thấy máu, chỉ quan tâm tới kết quả.

Muốn biết cuối cùng có cưới hay không, chứ không cần biết quá trình như nào. Nếu áp cách nhận định đó vào tam vận của tử vi thì khó tránh khỏi sai lầm. Cái kết quả nhân gian mong đợi phải rút ra từ cả ba vận.

Lấy ví dụ bằng quẻ Dịch cho dễ hiểu. Ví dụ: Truân biến thành Kí Tế, nghĩa là ban đầu khó khăn, rồi sau vượt qua. Tổng quát: vượt qua khó khăn. Nhưng Cách biến thành Kí Tế, lại có nghĩa là từ sự thay đổi ban đầu mà rồi thành công. Chẳng có khó khăn cái gì đây cả, đều do khi ghép với quẻ gốc mà sai khác ý nghĩa.

Cũng như vậy, khi LNĐV cho biết thông đắc lộc. Nhưng đại vận cho thấy sự bất ổn, không thực, hoặc ám muội, thì sự đắc lộc của LNĐV coi chừng chỉ như hoa nở cành khô. Ba bảy hai mốt ngày về với gió.

….

Trong mệnh lý nói chung và tử bình nói riêng, có một trường hợp gây nhức đầu như sau: khi thuỷ vượng thành cường, vậy đến thuỷ vận hay hoả vận thì tốt. Người theo phái cân bằng nói rằng: đến hoả vận để thuỷ hoả cân bằng là tốt. Kì thực, đến thuỷ vận thuỷ-thuỷ tương ứng mới tốt.

Điều này giống như trong đời thực. Những anh ngổ ngáo hay yêu cô gái dịu dàng, nhưng lại hay chơi với những anh ngổ ngáo khác. Về sự đối lập, người ta gọi là bổ khuyết. Còn về sự đồng dạng, người ta lại gọi là ngưu tầm ngưu mã tầm mã. Vậy thì khi nào ngưu tầm ngưu mã tầm mã, khi nào cần bổ khuyết.

Ví dụ dễ hiểu như năm anh em trên một chiếc xe tăng. Cái chung của năm người là lý tưởng của quân đội. Cái bổ khuyết của năm người là mỗi người một chức năng nhiệm vụ. Cái sự bổ khuyết luôn phải đặt trên nền cái chung. Quay trở lại ví dụ bạn trai bạn gái, sự bổ khuyết của họ được đặt trên nền những cái chung nhất định. Chứ nếu không có gấm thì lấy gì thêu hoa mà bổ với khuyết?

….

Trong một hàng thiên hoặc địa hoặc nhân lại có ba tầng thiên địa nhân. Ba tầng này mang tính chất cường độ quy mô, chứ không mang ý nghĩa nhân tố cơ sở. Thiên địa nhân này có trật tự. Thiên rồi đến địa rồi mới đến nhân. Nói ví dụ dễ hiểu: về quy mô không gian: quốc gia hạnh phúc, công ty hạnh phúc, và cá nhân hạnh phúc. Quốc gia là hàng thiên, trong một quốc gia hạnh phúc có nhiều công ty, có công ty hạnh phúc có công ty không. Công ty thuộc hàng địa, trong một công ty hạnh phúc có nhiều cá nhân, có người hạnh phúc có người không.

Thử xem theo chiều thuận, trong quốc gia hạnh phúc, có công ty hạnh phúc, trong công ty hạnh phúc có cá nhân hạnh phúc. Như vậy là mĩ mãn thiên phúc địa phúc nhân phúc.

Bây giờ thử xét ngược lại. Một cá nhân hạnh phúc trong một công ty không hạnh phúc? Kì lạ. Một cá nhân hạnh phúc trong một công ty hạnh phúc nhưng trong một quốc gia không hạnh phúc? Công ty này sớm muộn cũng hết hạnh phúc.

Trong phong thủy cũng vậy. Phong thủy một nhà nằm trong phong thủy một khu đất, phong thủy khu đất nằm trong phong thủy cả vùng đất. Nhà có xây bằng vàng, đặt hướng các kiểu mà đặt ở bãi rác thì cũng phế. Cả khu đất tuyệt vời được ôm bởi con sông ô nhiễm thì cũng phế. Cả đất nước xinh đẹp nằm bên cạnh một đại dương chết thì sớm muộn đất nước cũng chết.

Nghĩ rộng ra, thì nếu nhà đại gia quây tường đá ong phủ vàng mà cùng khu đất với nhà các tiểu gia. Thì về thiên về địa như nhau thôi, làm gì chảnh gớm. Mà nội thất nhà ông thì ông biết, ông dùng nhiều chứ tôi dùng mấy. Suy ra, một cách rộng lớn thì chúng ta rất bình đẳng. Cùng một bầu khí, cùng một con sông, cùng một thung lũng, chẳng qua chỗ ngủ là giường vàng hay giường sắt khác nhau. Mà vàng hay sắt đều là giường. Xích vàng hay xích sắt đều là xích.

Trong tam vận, thì thiên quy định địa, địa quy định nhân. Nhân vận không rõ cát hung thì dùng địa vận tham khảo, địa vận không rõ cát hung thì dùng thiên vận làm cương lĩnh.

….

Hay đọc thấy câu “tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến”, thực ra cũng nhoáng nhoàng, hôm nay ngẫm lại thấy trước giờ hiểu chưa đúng. Trước giờ cứ hiểu ý là tâm bất động. Giữa cảnh đời loạn xà ngầu nhưng chân tâm vẫn bất động. Nhưng có cái gì đó sai sai vì tâm và không động thì đó là sinh vật đã chết. Còn sống là tâm còn động.

Hoá ra động khác với biến. Lấy ví dụ hào động trong Dịch, dương động biến thành âm và âm động biến thành dương. Động là hoạt động, biến là đã chuyển hoá hoàn toàn. Từ nòng nọc biến thành ếch. Không còn cái cũ, chỉ còn cái mới. Cho nên tâm bất biến là tâm không bị thay đổi, chứ động thoải mái, không động là chết. Thấy tiền nhiều, động luôn. Thấy xinh đẹp, cũng động luôn. Thấy hôi thối, động luôn. Động nhưng không biến chất thành cái khác. Ví dụ, thấy nhiều tiền, tâm động, động vì thích quá. Nhưng để biến chất thành tâm sang đoạt, đao hạ phong đồ, từ người lương thiện thành tội đồ vì đống tiền vàng thì khốn. Hay như khi làm sai, tâm động, thấy xấu hổ, nhưng vì xấu hổ mà cào cấu điên loạn, hành động như tội phạm thì khốn. Biến rồi lại mất công biến lại. Còn động đậy một lúc rồi cũng im. Vì năng lượng có hạn, động mãi sao được. Im rồi thì xe hơi lại là xe hơi đứng im. Chứ xe hơi không biến thành đống phế liệu.

….

Tiếp bài về tam tài. Bài này nói về sự đồng bộ, sự phối hợp giữa các yếu tố độc lập. Nếu một người giỏi một kĩ năng nhưng thiếu các mặt khác của cuộc sống như khả năng cân bằng cảm xúc, trí tuệ. Thì dễ hiểu, sự khuyết thiếu đó sẽ đem lại thất bại trong đời sống. Nhưng ở xã hội “dùng người” thì một kĩ năng chuyên sâu đơn lẻ lại được tôn vinh, mặc dù đời sống của người đó có bê bết, xã hội vẫn tôn vinh vì đã bóc lột con người này ở kĩ năng đỉnh cao của họ. Trong đời thực thì cá nhân này là những sinh vật què quặt, những cỗ máy di động vô hồn. Cứ hỏi sao đầy vinh quang mà cay đắng. Vì cái vinh quang là đời nó lừa nó khoác lên. Nó xúi bẩy, nó dụ dỗ vào con đường phát triển tuyệt kỹ. Những người đó như người được Thiên dài nhưng Địa và Nhân què cụt. Ngược lại những người có Thiên Địa Nhân cân đối, cho dù đều ngắn hơn Thiên của thiên tài, thậm chí tổng ba yếu tố cũng ngắn hơn Thiên của thiên tài thì họ chắc chắn thành công và hạnh phúc hơn. Vì cái kiềng hai chân ngắn một chân dài càng dài càng đổ. Còn cái kiềng ba chân cân đối chính là hữu dụng. Cho nên cần các yếu tố tổng hoà và chắc chắn ít nhất là ba yếu tố để tạo nên sự toàn diện. Giống như đồ đồng bộ cho máy tính hay cho game, tạo ra sức mạnh hơn cả tổng số đơn lẻ. Sức mạnh đó gọi là sự cộng hưởng. Hay đơn giản như phép phối hợp hai yếu tố âm dương của cuộc thi Khoẻ và Khéo. Khẻo không mà vụng hay Khéo không mà yếu đều thất bại, thất bại tởm hơn Khoẻ và Khéo cân đối dù vừa vừa.

Lật ngược vấn đề, có người hỏi rằng liệu đạt đến đỉnh cao một cái gì đó như võ đạo liệu có khuyết tật về những mặt còn lại. Xin thưa bạn là cái gì gắn với chữ “đạo” mà đạt đỉnh cao thì không có mặt nào khuyết đâu nếu không nói là tất cả các mặt đều thông tỏ. Cho nên truyện chưởng hay nói là kỳ đạo kiếm đạo hay trà đạo khi đạt đạo thì mọi thứ giống nhau.

Đó là đạo, còn về đời thì khó nói lắm. Ví dụ như lính bắn tỉa xuất sắc, được phong anh hùng là đương nhiên, nhưng nói là anh ta cân bằng cuộc sống và hạnh phúc thì khó lắm. Vì kĩ năng bắn tỉa hay kĩ năng hát múa thuộc về kỹ pháp chứ không phải đạo. Cho nên ca sĩ hay vận động viên vàng vỡ nợ, tự tử hay điên loạn là chuyện không hiếm. Họ là những cái kiềng lệch chân. Cái chân lệch càng dài, càng khổ.

Cho nên Nguyễn Du than rằng:

Có tài mà cậy chi tài.

Đây là nói người tài nha, còn các Thần Khê thì thôi, nói chi oải.

….

CẶP CUNG

Mười hai cung địa bàn của lá số tử vi tùy theo nhưng luôn có một trật tự theo chiều thuận kim đồng hồ là: mệnh, phụ, phúc, điền, quan, nô, di, tật, tài, tử, phối, bào.

Hôm nay, nói đến sự phối trí hai cặp bên cạnh nhau. Như ta biết, thì cặp nào trong vũ trụ này cũng phân một âm một dương. Hai cặp cạnh nhau cũng vậy, luôn là một âm một dương.

Phúc Điền một cặp cạnh nhau.

Quan Nô một cặp cạnh nhau.

Di Tật một cặp cạnh nhau.

Tài Tử một cặp cạnh nhau.

Phối Bào một cặp cạnh nhau.

Mệnh Phụ mẫu một cặp cạnh nhau.

Đầu tiên là cặp Phúc Điền. Phúc là tổ tiên, dòng họ cá nhân. Điền là quốc gia dân tộc. Điền là tập hợp của Phúc. Trong một quốc gia, có nhiều dòng họ. Nếu xét cả họ ngoại thì cả nước chúng ta là anh em họ với nhau. Tất nhiên, không tính họ rộng quá, tính rộng quá thì khó làm ăn buôn bán, khó thực thi hình pháp. Phúc dương thì Điền âm. Phúc dương vì ảnh hưởng trực tiếp tới bản thân hơn là Điền. Điền âm vì Điền phủ rộng hơn Phúc và ảnh hưởng gián tiếp đến bản thân. Khi Điền chấn động thì trăm họ chấn động, họ nhà mình cũng phải xách súng tòng quân. Còn khi Phúc động thì chỉ có dòng tộc nhà mình động, quốc gia dân tộc chưa chắc biến động. Người xưa phân thành thù nước thù nhà để tách bạch mức độ lựa chọn. Như Hưng Đạo Vương phải xếp thù nhà của cha ông là Trần Liễu để lại mà hợp tác với vương tộc chống giặc ngoại xâm. Tất nhiên, hành động này được hậu thế hết lời khen ngợi. Cho nên, người nhìn gần xây nhà thờ, người nhìn xa xây chùa. Nhà thờ cho họ nhà mình, chùa cho trăm họ.

Tiếp theo là cặp Quan Nô. Thì quan tước thuộc dương, nô bộc thuộc âm. Quan tước là chức quan, là công vụ trên vai, là quyền lực được chính phủ giao phó. Nô bộc là bạn bè nói chung bao gồm cả đồng nghiệp. Tuổi về hưu chấm dứt chức quan, nhưng bạn bè thì còn mãi đến chết. Bạn bè ảnh hưởng tới quan vị và ngược lại quan vị cũng ảnh hưởng tới bạn bè. Khi quan bị lung lay, thì bạn bè có tác dụng hỗ trợ mạnh. Nếu quan vị là loại quyền lực chính thống, thì bạn bè là quyền lực mềm. Nhiều bạn thì nổi tiếng, lắm kẻ thù thì vinh quang. Khi quyền lực bị các phe cánh xâm phạm và hạ bệ, con người mới quay lại nhìn xung quanh và ngó trước sau để tìm bạn bè. Và có nhiều người x thấy ai là bạn mình, đằng sau cũng x có ai theo mình. Xét về tương quan, thì quan hệ bạn bè còn quan trọng hơn quan lộc và bao trùm cả quan lộc. Xã hội ngày nay, quan lộc có thể hiểu là lĩnh vực chuyên môn bó hẹp. Còn nô bộc là tất cả các dòng chảy của thế gian, những người bạn từ tất cả các chân trời sắc tộc chuyên ngành. Từ đức vua đến thường dân đều có bạn. Bạn bè là nền tảng của quyền lực. Không có nền tảng này thì quyền lực chỉ là quyền rơm đi trước vạ đá.

Cặp Tài Tử. Dân gian có câu: “được hào của úa hào con, được hào con non hào của”. Hàm ý giàu thì hiếm con, mà nhiều con thì lại nghèo. Câu ca thể hiện sự lựa chọn khi phúc khí vừa đủ. Chứ nếu phúc khí tràn ngập thì mặt nào cũng ổn, tuy nhiên những người đó hiếm có. Ngược lại, nếu phúc khí suy kiệt, của chẳng có mà con cũng chẳng có. Con cái là của để dành, là vật chất quý giá không thể tiêu xài nhưng có tác dụng lâu bền. Cặp Tài Tử thì Tử thuộc âm, Tài thuộc dương. Vàng dát trên cột còn quý tử đang chơi ở sân sau.

Cặp Phối Bào. Vợ/ chồng và anh em ruột. Cặp này cũng là một cặp đầy danh tiếng khi mà câu ca để lại từ ngàn xưa của mấy ông hay bỏ nhà đi giang hồ, đó là: anh em như chân tay, thê thiếp như quần áo. Nhưng xã hội hiện đại lập lại cân bằng, vai trò của người hôn phối được nâng cao. Bởi vì theo lẽ âm dương một cặp, âm có thể theo dương, nhưng cần cả hai cùng tồn tại không thể xóa bỏ một trong hai. Mối quan hệ và chi tiết của cặp này chúng ta có quá nhiều ví dụ trong xã hội hiện tại nên không cần phân tích thêm.

Tài Bạch là tiền trong túi, Quan Lộc là mũ trên đầu, nhưng tiền cách xa mệnh (5 cung) hơn con cái (4 cung). Mũ cách xa mệnh (5 cung) hơn quốc gia dân tộc (4 cung).

….

Một sự kiện chỉ có thông tin ở lưu niên. Sự kiện đó xảy ra nhanh chóng. Một sự kiện có thông tin ở đại vận. Sự kiện đó là xu hướng, đủ để tạo ra bước ngoặt cuộc đời. Có thể gọi vui đó là sự kiện nhiệm kì. Một sự kiện có thông tin ở các cung nguyên thuỷ là một sự kiện mang tính nhân quả để đời.

Cho nên tính chất sao ở các cung cố định mang tính chất tổng quát cả đời người. Khi nào xảy ra cần phải xem vận.

Lưu hoá đại vận đặc biệt nhất trong các loại tứ hoá. Vì dù sao tứ hoá nguyên thuỷ và lưu niên đều là tứ hoá của năm sinh và tương đương năm sinh. Riêng tứ hoá can cung đại vận là loại tứ hoá mang tính xu hướng và quan hệ của các cung trong lá số. Khi đại vận nhập cung nào thì xu hướng đó sẽ thành hiện thực. Phi hoá can cung cho biết cách đối xử của các cung lẫn nhau. Tuy nhiên nếu không có tứ hoá nguyên thuỷ tại cung đó thì cũng giống như người không có năng khiếu hát mà muốn hát, không có tài mà thích tỏ ra nguy hiểm. Tất cả đều chỉ là ảo vọng.

….

Cái gọi là bí quyết xem vận, nó giống như anh Người Nhện giải cứu thế giới hay Thánh Gióng đánh giặc cứu nước, đều là hư ảo. À không, là cổ tích. Trước đây người viết khổ công so sánh cường độ mạnh yếu của các tổ hợp: Kị xung Kị nguyên thuỷ, Kị xung Kị đại vận, Kị xung đại vận. Để xem cái nào mạnh hơn cái nào mà xét ưu tiên. Bất chợt nhìn vào gương thấy mình giống bọn Thần Khê. Sau mới phát hiện ra rằng: Kị xung Kị chỉ là kích động. Kể cả Kị nhập mệnh cũng là kích động. Chứ không mang ý nghĩa cát hung. Tưởng Giới Thạch lên hay xuống đều vào vận Hoá Kị nhập mệnh. Còn cát hung do đại vận làm chủ. Giống như cuộc cách mạng cần có quần chúng nhân dân và lãnh đạo phong trào. Một lãnh đạo cao minh là không đủ. Cho nên chẳng có Kị xung Kị nào gây ra bại vận, chỉ là mức độ ảnh hưởng sâu rộng khác nhau. Có người chết vì Kị xung Kị nguyên thuỷ, có người chết vì Kị xung mệnh, có người chết vì Kị xung tật, không hề có công thức chung. Mà chỉ có nguyên tắc chung. Nhưng vấn đề lại nằm ở chỗ, khái niệm “vận” mà chúng ta hay dùng hiện đã thất truyền. Cho nên người xem không cân phân nổi vận cát hung. Nếu có chỉ cho họ cách xem vận cổ truyền, chắc chắn họ sẽ lắc đầu không thể chấp nhận nổi. Vì nếu chấp nhận, sẽ phải tự phế võ công cũ mà du nhập cái mới, hoặc sẽ tẩu hoả nhập ma. Thôi cũng đành. Được chút nào hay chút đấy.

….

Đa phần thiên hạ nhìn vào lá số như nhìn vào bức vách. Tự xưng là thầy mệnh lý rồi thầy tử vi nhưng các thầy không thể kết nối sự kiện đời thực với lá số. Cũng chẳng biết lá số là thực hay giả. Đó chính là nỗi khổ của bọn giả cầy. Bạn chỉ cần đưa chúng lá số của Washington và hỏi: hãy xem giùm vì sao người này mãi mà không ngóc đầu lên được. Chúng sẽ chém ào ào rằng nọ rằng kia. Sẽ không ít lần chúng cầm lá số và chết lặng không biết nói gì trước sự kì vọng của thân chủ. Và chúng nghĩ ai cũng vậy. Sự sỉ nhục của giới mệnh lý Việt. Cho nên Durobi đừng băn khoăn gì về chọn giờ sinh. Ở sâu thẳm trong lòng chúng là sự bất lực khó đối mặt. Trước đây, sau này và mãi mãi như vậy. Cho chúng xem cùng một lá số. Hôm nay nói khác, ngày mai lại nói khác. Bởi vì làm gì có hệ thống xem, nhìn thấy cái gì thì nói cái đó. Không cần chỉ trích, chúng cũng tự khổ mỗi khi nhìn lá số. Với chúng, đối mặt với lá số cũng như đối mặt với bồi thẩm đoàn trước phiên toà. Chúng càng cố gắng cào cấu chứng tỏ bao nhiêu, thì trong tâm hồn lại càng thê thảm bấy nhiêu.

Ôi về đâu, về đâu hỡi những Thần Khê trong đêm tối tắt đèn đầy mưa gió?

….

Cần có Pháp để xem nhất quán. Có Pháp sẽ tránh được cảnh râu ông nọ cắm cằm bà kia. Xem kiểu này thì dùng tiểu vận, xem kiểu kia thì bỏ tiểu vận dùng thái tuế. Ôm đồm tất cả là tự triệt tiêu lẫn nhau mà tự gây hoang mang. Sát tinh trong cách xem này là hung, nhưng trong cách xem khác chưa hung. Ngũ hành trong phép xem này là nhẹ nhưng trong phép khác là nặng. Có Pháp thì ngưng bắt chước là một, và chấp nhận sự khác biệt của người khác là hai. Giống như Thiếu Lâm và Võ Đang đường lối tập luyện và ra đòn là khác nhau. Vì tôn chỉ cương nhu ban đầu đã khác nhau rồi. Người ta khởi đại hạn tại phụ mẫu huynh đệ xem là trúng, mình bắt chước là xem sai. Vì người ta coi một sao Thiên Hư hay Tang Môn nặng như núi. Cách xem của mình lại coi nhẹ mấy sao đó. Cho nên không bắt chước được. Cách xem cần đồng bộ và toàn diện. Không thể lấy mũ này đội vào giáp kia được. Đó là điều cơ bản cần nhận thức được trước khi xem tử vi.

Chọn cách xem nào? Cách đó coi cái gì là nòng cốt, cái gì là nhẹ?

….

Bắt đầu biết sợ cái nắng Hà Nội. Tiền tài là nước, danh vọng là lửa. Nước chảy chỗ trũng và lửa bốc lên cao. Cúi càng thấp thì khả năng móc túi người khác càng cao. Nên kẻ sĩ chửi bọn tiền tiền là đê hèn. Bọn tiền tiền lại chửi bọn sĩ sĩ là danh hão ảo vọng. Thận thuỷ phía dưới, tim não hoả phía trên. Thuỷ nhược thì yếu mà não nhược thì ngu. Thuỷ quá thì úng mà hoả quá thì khô. Cân bằng thuỷ hoả là cân bằng tiên quyết của lá số, nói m ra là cân bằng cuộc đời. Hướng nghiên cứu này hay quá mà chưa thấy ai lao vào. Cân bằng của danh và lợi. Danh với lợi chuyển hoá cho nhau, thiên lệch nhau, cân bằng nhau.

Sát tinh là sự trái khoáy các nguyên lý. Người sáng lập tử vi thấy chỗ nào trái, sự nào trái thì đặt là sát tinh. Có hai cách để xử lý sát tinh, đó là chế và hoá. Chế là dùng Tuần Triệt, không vong là lực lượng điều chỉnh, gây áp chế sát tinh tạm thời. Sát tinh ngộ chế thường phát võ. “Sức mạnh sẽ không là gì nếu mất sự kiểm soát” là câu nói của một vị tổng thống bằng tiếng anh. Dịch hay như trên là câu của tôi. Sức mạnh là sát tinh. Kiểm soát là không vong. Nôm na là ngăn nó lại, chặn nó lại. Mẫu hình này là mẫu người tài năng nhưng tính xung sát, vào vận sát tinh còn ngộ chế thì phát. Khi sát tinh hết chế là nát. Như Lý Tiểu Long, hay như một người trong truyện của nhà văn Hồng Ngọc. Anh bạn này của nhà văn xuất sắc từ nhỏ, học Tiếng Pháp hay võ thuật đều xuất sắc, lớn lên vào Polytechnic của Pháp học, nói chung là đặc biệt tinh anh tầm thế giới, nhưng lỡ vung chân đá chết người trong trường đại học nên bị đuổi học. Sau về Việt Nam bị què chân và lấy chị bán cháo vỉa hè cao tuổi. Ông nhà văn kể lại với giọng đểu giả kiểu: đấy, bạn tao đấy, tài năng hơn tao, cuối cùng bị đuổi học què chân về nhà, lấy vợ già bán hàng rong chứ làm gì đâu. Không sao, chuyện đời giậu đổ bìm leo là bình thường. Dựng giậu lên là bìm đứt hết. Tôi không biết lá số nhân vật đó nhưng với nhậy bén của nhà mệnh lý thì đoán anh ta thuộc dạng sát tinh ngộ chế.

Còn cách thứ hai là hoá, tức sát tinh đi kèm cát hoá. Như Tôn Trung Sơn mệnh thân Không Kiếp Hoả Linh, có Lộc Quyền, đời trai đi buôn buôn lỗ, làm gì cũng hỏng, trừ làm cách mạng. Sau này vĩnh viễn được tôn là quốc phụ vì có công lật đổ nhà Thanh. Khi phong trào Thái Bình Thiên quốc sụp đổ, có người lính già giải giáp về quê, qua một ngôi làng bèn ngồi gốc đa kể chuyện kháng chiến chống Mãn Thanh tuy thất bại nhưng hào hùng. Trong đám trẻ con nghe chuyện xung quanh khi đó có một người, đó chính là Tôn Trung Sơn. Khi đó Sơn nhẩm: vụ này các anh cứ để em. Ông lão mà biết chuyện có Thánh Cách Mạng sau này đang ở đó chắc chết ngất.

Cho nên Tài và Quan đều bị triệt tuần thì hai tay như bị cụt, ngoại trừ cách cục VCD Nhật Nguyệt tịnh minh. Hai tay bị cụt thì không có lý tưởng làm gì, chỉ láng cháng nói phét rau cháo qua ngày. Nếu cố gắng làm thì thành tựu nhỏ, đụng đâu hỏng đó, vì không vong gây ảo giác. Rằng nghe thì thật là hay, mang ra đời thực cay cay thế nào.

Mệnh tuần thân triệt hay mệnh triệt thân tuần cũng vậy, cả đời sống trong phiêu bồng ảo mộng. Ngày nay giới trẻ gọi là sống ảo. Oai, đẹp và vô dụng. Nhưng cố sống cố chết phải bám lấy, vì oai. Cái ảo của Tuần Triệt nữa là bắt chước, cứ bắt chước như con khỉ mà không hiểu gì.

Mệnh thân vĩ nhân ít khi bị tuần triệt, nếu có cũng là cách cục VCD Nhật Nguyệt tịnh minh. Độ số của lá số có thể từ Tuần Triệt mà nhìn ra. Nhìn Tuần Triệt mà ra độ số. Tuần Triệt đóng phá Mệnh Thân hoặc Tài Quan, lại không cát hoá lại lắm sát tinh, nhìn tự biết là xấu. Cái xấu nó thể hiện vô vàn ở tính cách không hợp lý. Dẫn đến hành động không đúng thời, đúng vị. Kiểu như hoang vọng, thiếu thực tế. Thiếu kiên trì, thiếu sáng suốt.

Cách cục tốt mới xem đến khí lực của cách cục. Như chân tay què cụt thì xếp vào paragame chứ làm gì phải xét khoẻ hay yếu. Chân tay bình thường, cá tính riêng biệt rồi, để phân định thắng thua mới vào cuộc đấu. Đấu chiến thắng sẽ là vô địch, tức hoá Lộc hoá Quyền. Đội vô địch là một trong hai đội đi xa nhất. Nó hơn đội nhì ở một chút hiệu quả. Mà hiệu quả ngang nhau thì hơn ở may mắn. Lúc đó mới xét may mắn. Chứ chặng đường là nỗ lực và kỷ luật các bố các mẹ ạ. Làm x làm ở đó mà cầu may câu mắn.

Thế nhé các liền anh liền chị, đang bận đi bơi với Ngọc Trinh.

Hoan hỉ nha, ghét tôi làm gì. Ấn đường Alex tôi sáng như mặt trời. Có ghét nữa cũng không làm gì được đâu. Càng ngày tôi càng mạnh như voi.

Cố gắng, phấn đấu. Ahihi

….

Gieo hạt trước, tưới nước sau. Gieo hạt là điều kiện cần, tưới nước là điều kiện đủ. Cả hai đều quan trọng nhưng thứ tự phải như trên.

Nguyên tắc này Lưu Bá Ôn đã phát biểu: ngũ dương tòng khí bất tòng thế, ngũ âm tòng thế vô tình nghĩa. Tức là năm can dương theo khí, còn năm can âm chỉ theo thế chứ không cần có tình nghĩa. Ngũ âm thì gió chiều nào theo chiều đó, phù thịnh không phù suy. Đó không phải là xấu mà đơn giản họ là ngũ âm. Âm thì phải vậy.

Hạt giống là cốt lõi, không có hạt giống thì tưới nước bao nhiêu cũng không có mầm nảy. Dương chủ sáng lập, dương định nghĩa vấn đề. Dương là đầu. Đầu phải đi trước. Âm là đuôi. Âm đi theo sau. Âm không bao giờ đi trước hay chẳng bao giờ sáng lập cái gì. Đó là việc của dương, không phải việc của âm chúng tôi.

Khổng Tử nâng cao quan điểm coi dương là quân tử, tức những người có lý tưởng có nguyên tắc sống. Coi âm là tiểu nhân, những người không có lý tưởng, lợi đâu làm đó và không có nguyên tắc kỷ cương. Đó là quan điểm của Nho gia, đời thực cần cả âm cả dương mới diễn hoá được vạn vật. Khổng Tử coi âm là lũ mất nết, nhưng đời thực phải có bọn mất nết như vậy.

Định nghĩa của âm dựa vào dương. Nóng là dương, vậy lạnh là sự vắng mặt của nóng. Không tồn tại cái gọi là lạnh.

Quán nướng Hàn Quốc có tất cả mọi hiện hữu là Việt Nam, như thực phẩm Việt, người làm công Việt, quản lý Việt. Nhưng ý chí Hàn Quốc, tôn chỉ Hàn Quốc, luật chơi Hàn Quốc. Cho nên đó vẫn là quán nướng Hàn Quốc. Sản phẩm của công nhân áo kẻ caro con Rồng cháu Tiên dưới ý chí Hàn, chúng tôi gọi là Samsung. Có ai nhớ tên những công nhân đó không ? Có, bố mẹ các công nhân đó. Còn chúng tôi, chỉ nhớ tới Samsung.

Nô lệ Việt, đốc công Việt, bản vẽ Pháp, ý chí Pháp, xây nên con đường Pháp, công trình Pháp. X nói nhiều. Về sau kể công chả lẽ bảo người Việt tôi đi bốc gạch cho công trình à.

Lịch sử đánh giá một danh nhân qua tư tưởng và công trình chứ x quan tâm cao thấp lùn béo, đồng tính dị tính, chịch bao em bao thằng. Vì phần đời thường nó giống nhau quá. Và phần âm mục đích cũng chỉ phục vụ phần dương. Cơm ăn nước uống như nhau, vấn đề là đi đâu làm gì. Chúng sinh nhìn người năm châu bốn bể thấy giống nhau. Phật bảo tao thấy không khác, chỉ là sinh bệnh lão tử. Mắt xanh mũi lõ chỉ là cái vỏ, thất tình lục dục như nhau. Nay khoe mặt mai khoe mông x quan trọng, vấn đề là làm gì và đi về đâu.

Mọi cuộc chiến, mọi cuộc cạnh tranh, mọi cuộc thương hải tang điền đều phải có cương lĩnh, có ý chí, nhỏ hơn là chiến lược là đấu pháp. Trong thể thao nếu không có đấu pháp, cứ tủn mủn phản ứng theo đối phương thì sớm muộn cũng thua vì bị áp đặt ý chí lên toàn cục. Lindan thắng Lee Chung Wei ở chiến thuật thể lực. Hiệp một Lin thắng, hiệp hai Lee thắng và bị vắt kiệt sức rồi hiệp ba Lin thắng cách biệt. Lee Chung Wei một trận thay mấy cái áo vì sũng mồ hôi, mệnh thuỷ tạng thuỷ. Lee sinh cùng ngày với tôi, ra mồ hôi nhiều là đương nhiên, chúng tôi đều là thần thánh trong các lĩnh vực khác nhau thôi. Châu Á chúng tôi rất giỏi ở những môn chơi có sân chơi nhỏ hẹp. Bóng bàn cầu lông bọn Tây mũi lõ vào đây mà bơi. Từ tennis trở lên Châu Á bọn anh nhường các chú, chứ đừng nói bơi lội hay bóng đá.

Các dân tộc khác nhau, có thể mắt xanh mắt nâu khác nhau, râu rậm khác nhau, nhưng nếu anh em chúng tôi cùng ý thức hệ là cung cách chúng tôi giống hệt nhau, x nói nhiều. Chúng tôi gọi nhau là đồng chí, tức cùng chí hướng.

Cho nên không có hạt giống dương thì cái khối vật chất đó là giả. Mệnh lý gọi là vô căn tức không có gốc. Hoa tươi trong lọ thì tươi mấy hồi. Không có “hạt giống”, thì không phải là chân tài thực học. Đó là bọn giả hình. Bọn thợ dạy đóng vai thầy, bọn đâm thuê đóng vai hiệp sĩ. Bọn lang băm đóng vai thần y.

Một dân tộc cần có ý chí hay hào khí. Cái hào khí đó mất, dân tộc đó chết, x nói nhiều. Có sống cũng chỉ là bọn búp bê văn hoá, khoác trên mình văn hoá của dân tộc khác.

Hạt giống đó là hồn, thơ xưa kêu hồn nước. Mất hồn là cái xác không hồn. Về cá nhân, con người không có lý tưởng, Nam Cao kêu là sống mòn.

Trong tử vi, lộc có hạt giống của lộc đó là lộc căn. Lộc vô căn thì giàu mấy cũng là cái vỏ. Quyền lực có căn nguyên của quyền lực, vô căn thì oai mấy cũng là quyền rơm. Và hoạ có căn nguyên của hoạ, vô căn thì rùm beng mấy cũng là hoạ nhỏ. Tử Vân gọi là duyên khởi duyên diệt, thực ra đó chỉ là dương khởi âm tòng.

Cho nên cần gieo hạt, phát hiện hạt giống và vun đắp những hạt giống đó. Cái khác x quan trọng. Trong cờ, nhìn được các điểm cốt lõi như vậy là bắt đầu bước vào giới cao thủ. Trong mệnh lý, nhìn được vậy thì bắt đầu hết lạc lối.

Trong phong thuỷ, toàn ngôi nhà hay cuộc đất toát lên khí chất èo uột, thì dù có dát vàng nhưng thầy phong thuỷ phán: vô khí. Còn nhà ngói năm gian mà khí thế ngút ngàn, thì nhất định con trai đang đi xa làm cách mạng và sẽ thành công.

….

Đừng có dạy học viên tử vi chiêu thức hay hệ thống lý khí cái gì gì. Hãy khơi dậy đam mê từ họ, họ sẽ tự tìm đường. Tìm không thấy họ sẽ tự tìm người dẫn đường tức là thầy. Thầy ở khắp nơi, có thể là người, cũng có thể là lịch sử, cũng có thể là tự nhiên. Người giúp họ có thể là mình, có thể không phải là mình. Nhưng còn đam mê thì rồi một ngày họ sẽ thấy đường. Hết đam mê thì có đường, chân cũng không bước. Hãy để tình yêu mệnh lý dẫn lối các Thần Khê đi qua vùng tăm tối. Tình yêu x phải để khoe. Loại yêu khoe là loại giả cầy. Che được mắt đời chứ không che được mắt Thánh. Hãy kiên trì tiến lên, hỡi giới thầy bà. Đừng đi theo ánh sáng thì sẽ không sợ bóng đêm che mắt. Hãy để đam mê dẫn lối và tớ đang chờ các Thần Khê ở đây.

….

Sự tổ hợp cách cục quan trọng hơn đắc hãm. Vì đơn giản đắc hãm là vấn đề của một sao riêng lẻ. Như trong đội bóng có thừa tiền đạo nhưng thiếu hậu vệ mà tiền đạo xuất sắc cũng là đội hình khuyết thiếu.

Sát tinh không phải vấn đề xấu tốt, vấn đề xấu tốt là do sát tinh đó tạo thành cách gì và đóng ở đâu.

Cách cục cho biết kiểu thành công. Mô tả cách chung quy lại phải dùng từ kiểu. VCD Nhật Nguyệt tịnh minh song lộc là một kiểu. Kình Dương độc thủ là một kiểu. Môn tử vi có nhiều cách dùng nhưng chung quy để xem thành công thất bại. Thành công trên đời thực có muôn hình vạn trạng, bởi vì cách cục khác nhau. Cứ đắc cách là thành công, phá cách là thất bại. Xem tử vi là xem cách cục và xoay quanh cách cục để đánh giá phân định.

Đã nắm được cơ bản trên, thì từ đó hiểu rằng việc xuất hiện một hai sao lẻ không nói lên điều gì. Thực ra, nói sao lẻ là cái nhìn của người xem chứ không có sao nào đi lẻ. Các hệ sao có mối quan hệ chặt chẽ. Khi không tổ hợp thành cách cục thì sao đó trông có vẻ đi lẻ.

Từ đó ảnh hưởng tới quan điểm xem vận. Phía trên đã vạch rõ sát tinh không phải xấu, mà phá cách mới xấu.

Vậy vận xấu là vận phá cách, vận tốt là vận đắc cách. Thế nào là phá cách ở vận ? Không ai dạy, không sách nào nói. Thế nào là đắc cách ở vận ? Cũng không ai dạy. Nó là cộng gộp cách cục ở lá số tĩnh với các sao ở vận hay nó đơn giản là các cách cục gặp phải ở vận ?

Thực ra cả hai cách xem đó chính là một.

….

Quay trở lại lá số Bill Gates, một ví dụ ưa thích của tôi. Ưa thích vì cách lấy ngày âm lịch địa phương đả phá man thuyết. Ưa thích vì BG là tỷ phú hiện đại lại ứng nghiệm mẫu mực với triết học cổ đại phương đông, đập tan man thuyết cách lập tử vi bị sai lệch theo thời gian. Ưa thích vì cục mệnh tương sinh, âm dương thuận lý, những lý luận bị lãng quên theo năm tháng. Ưa thích vì cung tài bạch là mẫu mực của cách cục VCD tam không song lộc. Ưa thích vì tử vi nam phái được biểu hiện rõ nét trên lá số BG. Ưa thích vì nhiều thứ.

Nói đến cách cục VCD tam không song lộc thì cách cục này có ba phần: VCD+tam không+song lộc. Tiên quyết là VCD phải có tam không, ở đây có Triệt án ngữ. Là điều kiện cần. Đồng thời người mới học hiểu luôn VCD không có tam không là kém hơn. Song Lộc là điều kiện đủ. Nếu gò ép tam tài vào đây thì. VCD+tam không như tài thiên tài địa được ấn định, tuy nhiên cần có tài nhân là song lộc thì mới hoàn thiện. Giống như học giỏi là điều kiện cần, nhưng thành công mới là điều kiện đủ. Người mới học cũng hiểu luôn là nếu VCD+tam không mà thiếu song Lộc thì không thành cách cục.

Ngoài ra, cách cục cần tránh có sát tinh nằm tại bản cung. Vì sao ? Có phải vì sát tinh phá hoại cái gì đó. Đừng tư duy theo kiểu đó. Hiểu đơn giản đó là một cách khác. VCD có sát tinh đơn thủ như Kình Dương độc thủ là một kì cách. Đã Kình Dương độc thủ thì không nên gặp Tuần Triệt nữa. Đã không thì không cho sạch, đã có thì có cho đủ. Cho nên VCD đắc tam không thì không nên có sát tinh. Có sát tinh thành hỗn độn hai cách, hỗn độn là tạp, tạp là phá, đơn giản như vậy.

Điểm tiếp theo là lá số này mệnh kim. Cách cục VCD đắc tam không ứng cho mệnh hỏa mệnh kim. Thì phải hiểu mệnh khác là kém hơn, hoặc nói một cách cứng nhắc là không thành cách. Lá số BG là ví dụ mẫu mực vì thế, nó ứng tất cả các lý thuyết kinh điển đã bị lãng quên. Nếu BG sinh vào mệnh thổ thủy mộc thì không thành chuyện. Ở đây, ông ta sinh mệnh kim.

Đã mệnh kim, ông ta lại sinh vào tiết Hàn lộ trước Lập Đông, tức mùa thu, thuyết mùa sinh lại ứng nghiệm. Ứng nghiệm trực tiếp không vòng vo. Sau này 30 năm hành vận qua các cung tuất dậu thân đều là kim địa. Bước vào vận hỏa là lúc khí thế đi xuống.

Ông ta mệnh kim. Chính tinh thủ mệnh là Thái Âm thuộc thủy. Cục sinh mệnh, mệnh sinh chính tinh. Thuyết ngũ hành bản mệnh tương sinh tương hòa với chính tinh thủ mệnh cũng ứng nghiệm.

Tài cung của ông ta có Thái Tuế đóng, tam hợp mệnh tài quan thuộc tam hợp thái tuế. Thuyết thái tuế ứng nghiệm. Mệnh thuộc tam hợp thái tuế còn nói lên âm dương thuận lý, tức Triệt cung tài là Triệt cung âm tức chính cung. Thuyết phân Không Vong theo chính phụ âm dương cũng ứng nghiệm.

Tuy nhiên, thuyết phúc cung phải đẹp thì đời mới khá của nam phái là man thuyết. Phúc cung của BG phải nói là xấu nhất lá số. Đồng Cự hãm, Hư Phá. Tất nhiên, Đồng Cự hợp Tang Mã Khốc Hư nhưng không thể phủ nhận đó là cung phúc xấu. Cho thấy, bản cung mệnh thân tài quan vẫn là cường cung và tối quan trọng trong tử vi, chứ không phải phúc cung. Những kẻ tôn vinh phúc cung vì chúng dựa vào hai từ phúc đức mà gán cái phúc đức của đời thực vào phúc cung, kết quả là sai bét và làm khổ bọn hậu học. Ta cần nắm tay nhau mà thống nhất rằng, phúc cung không phải thể lấn át mệnh thân, nói thẳng ra chỉ là thứ yếu. Có người bảo có thể BG không hạnh phúc về nội tâm để vớt vát cho phúc cung nhưng xin thưa cái đó không ai biết, tôi không biết, bạn không biết. Chỉ biết nếu lấy phúc cung định thành công của đời người theo con mắt trần tục là sai, thế thôi.

Cung nô bộc xấu, BG không có bạn bè. Đây là man thuyết. Vì cũng đơn giản mệnh thân đã mạnh thì các cung trái lý âm dương phải yếu. Nếu nói mệnh mạnh hơn nô thì nhiều bạn và quản được mối quan hệ bạn bè, tôi thấy đúng hơn.

Theo tứ hóa phái, tuổi Ất Thiên Cơ Hóa Lộc tại thiên di, Thái Âm Hóa Kị tại mệnh. Lộc Kỵ như một dòng chảy của thiên hạ đổ về mệnh. Cung tài đứng chữ quý mùi, Phá Quân hóa Lộc xung điền. Cung quan đứng chữ Kỷ Mão, Vũ Khúc hóa Lộc cung điền. Nói chung tài quan đều phi hóa trục tử điền. Thiên di Hóa Lộc đứng chữ tân tỵ, Cự Môn hóa Lộc nhập phúc xung tài, cũng là cách cục “tiền rơi vào túi”. Nói chung theo tứ hóa phái thì tài khí trên lá số BG được quản rất tốt. Hóa Lộc thuộc thiên di là tha cung, chứng tỏ thuyết tha cung ngã cung là man thuyết.

Cung mệnh đứng chữ Đinh Hợi, Thái Âm tự hóa Lộc. Có thể nói Hóa Lộc thiên di đổ về mệnh theo dòng Lộc Kỵ, sau đó tại mệnh tự Hóa Lộc là tốt đẹp. Thuyết nói rằng bản cung tự hóa Lộc nên Hóa Lộc không đổ được về là man thuyết, suy diễn gò ép.

Lá số BG, mệnh cung Hóa Kị, hai bên giáp Không Kiếp, cho nên thuyết Không Kiếp hiệp Kị là man thuyết.

Cho nên nói rằng trong tử vi, cách cục là quan trọng chứ không phải đắc hãm của mấy sao riêng lẻ. Có nghĩa là gì, có nghĩa là sự tương đối trong tử vi được đánh giá cao hơn sự tuyệt đối. Cũng là sát tinh nhưng trong hoàn cảnh khác nhau thì khác nhau chứ không phải cứ sát tinh là xấu. Các hoàn cảnh đó chính là cách cục. Có nghĩa là một cung nô xấu, nhưng mệnh thân tài quan mạnh thì người đó làm chủ mối quan hệ. Nếu hiểu ngược lại cung nô là cấp trên có khi đúng hơn. Có nghĩa là BG không có cấp trên, ông ta là chủ tịch tập đoàn, đứng trên rất nhiều người, đồng thời còn là Thái Tổ của đế chế tức nhà sáng lập, tức là không có cấp trên, hay không có tiền bối. Đó chính là cung Nô xấu.

Tật ách Tử Vi Hóa Khoa, gặp Triệt bị phá cách tuy nhiên vẫn là các thiện tinh. BG là nhà từ thiện có tấm lòng hữu hảo. Tôi tin vậy, vì có người bảo ông ta giả vờ. Tôi nghĩ rằng ông ta cóc cần giả vờ. Khi đứng ở ngưỡng sát bầu trời, thích gì có thể làm đó, chẳng có gì phải giả vờ hay nịnh nọt ai. Cho nên thuyết tật cung tốt đẹp có trái tim nhân hậu, tôi tin là đúng. Nó còn đúng hơn thuyết phúc cung tốt đẹp là sung sướng thành công của mấy thằng ngu nào đó bày ra. Những thằng ngu chỉ biết đọc sách mà không thực hành bao giờ.

Rồi, đến thuyết thân cư thê được nhờ vợ. Nếu nói theo kiểu tâm linh thì miễn bàn, vì không thể kiểm chứng. Còn ở đây, đó là man thuyết. Thậm chí thuyết Thái Tuế của ông Thiên Lương ở đây còn đúng hơn. BG một tay sáng lập và chèo lái, chẳng liên quan đến bà vợ. Nếu nói thân cư thê nhưng thê VCD nên không được nhờ thì còn phải tranh cãi. Vì ở đó có cách cục Linh Tinh độc thủ rất ứng nghiệm với cách cục Nhật Nguyệt tịnh minh và BG ông ta làm tin học. Cung thân nó ứng với bản thân ông BG hơn là bà vợ ông ta. Nói chung, thuyết thân cư thê được nhờ vợ là man thuyết.

Có điểm thú vị nữa là lục vinh Thai Tọa Quang Quý Khôi Việt trên lá số của BG đều nằm ở bàng cung, những cung trái lý âm dương. Có nghĩa là gì, có nghĩa là những sao này chẳng đóng góp gì vào cách cục ở chính cung của ông ta. Nói gì thì nói, sự tồn tại của chính cách vẫn quan trọng hơn sự tốt đẹp lẻ tẻ. Và người nào nghĩ rằng nhờ có lục vinh mới vinh hoa phú quý thì đó là nhầm. Lục vinh theo tôi là vôi ve rồi sơn véc ni, chứ cốt cách mà không có cách cục thì cũng chẳng làm gì được. Đã là gấm thêu hoa sẽ đẹp hơn. Chứ thêu hoa trên giẻ lau thì cũng không ăn thua. Giống như cô cave có thể gò mình nói lời hay ý đẹp êm ái lừa đời rằng mình là thục nữ một lúc, nhưng theo thời gian lại vã mồm như một cô cave chính hiệu, vì đơn giản bản chất họ là vậy. Nội hàm chỉ có vậy.

Chào cave, quay lại lá số. Thấy rằng sáu cường cung của BG chỉ có Linh Tinh lọt cung thân cư thê. Còn lại năm sát tinh đều nằm ở bàng cung. Đây là một điểm rất tuyệt của lá số. Đơn sát, giữa quần cát là đại quý. Còn đơn cát, giữa quần sát là đại họa. Đây chính là nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số. Nhưng phải có sát mới quý, còn nếu như thuần cát tòe loe không ăn thua. Phải có sát mới có cốt. Không có sát, giống như anh vua trong gánh tuồng, bên ngoài là áo vua nhưng bên trong là người diễn viên thường dân. Hay nói cách khác, các sát tinh cần xa lánh cường cung. Thôi thì liền anh liền chị nào mới xem chứ xem mỗi cường cung đã. Coi các bàng cung là người khác đi. Cường cung là ta. Sát tinh là xấu, nhiều cái xấu không vào ta là ta tốt đã. Đỡ phải loằng ngoằng. Nói tóm lại kiến thức cơ bản, sát tinh xa lánh cường cung quan trọng hơn những sao lẻ tẻ như lục vinh Thai Tọa Quang Quý Khôi Việt.

Điểm qua thấy nhiều chính thuyết cũng như nhiều man thuyết. Biết được man thuyết, tránh đi rồi chính thuyết sẽ tự có. Không cần một lúc nhặt cả đỗ đỏ đỗ đen, cứ nhặt hết đỗ đen là trong nia chỉ còn đỗ đỏ.

Kính chào các liền anh liền chị, tôi đi ăn cơm đã.

….

http://tuvilyso.vn/…/MTk5OXw1fDIzfDd8MXxHYXRlcywgUm9yeSBKb2…

Lá số cậu ấm Gates, Rory John con trai Bill Gates.

Đây là một lá số không có tranh cãi về ngày âm lịch thiên văn. Chỉ chỉnh giờ tiệm quang được múi giờ ngọ ngày 9 tháng 4 âm lịch năm Kỷ Mão.

Điểm thú vị đầu tiên của ba lá số ba bố con nhà BG là cả ba lá số đều thuộc tinh hệ Tử Vi tí ngọ. Điều này là thường thấy trong đời thực. Cùng một tinh hệ tử vi thì có quan hệ gần gũi, nhất là các thành viên trong cùng một gia đình, nhà nào Sát Phá Tham toàn sát phá tham, nhà nào Nhật Nguyệt đa số Nhật Nguyệt. Ví dụ nổi bật nhất là hai cha con vua Thành Thái và Duy Tân đều có cách Sát Phá Tham. Tôi tin vào điều này, nên cách xem con cái có thừa kế cơ nghiệp của cha hai không chỉ cần đơn giản xem tinh hệ và sao thủ mệnh.

Cậu ấm John cho một thông tin thú vị rất khớp với các lá số vua Trần, điều mà tôi rất ưng. Đó là mệnh cậu ấm có tứ vinh Quang Quý Thai Tọa, điển hình trong các lá số thái tử. Có thể sau này thừa kế không nhiều, có thể sau này ra sao đó nhưng tứ vinh đủ nói lên tổ nghiệp của anh ta. So sánh với lá số bố cậu ấm tức BG, lục vinh nằm hoàn toàn ở bàng cung, có nghĩa là gì ? BG muốn nói rằng: tôi không phải cậu ấm. Đó có thể nói là tinh hoa của môn tử vi có thể lột tả tỉ phú đời đầu và tỉ phú đời hai.

Cục mệnh tương sinh, âm dương thuận lý, độ số không tầm thường. Tuy nhiên, không được mùa sinh vì mệnh thổ sinh tháng tư thuộc tiết Tiểu Mãn là hư thổ.

Cách cục cung phụ mẫu là Tử Phủ Vũ Tướng song Lộc Hình Quyền Khôi Việt, nói chung miễn chê ngoại trừ trong tam hợp có Tuần Triệt án ngữ một góc. Cung phụ mẫu là bàng cung, tuy ứng nghiệm với cha là tỷ phú nhưng điều đó gián tiếp nói lên rằng cung mệnh sẽ bị lấn át. Khả năng cậu ấm John này vượt qua được cái bóng của bố là rất thấp.

Sang cung phúc. Tôi tưởng tượng, có một ngày cậu ấm John cầm lá số đi gặp thầy tử vi xem. Thầy liếc qua cung phúc phán rằng: tôi nói thật với cậu, cậu còn sống là may, ngày đủ ăn hai bữa, chứ cung Phúc của cậu Âm Dương hãm có đến tứ sát bủa vây cung VCD thì phúc đức cái gì. Điều đó sai với đời thực, nên tôi chê cách dùng phúc cung định hình phúc đức của đương số. Nếu sau này John chết trẻ hay có một cuộc đời thê thảm thì cung phúc này đáng xem lại. Chứ cứ thế này là tôi rất chê. Đơn giản thôi, bàng cung phụ mẫu đã tốt thì chính cung phải tệ. Dù sao, sát tinh miếu là một điểm vớt vát cho cung Phúc, chỗ này tôi không chê được. Nếu có tay nào bá đạo luận luôn rằng sát tinh hay không không quan trọng, miễn là miếu vượng thì đẹp hết, thế thì tôi ưng. Đồng thời thuyết VCD bị sát tinh dòm ngó thì xấu là man thuyết.

Số này mệnh Thiên Cơ ở hợi, hội đủ ngũ sát Kình Đà Không Kiếp Hỏa, trong đó Không Kiếp miếu, Kình miếu Hỏa vượng, có Đà La là hãm. Cho nên, nếu mù quáng đếm sao cho rằng có ngũ sát bủa vây lại còn phúc cung xấu nên cậu ấm John bạc mệnh thì coi chừng bị đập tráp. Qua lá số của cậu ấm John, tôi nghĩ nam phái nên cẩn trọng xem các trường hợp sát tinh miếu địa. Vì miếu hãm nó thuộc hàng Địa, theo thuyết tam tài sẽ ảnh hưởng vượt trội và lấn át tính sát của sát tinh, vì tính chất của tinh đẩu chỉ thuộc hàng Nhân mà thôi. Hơn nữa, Hỏa Linh có Thai Tọa, Không Kiếp có Quang Quý, Kình Đà có Tả Hữu là những cách hóa giải đã nói nhiều lần. Có thể nói sát tinh của lá số này được hai điểm: thứ nhất là miếu vượng, thứ hai là đã được hóa cách.

Điểm qua để nói lên một điều rằng sách vở để lại nói không hết ý, nếu không kiểm chứng thì khó tránh khỏi man thư man thuyết. Chân lý thực sự, luôn đơn giản.

Theo tứ hóa phái, cung phụ mẫu và điền trạch đều đứng chữ Bính làm Thiên Đồng ở cung tài hóa Lộc, cung tài đứng chữ Tân làm Cự Môn hóa Lộc là tự Lộc. Có thể nói quan hệ tứ hóa này tô đậm ảnh hưởng của cha mẹ lên cậu ấm, và là ví dụ mẫu mực khi xem lá số các cậu ấm cô chiêu. Cung quan đứng chữ Đinh làm Thái Âm hóa Lộc thiên di chiếu về, cũng là cát tượng. Nói chung theo tứ hóa phái thì lá số này quản lộc khá tốt.

Còn một điểm nữa cổ xúy cho nam phái, đó là cung Tài giáp song Lộc, cách giáp đương nhiên là từ bàng cung, tức sự trợ giúp của người khác chứ không phải chính mình. Cho nên công việc tài chính được hỗ trợ, nói tóm lại đó là một cung tài tốt một cách gián tiếp. Nhưng lưu ý các cách giáp hợp, vì dù sao chúng là bàng cung, chính cung xấu thì bàng cung luôn đẹp. Khi chính cung xấu, mới vớt vát xem giáp cách. Nếu cẩu thả coi giáp cách như chính cách thì cách xem sẽ bị loạn.

….

Hôm nay quay lại chuyện mệnh cục tương sinh, âm dương thuận lý.

Đầu tiên, chúng ta hiểu là âm dương và ngũ hành tuy có cùng nguồn gốc nhưng dù sao khi thoát thai thành âm dương ngũ hành rồi thì chúng nó biệt lập. Tức là âm dương trong lá số là chuyện âm dương, ngũ hành là ngũ hành. Có thể phối hợp và cũng có thể phá hoại nhau.

Môn tử vi trọng âm dương, nên phải an theo âm lịch. Vì âm lịch thể hiện tương tác mặt trăng với trái đất. Môn tử bình thì trọng ngũ hành nên họ xem theo tiết khí. Liền anh liền chị nào mới học thì cứ hiểu cái gì liên quan mùa và tiết khí là ngũ hành, cái gì liên quan ngày đêm nóng lạnh sáng tối là âm dương.

Cơ bản phải thống nhất với nhau là âm dương thuận lý tốt hơn nghịch lý, và dương thuận lý tốt hơn âm thuận lý. Và mệnh cục tương hòa tương sinh tốt hơn tương khắc. Trên mọi lá số đều như vậy, nhưng đó không phải yếu tố quyết định thành công đời người. Cái thành công mà đời thực gán cho con người thường là kết quả cuối cùng. Như vua Nguyễn Ánh, cuối cùng thành công nhưng con đường quá gian truân khổ ải. Như Càn Long, cũng thành công nhưng đời trai mượt như lụa từ bé cho đến hơn 84 tuổi. Tất nhiên, cũng phải binh biến thịt ông em, nhưng dù sao đỡ nhọc hơn bác Nguyễn Ánh rất nhiều.

Mệnh cục tương sinh, âm dương thuận lý không cho biết kết quả thành công cuối cùng, nhưng mô tả được chặng đường. Tương sinh và thuận lý thì êm ái, tương khắc và nghịch lý thì vất vả. Nhưng có những êm ái không thành công và có những vất vả lại thành công. Cho nên đừng bao giờ đi hỏi cái câu của mấy thằng lười một đập ăn quan: vì sao âm dương nghịch lý mệnh cục tương khắc lại thành công. Cho nên trong sách của Thái Thứ Lang chỉ nói là tăng độ số hay giảm độ số chứ không dám nói thành công hay không, chẳng ai dám nói kể cả Trần Đoàn lão tổ. Mấy chục năm xem tử vi, nhiều người bỏ qua hai yếu tố này vì không biết dùng. Tôi cũng vậy trong nhiều năm, đến khi khoanh được phạm vi tác dụng. Không dùng được vì khoác cho nó nhiều trách nhiệm quá. Trong khi âm dương ngũ hành chủ về lý về logic chứ không chủ về hình ảnh về sản phẩm. Thành công là một sản phẩm, sờ được và nhìn thấy được. Âm dương ngũ hành thấy được nhưng không sờ được.

Lấy một ví dụ điển hình, vì sao Khôi Việt Quang Quý được gọi là quý nhân. Tên đầy đủ là Thiên Khôi Quý Nhân, Thiên Việt Quý Nhân và Ân Quang Quý Nhân Thiên Quý Quý Nhân. Khôi Việt ngoài hai can Đinh Quý an thuận lý âm dương với năm sinh, còn lại 8 trường hợp an nghịch lý âm dương. Quang Quý là sản phẩm từ giờ và ngày. Khi ngày và giờ cùng lý âm dương thì Quang Quý an cung âm, khi ngày giờ trái lý âm dương thì Quang Quý an cung dương. Tức là cả Quang Quý và Khôi Việt ủng hộ cho các cung trái lý âm dương. Trên lá số có ghi âm dương nghịch lý, là so cung mệnh với năm sinh. Nhưng ta hiểu rằng các cặp tháng giờ, hay tháng ngày hay ngày giờ đều có thể so trái lý hay thuận lý. Hoặc như Hình Riêu Không Kiếp đều khởi an từ cung âm cho nên là đại diện cho sự trái nghịch âm dương. Quay lại bốn sao quý nhân, vì biết sự trái lý âm dương của chúng nên hiểu được ý nghĩa quý nhân chính là cứu giải. Nhằm đạt lại sự cân bằng của lá số tử vi. Thai Tọa khác nhé, Thai Tọa luôn an cung dương khi tháng ngày thuận lý. Nên Thai Tọa không chủ cứu giải. Cho nên, thấy cường cung trong lá số có Khôi Việt Quang Quý đừng vội mừng. Giống như bác sĩ đứng đầy nhà, quý nhân thật đấy nhưng gia chủ vô sự thì họ đến làm gì. Nhưng cũng đừng nghĩ là xấu, cũng đừng nghĩ là tốt, mà nghĩ rằng đó là KIỂU cách cục. Kiểu này khác kiểu kia. Chưa gì đã nhăm nhăm xấu tốt chỉ mệt mình khổ người. Cái kiểu cách cục quý nhân là đời sẽ qua nhiều thăng trầm và được cứu giúp. Thăng trầm là rõ vì các yếu tố trái lý âm dương.

Tóm lại thuận lý là thuận lợi, nghịch lý là khó khăn. Tương sinh là hài hòa, tương khắc là xung khắc. Trên mọi lá số các yếu tố này đều đúng. Hôm nay, bàn thêm một thông tin quan trọng của mệnh cục. Mệnh đơn giản là tính mạng, liên quan thọ yểu của đời người. Cục là cái áo khoác ngoài. Cục liên quan đến danh vọng tiền tài. Bé khỏe bé đẹp thì khỏe là mệnh, và đẹp là cục. Cục rất quan trọng trong xét đoán thành bại đời người. Từ cục sinh ra tinh hệ tử vi, rồi đủ các sao có ảnh hưởng mạnh trên lá số. Cục chịu ảnh hưởng thuận nghịch nên vòng Trường Sinh cục đi thuận nghịch. Mệnh như thái tuế trơ trơ giữa trời, nên ngũ hành mệnh luôn đi thuận mà không có thuận nghịch.

Khi mệnh cục tỉ hòa và thuận lý thì nôm na mệnh với cục là một, cùng thăng cùng trầm. Tỉ hòa thì giống hệt nhau, tương sinh thì gần nhau. Ví dụ mệnh kim cục thủy thì kim thủy một hành sinh một hành sẽ vượng, ít sai khác và không ngược nhau. Nếu mệnh cục tương khắc, thì sẽ ngược nhau. Như kim mộc, một hành vượng thì một hành suy. Ý là được công danh thì đã già và lúc khỏe lại thi trượt phá sản chẳng hạn. Chẳng ai muốn điều đó, cho nên mệnh cục tương khắc là xấu.

Khi xem tinh đẩu trong vận hạn thấy tệ mà mệnh cục vẫn sinh vượng, thì cũng như người chưa may mắn gặp thời nhưng còn khỏe mạnh và minh mẫn, hoặc cũng như người gặp cảnh khó nhưng khỏe mạnh minh mẫn sẽ chống đỡ được nghịch cảnh. Nói đơn giản như Tưởng chạy ra Đài Loan vì tính cách quá bản lĩnh, chứ gặp mấy ông vỡ nợ vài tỷ đã treo cổ ở Việt Nam thì không biết Tưởng phải treo cổ mấy lần mới bằng. Thì bản chất của việc sử dụng mệnh cục để cân phân chỉ có vậy. Và ta hiểu thế nào là độ số.

Chỗ sau đây nói là ngoài tử vi nhé, không lại áp thuận lý là thiện, nghịch lý là ác thì coi chừng bị đập tráp. Nói chung, màu sắc của âm dương giống như thiện ác. Còn màu sắc của ngũ hành giống như giàu nghèo, giỏi kém. Có người giàu mà thiện cũng có giàu mà ác. Có người giàu mà giỏi, cũng có người giàu mà bất tài. Người nghèo cũng vậy. Chúng ta đang sống trong một thế giới phong phú mà nền giáo dục họ cứ lờ đi những thực tại, cho nên kì vọng của chúng ta bị méo mó. Tử vi và toán học giúp ta cân bằng lại điều này. Kiều bào gửi mười đồng về nước một lần, phí tính một lần. Gửi mười đồng về nước mười lần tính phí mười lần. Gửi một lần về suôn sẻ thì phí ít, bảo khôn thế. Khi đó kẻ gửi mười lần sẽ là thằng ngu vì mất phí mười lần. Nhưng khi mất, kẻ gửi một lần mất trắng còn kẻ gửi mười lần mà mất cả mười mới ngu bằng một lần của thằng kia. Cho nên, đúng sai khôn dại không phải thứ chúng ta theo đuổi trong cuộc đời này.

….

Hôm nay nói về chính cách và phản cách. Xem tử vi, chỉ cần phân ra được loại cách cục nào là bạn không bị lạc hướng.

Thuở nhỏ, chúng ta bị nhồi nhét bởi phim ảnh sách báo về những thứ vô địch. Rồi chúng ta lớn lên đi tìm những thứ vô địch, tôn thờ thứ vô địch. Cả thế giới này điên cuồng với danh hiệu vô địch, cái x gì cũng muốn vô địch. Nào là siêu nhân, nào là batman, nào là Hoàng Phi Hồng, hay Songoku. Tất cả là sản phẩm của truyền thông, không hề có thực. Rồi một ngày ta nhận ra, trong trận đấu 5 vs 5, ta có mạnh đến đâu cũng không gánh nổi cho 4 người còn lại. Những ảo vọng giới trẻ gọi là gánh team là ảo vọng ngu xuẩn. Những clip giật tít cái gì mà ván cờ kinh thiên động địa hay cái con mẹ gì quỷ khốc thần sầu đó là tư duy siêu nhân quần sịp của trẻ em. Trên bàn cờ vây, nhóm hai quân phải chịu lép vế trước nhóm ba quân. Bên đặt sau phải chịu lép vế trước bên đặt trước. Chỉ hơn kém nhau một chút là kém hay ưu, chứ không có chuyện anh hùng một chọi trăm chọi vạn. Cái giấc mơ vô địch chúng ta được nhồi từ bé là x bao giờ có thật. Nó, đơn giản chỉ là giấc mơ. Nói thế để hiểu là những kì chiêu, hay những công thức bí mật bách phát bách trúng, hay những cách cục mạnh nhất thế giới hay cái của khỉ gì gán cho tử vi chỉ là những của nợ. Nó, không bao giờ có thực, bạn có đi tìm cả đời cũng không bao giờ thấy. Một đội bóng vô địch chỉ một thời, mùa sau chưa chắc. Một vận động viên tỏa sáng chỉ một giai đoạn, quá thời là quá vãng. Hoa hậu cũng nở hậu được tầm 5 7 năm, hết thời hoa nở là em về làm má mì quản lý. Vì sao, cái bọn học mệnh lý nhìn thấy bốn mùa xuân hạ thu đông, mỗi mùa có một hành thống lãnh, mùa khác lại có hành khác đứng lên, mà vẫn còn ôm mộng vô địch với cả kỳ chiêu. Tạo hóa xoay vần, chẳng có hành nào trong ngũ hành là bá đạo mãi mãi.

Bạn cứ tưởng tượng, 5 nhân vật trong game giống hệt nhau cùng đi đánh, tôi khác gì anh ngoài kỹ năng di chuyển, vậy thì còn gì thú vị. Mà nếu đặc thù, thì như oẳn tù tì, búa bao và kéo chế ngự lẫn nhau, không có cái gì là vô địch. Cho nên, tôi đánh giá bọn học tử vi hay làm gì mà vẫn đi theo giấc mơ vô địch là bọn chưa trưởng thành. Nắng thì phơi ra, mưa trú vào, như con thuyền lựa sóng mà đi, tiến được thì tiến, không tiến được thì lùi mới chính là đạo lý vĩnh hằng. Rồi đến một ngày, bạn nhận ra mình chỉ là một thành viên trong một đội, một mắt xích trong cả hệ thống. Bạn cũng chỉ có nghĩa vụ và trách nhiệm của mình và vui vẻ vứt bỏ giấc mơ vô địch. Vứt mà lại vui, vì hiểu rằng đó chỉ là sản phẩm của điện ảnh. Bạn không cần khoác lên mình quá nhiều thứ của nợ như vậy.

Trong tử vi, có chính cách thì cũng có phản cách. Chính cách hình tượng dễ hiểu là chính quyền, là cảnh sát. Phản cách hình tượng là phi chính phủ, là thế giới ngầm. Có những y tá trong bệnh viện còn giàu hơn cả bác sĩ, vì biết vận dụng điều kiện để làm việc có thể làm. Họ không có bằng bác sĩ, không được đào tạo cao cấp nhưng hiểu thế thời và có khả năng sáng tạo vô biên để thu được lợi ích nhiều hơn bác sĩ. Trước ánh sáng báo chí họ chẳng là ai vì làm gì có danh chức học vị mà nói, nhưng sau tấm màn sân khấu họ lại rất là ai, giải quyết được vô số việc nên họ giàu, vậy thôi. Ở đây, tạm lấy ví dụ cực đoan là giàu nghèo nhé. Còn chúng ta hiểu rộng là thành công. Sách cổ có ví dụ về trường hợp thi trượt đi lính lên tướng và gọi đó là “dị lộ công danh”, đó chính là phản cách hay dị cách, nói chung là không phải chính cách. Hoặc ví dụ các trục đường chính của thành phố có đèn xanh đèn đỏ là chính lộ, còn đường ngách đường hẻm là dị lộ. Bạn đừng hỏi đường nào hay hơn đường nào, như tôi vừa nói phía trên. Hãy bỏ tư duy vô địch rồi duy nhất đi, chấp nhận tư duy tất cả các dòng sông đều chảy. Đường nào cũng hay hết, đường nào cũng có thể thành công tùy thế tùy thời mà hay hoặc dở.

Sau một hồi lan man, giờ quay về tử vi. Chính cách là gì, ví dụ như Tử Phủ Vũ Tướng Tả Hữu Khoa Quyền Khôi Việt không có sát tinh và tuần triệt, đó là chính cách. Tử Vi cư ngọ vô Hình Kỵ, Giáp Đinh Kỷ vị chí công khanh, đó là chính cách Tử Vi Lộc Tồn. Cơ Nguyệt Đồng Lương Khoa Quyền Lộc vô sát lánh không vong của Tưởng Giới Thạch là chính cách. Chính cách bạn cứ mang hình ảnh công chức ra làm ví dụ dễ hiểu, dù gì thì gì vẫn là chính lộ công danh. Dù bố nâng con đỡ cũng phải qua bầu cử rồi thông qua chính thể mới thành. Chính cách thường vắng bóng sát tinh và Tuần Triệt, vậy thì người thông minh hiểu ngay sát tinh và Tuần Triệt dành cho phản cách tức dị lộ công danh. VCD đắc Tuần Triệt chính là phản cách, chính là dị cách. Sát tinh ngộ chế tức sát tinh gặp Tuần Triệt án ngữ như lá số Lý Tiểu Long là dị cách. Rồi đơn giản như sát tinh miếu vượng cũng là phản cách. Vì tính chất cơ bản của sát tinh là sát, của không vong là không vong. Sát tinh là đại diện cô đọng cho các vị trí trái lý âm dương, vậy mà lại thành công đắc dụng thì đó chính là phản cách, chính là dị lộ (con đường riêng). Phản cách có nét đặc trưng, không ai bắt chước được, như Lý Tiểu Long hay John Lennon, các anh là huyền thoại không ai có thể lặp lại. Nhưng phản cách cũng có nét đặc trưng là bạo phát bạo tàn, thành công và thất bại đều bất ngờ. Nếu chính cách đều đều ổn định đi lên thì phản cách lên xuống thất thường. Nôm na, chính cách như đi trên đất bằng, lâu và xa và ổn định. Còn phản cách như đi thăng bằng trên dây, nhanh hơn đẹp hơn bất ngờ hơn khác biệt hơn nhưng cũng dễ lộn cổ hơn.

Đa số các nhà sáng lập, hay các vị Thái Tổ lập quốc là phản cách. Đương nhiên, vì kẻ dẫn đầu họ không thể tiếp nối của ai. Đương nhiên, vì kẻ dẫn đầu phải tự sáng tạo ra con đường mới. Trong đời thực thì những người mang phản cách thường dị hợm, khác biệt, lạ lùng. Tất nhiên, thành công thì đời nó thổi bay lắm, bay tới nỗi không muốn xuống. Thất bại thì đời nó chửi không khác gì động vật, còn bị coi kém hơn cả động vật, thậm chí thành tội phạm. Mà có mấy người dị lộ công danh thành công đâu, đa số thất bại. Xã hội này không đủ rộng cho tất cả các sự khác biệt. Bạn xem TV đài báo các tấm gương tỷ phú tự thân, hay sinh ra từ làng, hay bỏ học Harvard giữa chừng, thì đó tất cả đều là phản cách thành công đó. Nếu bạn không có tố chất phản cách thì đừng có bắt chước, đừng có đu dây.

Chính cách thực ra là Dương, phản cách là Âm. Dương hay Âm đều có cửa thành công và đều có cơ hội. Nhưng hãy nhớ trong thế giới này, Dương luôn hơn Âm, đó là quy ước tâm lý của loài người, một loài ưa sáng ghét tối, ưa ráo ghét ẩm. Phản cách có hay thì hay luôn xếp sau chính cách. Đầu tiên, trật tự xã hội phải được thiết lập chính quy đã, rồi mới có cửa cho xã hội đen, còn không là thời chiến quốc loạn thế. Có luật đã, mới có kẽ hở luật. Có đường chính đã, thì mới có đường ngách. Nếu chỉ toàn đường ngách, thì đó là rừng, không sống được.

Khi bạn cân phân được lá số đó là chính cách hay phản cách, là bạn xem được 50% lá số. Và chắc chắn dù kém hay giỏi thì phần còn lại cũng không bị lạc hướng. Thế giới này cho dù phức tạp, chung quy cũng chỉ vài quy luật. Nắm vững được các quy luật đó, có sai cũng chỉ là lặt vặt, còn hơn rất nhiều những thanh niên mang theo giấc mơ vô địch trên con thuyền thúng mong vượt đại dương. Mà nói thật, bạn biết phân ra chính cách và phản cách thì bạn đã là nhất đại cao thủ rồi.

….

Mấy hôm viết bài bay quá quên không nhắc các bạn. Là những là số kinh điển có cách cục rõ nét, hành vận dễ đối chiếu. Nhưng nếu thiếu kinh nghiệm trên lá số đời thực sẽ bị thiên kiến. Nên xem cả lá số đời thực, nhất là những lá số tương đồng với lá số mẫu. Để hiểu tại sao hao hao mà không phải thượng cách. Khi đó sẽ phát hiện nhiều điểm thú vị. Vì sao đủ Khoa Quyền Lộc mà bình thường ? Vì sao cũng Sinh Vượng Mộ mà kém cả Mộc Suy Tuyệt ? Khi tích luỹ tương đối kinh nghiệm xem thực tế. Dần rồi nhận ra có rất nhiều man thư man thuyết. Những thuyết chưa được kiểm chứng chỉ là những thuyết nói cho vui mà thôi, không có giá trị thực dụng. Những gì suy ra từ lá số mẫu mà mâu thuẫn với nhiều lá số thực tế thì đành phải bỏ những suy diễn từ lá số mẫu. Quý lắm nhưng phải bỏ. Vì khi đó có thể lá số là lá số fake tức man số. Nhưng thường thì không sai. Nói chung mới xem số, xem được phân cách thượng trung hạ cách, rồi xem vận năm nay cát hay hung là giỏi lắm rồi. Đừng quá sa đà chi tiết mà rối loạn. Nhưng nếu cứ cắm đầu hùng hục xem rõ lắm mà không chịu đúc kết rút kinh nghiệm và điều chỉnh hệ thống thì cũng vô vị. Một trải nghiệm không được rút kinh nghiệm là trải nghiệm lãng phí. Cần cả hai chân để bước đi: thực hành và lý thuyết. Nhất là những môn bị thất truyền nền tảng như tử vi.

….

Bài hôm nay nói sâu hơn về âm dương thuận lý.

Tôi không biết nguyên lý gốc của tiểu vận được an thế nào, nhưng tôi biết chắc chắn tiểu vận tuổi dương khởi ở thìn tuất, tiểu vận tuổi âm khởi ở trục sửu mùi. Có nhiều người họ nhớ chính xác ví dụ tuổi thân tý thìn tiểu vận khởi tuất, và họ tìm rất nhanh. Có người lại lơ mơ nhẩm chậm nhớ kém mãi mới dò ra tiểu vận khởi ở đâu. Cả hai kiểu học viên sắc xảo và u độn này đều không phải người thông minh. Người thông minh họ phân ra âm dương để học. Và tiểu vận tuổi dương sẽ khởi thìn tuất, tìm thìn không thấy là ở tuất, mà tìm thìn thấy ngay thì đỡ phải ngó sang tuất.

Tiểu vận của tử vi khởi dựa trên ba nguyên tắc, trong đó lý đầu tiên là cùng tính âm dương với cung. Dương theo dương và âm theo âm. Luôn là như vậy.

Lưu niên thái tuế lại càng đương nhiên an theo cung và cùng tính âm dương. Luôn là như vậy. Có nghĩa là tiểu vận hay thái tuế luôn cùng tính âm dương với cung địa bàn. Những cái luôn là như vậy nên học trước. Những cái thỉnh thoảng như vậy sẽ học sau.

Hôm nay lấy lá số giáo hoàng John Paul II làm ví dụ mẫu mực. Sau một loạt các bước đổi giờ địa phương, giáo hoàng sinh giờ thân ngày 1 tháng 4 năm Canh Thân (1920). Mệnh Vũ Sát Hóa Quyền ở dậu trong thế tam hóa liên châu Khoa Quyền Lộc.

Quan điểm an sao tuổi Canh hiện nay của tôi là Canh Nhật Vũ Đồng Âm và Giáp Mậu Canh ngưu dương. Miễn trình bày lý do và miễn tranh luận.

Lá số giáo hoàng có cung mệnh nằm trong thế âm dương nghịch lý, có nghĩa là tuổi dương nhưng mệnh nằm cung âm. Chính vì vậy cho nên cường cung tránh xa Tuế Hổ Phù Long Phượng rồi Sinh Vượng Mộ, tuổi Canh Lộc Tồn cung dương cho nên mất nốt Lộc Tướng Ấn. Tất cả những gì ủng hộ chính cách (gọi là thường cách trong trường hợp này đúng hơn) đều không có. Cho nên ôm trọn lục vinh Khôi Việt Quang Quý Thai Tọa. Đến nay, chúng ta có thể hiểu những sao này ủng hộ sự tu hành. Tu hành là gì ? là thực hiện công tác sửa chữa cái chưa chuẩn về cái chuẩn. Cái chưa chuẩn cái lệch lạc thường nằm ở cung trái lý âm dương so với năm sinh, cho nên các sao quý nhân Khôi Việt Quang Quý ưa thích xuất hiện. Nếu hiểu là cứu giải cũng đúng, vì khi đó cái xấu và các sao cứu giải xuất hiện cùng chỗ. Nếu hiểu cứ có quý nhân là có bệnh có họa có tật cũng đúng theo một khía cạnh. Tóm lại lục vinh ủng hộ sự cứu rỗi cứu giải tu hành.

Điểm thứ hai của cách cục tu hành, cũng là sản phẩm đến từ trái lý âm dương, đó là sao Thiên Không thủ mệnh. Mệnh tài quan thuộc tam hợp Dương Tử Phúc. Đặc hiệu sản phẩm của tử vi nam phái. Mệnh thân có đủ tứ không Thiên Địa Tuần Triệt, nói chung là hết chê. Cung tài bạch cũng phải xí phần song Hao cho đủ phận.

Đó là về cách cục. Biểu hiện tiếp theo của tu hành là thê tử gặp Triệt, điền trạch gặp Tuần. Vợ con bị triệt sạch. Không còn lời nào để mô tả sự ứng nghiệm này trên lá số giáo hoàng. Gia đình thì tuần mà vợ con thì triệt. Sự trái lý âm dương và Không Vong ấn định lá số của người tu hành. Bây giờ mình là người thông minh, mình hiểu rằng đây là con người thành công về Đạo. Còn về Đời, thực ra ông chẳng là ai. Nếu áp tiêu chuẩn đời thực vào thì đây là một lá số xấu. Có nghĩa là gì ? Có nghĩa là lá số tử vi coi những thượng cách hay cách cục đẹp là lấy tiêu chuẩn vợ đẹp con xinh gia đình hạnh phúc làm tiêu chuẩn. Lá số của người tu hành, tử vi coi là trái lý âm dương và không vong. Có nghĩa là gì ? Có nghĩa là nếu xem lá số người thường nếu thê tử triệt, điền tuần, thì phải hiểu đó là khắc vợ khắc con, khắc gia đình, là xấu. Đời trai, vợ không con không gia đình không tiền song hao, phúc thì xấu, thân thể không gãy thì vỡ mà lại còn bị thủng, còn gì để gọi là có ? Nhưng thử phóng chiếu lên một cách cực đoan, triệt mãi triệt mãi triệt hết, cả người thân, cả tiền tài cả công danh, cả tham dục, triệt hết, thì đó là người tu hành đắc đạo. Cái xấu của người thường là triệt không đến nơi, xẻo một bên, một bên vẫn lay lắt, vươn thêm thì thiếu mà so với sự triệt để lại thừa. Đó là thường nhân, hay chính là tạp cách, sản phẩm của dở dở ương ương, nửa nạc nửa mỡ, nửa đời nửa đạo.

Tiếp theo là cung Phúc. Đây là cung phúc xấu, không cần cãi chứ chưa nói là cần bàn. Phúc VCD Liêm Tham hãm chiếu, ôm đủ Kình Đà Không Kiếp, Không Kiếp cũng hãm. Bạn phải thừa nhận với tôi là xấu. Như vậy, tất cả những thuyết cho rằng phúc cung của tử vi là phúc đức theo quan niệm đời thực là man thuyết. Vì sao, nói theo lý thường, dòng họ và vùng đất mà sản sinh ra một Giáo Hoàng của cả thế giới, mà người được chọn làm Giáo Hoàng luôn được tin là sự lựa chọn của Chúa, họ sẽ quá tự hào và mãi mãi tự hào cho đến tận về sau. Nói thẳng là Giáo Hoàng không cần có con. Vì con cái đối với dòng họ là sự lưu lại hậu thế mà vinh danh. Còn ông ta, danh tiếng mãi lưu truyền ngàn thu nên không cần sinh con cho dòng họ. Nói cách khác, phúc đức theo quan niệm của đời thực là phúc của Giáo Hoàng quá quá lớn, chứ không thể vớ vẩn. Thế vậy, tại sao cung phúc đức trong tử vi lại xấu thế ? Sau khi đả phá man thuyết phúc đẹp là phúc lớn, phúc xấu là phúc bé. Bạn sẽ hiểu cung phúc đức trong tử vi là Sự Thụ Hưởng của cá nhân họ, chứ không phải là phúc khí thiên địa và dòng họ dồn lên số mệnh của họ. Sự thụ hưởng của Giáo Hoàng, của Bill Gates của Lê Lợi (phúc hợi Thiên Đồng Tuần Không Kiếp) là hết sức tầm thường, không bằng một nửa dân chơi quê tôi, nói thế cho nhanh. Cho nên, sách cổ luận phúc xấu là không thọ, cũng đúng mà cũng sai, như Lê Lợi không thọ, vì số không hưởng sao mà thọ, làm vua chứ có phải làm sư đâu mà không hưởng. Cho nên, sách cổ luận phúc xấu giàu quá sẽ yểu cũng đúng, vì số không được hưởng mà hưởng lắm thì vắn số vậy thôi. Nhưng Bill Gates không yểu, cực giàu nhưng sự thụ hưởng quá tầm thường. Cho nên, cái gì của kinh điển đã nói thì ít sai. Nhưng sách nói vậy mà lại không phải vậy, vì bản chất nó khác. Giáo Hoàng John Paul II không những không được thụ hưởng mà còn gặp họa liên miên, nào là tai nạn ngã vỡ vai gãy tay vỡ xương hông, rồi thậm chí còn bị ám sát nhưng không chết, sau khi bị ám sát ông chỉ sống thêm có hơn hai chục năm mới mất. Đọc tiểu sử cả đời ông thì đúng là bầm giập, đủ các loại họa dồn lên đầu. Nói chung là rất ứng nghiệm cho một cung phúc xấu, số không hưởng. Nhưng đừng thầy nào loạn suy phúc xấu là số tầm thường thì coi chừng bị vỡ cái tráp. Thành bại cao thấp do mệnh thân quy định. Từ đây, tử vi có sự cân nhắc khi xem, thuyết lựa chọn đường sống ra đời và tôi mê thuyết này. Thuyết này đã nhắc ở trên, hưởng lạc thì chết sớm, hay giàu thì không thọ, rồi các kiểu, nó răn đe con người sống biết được biết mất, biết giữ biết buông, v.v…

Đời Giáo Hoàng John Paul gắn liền với năm dậu, ông mất năm dậu và bị ám sát hụt năm dậu, vì mệnh của ông nằm ở Dậu. Năm đó, lưu thái tuế kích động cung dậu. Về cơ bản, địa chi cho biết cung nào sẽ tương ứng với sự kiện. Còn cát hung do thiên can quyết định. Ví dụ đơn giản, Tưởng Giới Thạch cùng lên và xuống năm sửu, cùng là sửu nên năm đó sự kiện chấn động bản mệnh, nhưng lên hay xuống cát hay hung không do sửu quyết định, mà do thiên can quyết định. Đại vận Kỷ Sửu, Văn Khúc hóa Kỵ. Lưu niên Tân Dậu, Văn Xương hóa Kỵ. Song Kỵ kẹp cung thân, Thái Tuế kích cung mệnh, ứng kỳ. Năm qua đời 2005 Ất Dậu, Thái Âm hóa Kỵ cung tật. Thái Tuế kích động cung mệnh, ứng kỳ. Các năm Giáp Ất đối với Giáo Hoàng là xấu, không tai nạn gãy xương thì chết. Các năm Mậu Kỷ đối với ông là tốt, hai vận ông đăng cơ đều đại vận Mậu tiểu vận Mậu. Có thể do Nhật Nguyệt hóa Kị nhập xung tật nên xấu. Có thể do Tham Lang hóa Lộc xung phúc nên tốt. Nói chung, do thiên can quản tốt xấu cho nên thường thì đời người có ưa có kị một hai can nào đó trong mười thiên can. Khi đã có nghiệm lý, biết được can nào dụng thần can nào kị thần, cứ thế mà suy.

Cuối cùng, là bí mật của tam hợp phái trong xem vận:

Bí mật của tam hợp phái là gì ? Là Tam Hợp. Khi tiểu vận hay lưu thái tuế tam hợp với đại vận, hay chính xung với đại vận, thì năm đó xảy ra sự kiện quan trọng. Nguyên tắc đơn giản là sự cộng hưởng. Sự cộng hưởng của đại tiểu vận đủ mạnh để xảy ra sự kiện. Tiểu vận không tam hợp không chính xung với đại vận thì khi đó vẫn có thể xảy ra sự kiện, nhưng sự kiện đó không phải là nổi bật trong đại vận.

Có nghĩa là gì ? Có nghĩa là một đại vận không phải cường cung, sẽ xảy ra những sự kiện kém quan trọng trong đời người. Đại vận mệnh tài quan quan trọng hơn đại vận phúc di phối. Đại vận mệnh tài quan phúc di phối quan trọng hơn phụ tử nô điền tật bào. Vì đơn giản, đó là sự thuận lý âm dương với cung mệnh. Cùng tính âm dương thì chính là ta, trái tính âm dương thì không phải ta. Suy cho cùng, bản chất của tam hợp phái vẫn là âm tòng âm số mà dương hành dương cung.

Nhiều người học tử vi, tôi không hiểu họ học cái gì đao to búa lớn, phép hội sao hội trăng, rồi say mê dò đoán chi tiết. Chi tiết làm gì, khi những nền tảng cơ bản còn không nắm được. Xem cho người cầu quan thì xem mệnh thân quan, rồi đại vận mệnh tài quan, rồi các năm có tiểu vận thái tuế mệnh tài quan đã. Các năm khác xét sau. Cái gì cơ bản, thì hay gặp, phải dò xét trước. Cái gì chập chờn, thi thoảng thì xét sau. Nếu đã rà soát cơ bản theo hệ thống, có sót cũng chỉ sót nhỏ, mà thường là không sót. Xem số phải xem từ gốc, cứ nhăm nhăm vào ngọn làm gì rồi thánh tướng. Công lực cao thấp sau này cũng do nền tảng có vững hay không. Mới học bóng rổ không phải học bay học múa, mà xuống tấn đứng đập bóng 10000 lần, đập rồi sẽ hiểu. Rồi khi đánh, tích lũy ưu thế nhỏ thành ưu thế lớn của toàn đội, chứ không phải cả trận bay được 2 3 lần như sao, còn lại thua be bét. Thà rằng ba môn Toán Lý Hóa được ba con 8 còn hơn hai con 10 một con 3. Nhưng lưu ý đó là sự hội họp của địa bàn nhé, cần có sự cộng hưởng của lưu tứ hóa thì sự kiện chắc chắn xảy ra.

Có nghĩa là gì ? Một người mệnh tài quan không có tín hiệu phát công danh, nhưng đến vận cung tử tức có các sao quyền lực. Đương nhiên, họ có thể phát nhưng cái gì không thuộc cường cung thì mình chỉ đi mượn mà thôi, không phải của mình. Vận đó có thể lên, nhưng qua là xuống. Không thể so với kẻ có mệnh tài quan rừng rực như Bill Gates. Xương cốt đã vững thì da thịt có xấu tý cũng khó gục. Xương cốt xốp như phấn như vôi, có sơn son thiếp vàng bên ngoài cũng chỉ để ngắm mà thôi. Không dùng được, va chạm vỡ ngay.

Có nghĩa là gì ? Có nghĩa là trong mệnh trái lý âm dương. Cứ cực đoan hóa là sao tốt vào cung trái lý âm dương hết đi. Ví dụ mệnh cung âm, năm sinh dương, sao tốt rơi hết vào cung dương. Vậy thì đại vận cung dương sẽ tốt vì có nhiều sao tốt, hay đại vận cung âm sẽ tốt vì là cường cung. Chỗ này, thì giống như con không chê cha mẹ khó, chó không chê chủ nghèo. Các đại vận tại cường cung coi như được hàng thiên, vì cùng tính âm dương với mệnh, mất hàng địa vì không có nhiều sao tốt. Các đại vận tại bàng cung coi như mất hàng thiên, vì trái tính âm dương với mệnh, được hàng địa vì có nhiều sao tốt. Thiên vẫn xếp trên Địa. Dù cha mẹ nghèo nhưng là cha mẹ mình, còn họ hàng cô dì chú bác có giàu cũng là họ hàng cô dì chú bác. Cái cảnh âm dương nghịch lý đến đại vận Thái Tuế có thể ví như cậu học trò nghèo đi ở nhờ nhà họ hàng giàu có để ăn học. Cái điều kiện bên ngoài chỉ là vỏ bọc là điều kiện cho thời gian cho giai đoạn đó. Chứ cái giàu đó không phải của mình. Nhưng tuy không phải của mình, cũng tốt lắm, vì nhờ đó mà mình có điều kiện ăn học. Nếu không thì cái thông minh của mình không có điều kiện phát triển. Địa kém hàng Thiên, nhưng Địa vẫn quý lắm chứ. Vấn đề là đừng có rối loạn Thiên Địa trước sau, không biết đâu chính đâu phụ, là loạn. Có học lý số trăm năm vẫn như anh hề.

Tóm lại, nếu nắm vững âm dương thuận nghịch, và nắm vững tam tài Thiên Địa Nhân, thì bạn sẽ không bị lạc lối khi xem số. Bạn sẽ xem được vận hạn của tử vi. Cái mà 99% giới tử vi hiện nay mù tịt.

Mưa rất dai và bài rất dài.

….

Bài này nói về thứ tự ưu tiên của tử vi đẩu số giữa mệnh tài quan và phúc di phối.

Mệnh tài quan tốt đẹp, phúc di phối xấu: tự thân làm nên sự nghiệp. Tài cao, may mắn thấp.

Mệnh tài quan xấu, phúc di phối đẹp: có may mắn làm nên sự nghiệp một cách bất ngờ. Tài thấp, may mắn cao.

Trong tử vi, mệnh tài quan vẫn là trung tâm tối quan trọng. Như hôm trước đã nói rằng cường cung quan trong hơn bàng cung. Thì trong cường cung, mệnh tài quan trọng hơn phúc di phối. Người có mệnh tài quan tốt mà cung phúc đức xấu thì tự thân làm nên sự nghiệp, không thể chờ may mắn. Bản thân họ ngoài đời thực cũng là những người rất có tài, và luôn chủ động tìm kiếm vận dụng cơ hội. Còn người có mệnh tài quan kém, phúc di phối cao hơn thì với con mắt đời thường thành công họ đạt được luôn cao hơn tài năng họ có. Thực ra, với con mắt mệnh lý thì chẳng có gì ngạc nhiên, đâu phải cứ hùng hục tự cày tự làm đã là giỏi, kẻ tài năng thực sự là biết thời thế biết mình biết người chứ không phải là kẻ tự tay làm mọi việc. Tào Phi và Tào Thực là hai ví dụ kinh điển của kinh điển. Phù thủy phải đứng từ xa làm phép hỗ trợ, đấu sĩ phải lăn xả vào chém giết, không cứ là kẻ ra tay cuối cùng để tính điểm số. Mỗi người một khác, mỗi cảnh một khác, và mỗi lúc một khác, không thể so sánh nghĩ bàn. Vì chúng ta cũng chỉ là một mắt xích trong hệ thống, đừng có quá gồng cứng làm gì.

Tử vi nói cho cùng vẫn phải tuân thủ các nguyên lý của vũ trụ thì mới có thể mô tả vũ trụ. Trong đó có nguyên lý năng lượng, một khi năng lượng đã tập trung vào cường cung thì bàng cung phải kém đi. Trong cường cung, khi đã tập trung vào mệnh tài quan thì phúc di phối phải kém đi và ngược lại.

Cho nên, cách cục cao đơn giản là gì ? Cách cục cao là mệnh tài quan tốt nắm giữ đa phần năng lượng tốt của lá số, phúc di phối kém hơn và bàng cung kém hơn nữa. Những nhân tài sáng lập thường có mệnh tài quan mạnh mẽ và thuần nhất, như Bill Gates và Tưởng Giới Thạch là hai ví dụ ưa thích của tôi. Mệnh tài quan rất mạnh mẽ và thuần nhất. Xem đến phúc di phối của hai người này đương nhiên sẽ kém mệnh tài quan của họ. Và các thầy tử vi đừng có cố biện chứng cho cung phúc của họ đẹp lên làm gì. Không thể và không cần thiết. Các thầy nên chấp nhận thực tại rằng cung phúc không quy định thành bại đời người, cung phúc là sự may mắn và sự không tự làm mà lại có hưởng thôi.

Rồi các thầy sẽ thấy là đời người 12 cung, người được cung này kém cung kia. Nhưng trong con mắt đời thực thì những anh hùng tạo dựng đất trời có mệnh tài quan tốt đẹp mới là đáng nể. Còn lại bất kể sự gián tiếp hay sự may mắn nào đó đều bị xếp sau thành công tự thân. Đời thực thì cho dù cha bị phỉ chặt đầu, vợ bỏ thời bị kỷ luật Đảng, con bị sinh viên ép nhảy lầu sống như thực vật mà nắm quyền cao như Đặng Tiểu Bình thì vẫn là anh hùng siêu cấp. Năng lượng hội tụ mạnh vào bản thân thì xung quanh phải hết. Cho dù, không còn ai xung quanh như tỷ phú Việt Nam ba lần vợ đội của bỏ đi, nhưng nếu ông ta vẫn giàu và cứ giàu là đời vẫn tung hô. Trong mệnh lý, thì tiền tài cũng chỉ một cung, danh vọng cũng chỉ một cung, vợ một cung, con một cung, cha mẹ một cung. Nếu được tiền tài cũng chỉ được một cung, còn hỏng cha mẹ, vợ con là hỏng ba cung. Chung quy được một hỏng ba. Ở góc nhìn của mệnh lý thì giàu mà cô độc, kém xa những người đoàn viên mà không giàu. Cho nên, sách vở đạo pháp cứ ra rả kêu con người quay về đi, rời bỏ tiền tài danh vọng hão huyền mà quay về đi, về đi, là thế. Tiền ư, cũng là một trong mười hai cung thôi mà. Danh ư, cũng là một trong mười hai cung thôi mà.

Lật lại vấn đề thì cha mẹ và con cái là bàng cung, vậy có quan trọng không ? Có chứ, quan trọng. Chỉ là không quan trọng bằng phúc di phối và mệnh tài quan mà thôi. Sự đề cao mệnh tài quan trong tử vi cũng phù hợp với quan điểm giáo dục tự thân của phương Tây. Sở trường của con là gì, điều con thích là gì, con làm cái đó. Con làm cái gì, con tự chịu trách nhiệm cái đó. Tự thân, tự thân và tự thân. Trong ba kiểu người thân thì đúng là người chồng người vợ ảnh hưởng tới bản thân mạnh hơn nhiều cha mẹ anh em và con cái. Không hiểu vì sao thời phong kiến mà tử vi lại xếp được cung vợ chồng một cách chính xác như vậy. Điều đó chứng tỏ, khoa học đích thực luôn bất chấp thời đại và định kiến của loài người. Chân lý là chân lý, không thể lỗi thời. Chân lý không bao giờ lạc hậu, nhưng công lý thì có. Công lý là cái lý của công chúng, đại diện là luật pháp. Mà luật pháp thì phải sửa đổi liên tục cho phù hợp thời đại. Còn nước vẫn mãi chảy chỗ trũng, và vạn vật thì luôn hấp dẫn nhau.

Nói chung cho xem ngàn vạn lá số mà có quan điểm sai lầm về 12 cung thì cũng mãi mãi dẫm chân tại chỗ. Đầu sai thì đuôi lạc. Và cách xem tử vi cơ bản nhất vẫn là mệnh tài quan làm trọng, phúc di phối thứ yếu, và bàng cung chỉ thể hiện ảnh hưởng mạnh khi xem vận. Tôi luôn đề cao lối xem cơ bản, có hệ thống cho nên mọi nhận định sẽ đều hướng về những điều cơ bản nhất. Tôi tin rằng nắm được những cơ bản này, người xem sẽ không bị sai lạc. Nói cách khác, là đỡ khoác lên mình những kì vọng không đáng có từ lá số.

(Nguồn: sưu tầm)

Trusted by some of the biggest brands

spaces-logo-white
next-logo-white
hemisferio-logo-white
digitalbox-logo-white
cglobal-logo-white
abstract-logo-white
white-logo-glyph

We’re Waiting To Help You

Get in touch with us today and let’s start transforming your business from the ground up.