Lưu Kim Tài Chuyên Đề

Tình cờ được đọc qua sách của Lưu Kim Tài, một cái tên rất lạ lẫm trong làng Tử Bình, được biết Lưu là người Đài Loan, có lẽ chưa già lắm, nhưng làm tôi ngạc nhiên hơn là lối viết rất cô đọng súc tích, không rườm rà văn tự như các danh gia Tử Bình hiện đại của Đài Cảng khác như Tống Anh Thành, Chung Nghĩa Minh, Hồ Nhất Minh, Lương Tương Nhuận v.v…Quan điểm của Lưu Kim Tài là khá mới, chú trọng nhiều đến cách cục và cách dùng dụng thần, đồng quan điểm của Lưu hiện nay có Vương Khánh, Hoàng Đại Lục, nhưng về kỹ xảo thì 3 người khác nhau. Tôi chọn dịch ngẫu nhiên không theo thứ tự các bài của Lưu từ 3 cuốn sách “Tối tân Bát tự tạo hóa chân tích”, “Bát tự thể dụng tinh thần” và “Bát tự học tinh cung chi thược”. Sách của Lưu Kim Tài không nặng tính lý thuyết, mà chia ra từng phần nhỏ với đề tựa riêng, mỗi phần nhỏ là một hoặc hai mệnh lệ thực tế được viết tóm lược rất súc tích nhưng không kém phần lý thú, không cần phải đọc theo thứ tự, độc giả nếu tinh ý sẽ thấy “chiêu số” rải rác trong đó. Do cũng muốn học lóm “chiêu số” nên tôi mở topic này cùng chia sẻ đến các bạn mê Tử Bình.

Thể dụng

Khôn tạo: Canh kim nhật chủ sinh 3 ngày sau Đại Tuyết.

Canh Dần-Mậu Tý-Canh Thìn-Kỷ Mão

Đại vận: Đinh Hợi /Bính Tuất/ Ất Dậu/ Giáp Thân/ Quí Mùi/ Nhâm Ngọ

Mệnh này sinh lúc hàn đông, dụng hoả là cấp thiết, hoả tàng trong chi năm là Dần, đợi hành vận dẫn xuất làm dụng. Hoả là chân dụng thần của bản cục, cũng là phu tinh, bề ngoài thì thấy có vẻ như được nhờ chồng, nhưng xét kỹ tổ hợp ngũ hành của cách cục, phu tinh Bính hoả Trường sinh ở Dần, tuy có thể nói năng lực không yếu, nhưng chưa thể dẫn xuất làm dụng, đó là điều rất đáng tiếc, có thể coi ông chồng này là người có tài mà không gặp thời, muốn nhờ chồng e là khó !

Mệnh này Dần Mão Thìn tam hội mộc cục, Tài hoại Ấn, hỷ hoả thông quan. Trong cục không có hoả hiện rõ, hỷ hành vận gặp hoả, ngoại trừ hoả ra còn có dụng thần khác có thể dùng cứu cục, đó là Canh kim ở trụ năm, mệnh này nếu không có Canh kim chế Tài bảo hộ Ấn thì e rằng bị tàn tật, Canh kim này còn được gọi là “thể dụng”. Thế nhưng Canh kim chỉ thích hợp làm dụng cho nguyên cục, không nên gặp khi hành vận, đại vận dụng thần lấy hoả làm chân (thật). Bản mệnh đại vận đến Thân, là Lộc của nhật chủ, nếu không biết thể dụng, tất sẽ đoán là cát, thực tế trong vận này Thân tam hợp thuỷ cục, Tài tinh không được chế nên hoại Ấn, phá Tài mấy triệu. Từ đó có thể biết rằng thể dụng quả thực là một khâu quan trọng lúc luận đoán Tử Bình.

Thể dụng và đại vận dụng thần

Càn tạo: Kỷ thổ nhật chủ sinh sau Lập Đông 27 ngày.

Tân Mão-Kỷ Hợi-Kỷ Mão-Canh Ngọ

Đại vận: Mậu Tuất/ Đinh Dậu/ Bính Thân/ Ất Mùi/ Giáp Ngọ/ Quí Tị

Có người luận mệnh này Sát vượng dụng Ấn hóa là OK, nếu chuyên lấy Ấn hóa Sát làm dụng, mà không quản đến ngũ hành khác thì bí mật tàng ẩn trong mệnh cục khó mà suy luận ra được.

Sách viết rằng: “Dụng của thể dụng khác với dụng của dụng thần”. Tức trong mệnh bàn phải phân cho kỹ dụng của thể dụng và dụng của dụng thần, nếu phân biệt được thật giả thì bí mật tàng ẩn trong cục sẽ hiển lộ. Mệnh này dụng thần tại Ấn, tức là đại vận dụng thần mà chúng ta thường hay nói, bản cục lấy Thực Thần làm thể dụng.

Đại vận thể dụng thần và thể dụng trong mệnh này có thể thấy rất rõ, nhưng có một số mệnh bàn không dễ phân biệt như vậy, nếu không thuần thục thì có khả năng lấy dụng thần xem là thể dụng, mà đem thể dụng coi thành đại vận dụng thần. Cho nên lúc chọn dụng thần và thể dụng phải đặc biệt chú ý, lỡ mà sai sót thì sẽ đoán trật. Nguyên cục (mệnh này) lấy Thực Thương làm thể dụng, hành vận đến Thân thì vì chuyện gì mà phiền não vậy ? Lấy thể dụng để suy tượng của nó thì sẽ rõ thôi.

Tuế Đức Chính Quan

Khôn tạo: Giáp nhật chủ sinh sau Tiểu Thử 25 ngày.

Tân Mão-Ất Mùi-Giáp Tuất-Giáp Tý

Đại vận: Bính Thân/ Đinh Dậu/ Mậu Tuất/ Kỷ Hợi/ Canh Tý/ Tân Sửu

Sau Tiểu Thử thì Kỷ thổ đương lệnh, Tỉ Kiếp như rừng, đoạt Tài, trước hết nên gặp Quan Sát chế Tỉ Kiếp mới hay, thứ đến dùng điều hậu. Quan thấu Ấn tàng, tổ hợp cách cục rất tốt.

Chính Quan ở trụ năm, cổ thư gọi là “Tuế Đức Chính Quan”. Sách “Soán yếu ca quyết” ghi rằng: “Niên thượng Quan tinh vi Tuế Đức, hỷ phùng Tài Ấn vượng thân cung, bất phùng Thất Sát cư Quan vị, phú quí vinh hoa tỉ Thạch Sùng.” Từ đó có thể thấy: Thân nhất định phải không nhược, Tài phải vượng mới có thể sinh Quan. Mệnh cục thấy song (2) Tài, có vẻ như phù hợp ca quyết đã nói, phú quí dễ như trở bàn tay, nhưng nghiên cứu kỹ thì Tài tinh thuộc táo thổ (thổ khô, nóng), khó mà sinh kim cho đặng, độ số phú quí hiển nhiên sụt giảm rõ, nếu trong cục có thấy thổ ướt thì mới ứng nghiệm. Nhưng mệnh này lại không có thổ ướt, được một Quí thủy là may lắm rồi, Quí có thể nhuận thổ chuyển sinh kim, tuy trung phú trung quí nhưng vẫn có. Tuế Đức Chính Quan khuyết điểm duy nhất là Quan tinh quá lộ, chạy vận hoặc năm thuộc hỏa dễ gặp sóng gió. Mệnh này chạy vận Tây Bắc một lèo nên vẫn là người giàu.

Chọn dụng thần

Khôn tạo: Mậu thổ nhật chủ sinh sau Lập Thu 25 ngày.

Tân Sửu-Bính Thân-Mậu Tuất-Giáp Dần

Đại vận: Đinh Dậu/ Mậu Tuất/ Kỷ Hợi/ Canh Tý/ Tân Sửu/ Nhâm Dần

Đương số từng học mệnh lý gần 5 năm, nhưng với lá số của mình vẫn còn “mờ mờ mịt mịt”. Nghe nó cô ấy dùng kiểu tính xác suất phần trăm để chọn dụng thần, thân nhược lấy Ấn Tỉ làm dụng, thảo nào không tìm ra đáp án !

Mậu nhật chủ có gốc mạnh tại chi năm và chi ngày, làm sao luận nhược được? Thân đã không nhược thì nên chọn Thương Quan ở trụ năm giá Sát, thân nhược thì mới chọn Ấn tinh ở trụ tháng hóa Sát, sự biến hóa của mệnh cục này đều nằm ngay hai chữ này mà tỏ tường.

Dùng Thương Quan, tổ bối không phú thì quí. Trên thực tế thì đời ông bà cô này ở miền Nam là gia đình đại phú, gia nghiệp truyền xuống tới đời cha thì mới lụn bại, nếu là dụng Ấn, đời ông bà làm sao mà phú ? Sách nói rằng: “Có Sát thì trước hết phải luận Sát; chế, hóa cùng thấy thì không phải mệnh hay.” Dùng Thương Quan mà thấy Ấn tinh, dụng thần bị ràng buộc, nên cách bị phá ! Cách phá thì thể tượng tất có dị dạng, đương số có tật ở chân, đi lại có chút khó khăn. Hiện đang chạy vận Canh, là vận đắc ý.

Khôn tạo: Đinh nhật chủ sinh sau Tiểu Thử 29 ngày.

Mậu Thân-Kỷ Mùi-Đinh Mùi-Nhâm Dần

Đại vận: Mậu Ngọ/ Đinh Tị/ Bính Thìn/ Ất Mão/ Giáp Dần/ Quí Sửu

Tháng Mùi Kỷ thổ đương lệnh, Tài Quan Ấn đều hiện, thổ trùng trùng ở trong cục, táo thổ nhất định phải gặp thủy nhuận mới được. Mệnh này thổ nhiều, tuy nói rằng cần gặp thủy, nếu thủy bố trí không thích đáng thì ngược lại sẽ bị phản tác dụng, điểm này cần chú ý ! Bát tự kiểu này gặp thủy nên có kim bên cạnh để giúp là tốt nhất, kim có thể sinh thủy, làm thổ không thể hại đến dụng thần, cho nên thường hễ thấy điều hậu thần phải chú ý xem có bị thương hại đến hay không, nếu thấy có bị tổn thương thì mệnh cách xuống theo.

Trong mệnh cục thấy thủy tại trụ giờ bị hưu tù, may mà có nguồn, nguồn đến từ cung vị tổ bối, Thân tọa Tài cung, tổ bối không phú thì quí, bản thân cũng hưởng phước từ ông bà, nhưng không nhiều.

Trụ giờ thấy Quan làm dụng, trụ năm thấy Thương Quan nên dùng Ấn để chế ngự. Ấn tại chi, muốn chế Thương Quan lại bị Thân ở xa xung tới, Ấn tổn thì Thương Quan không được chế, Thương Quan kiến Quan họa bách đoan, cá tính thích nói năng cho thỏa cái miệng. Đương số trung vãn niên nếu chạy vận Tài sinh Quan thì sẽ có dịp phát đạt, nhưng hiện tại đại vận đang chạy vận Ấn, tuy có chế Thương Quan, bảo hộ Quan nhưng cũng chỉ có thể nói là bình ổn mà thôi, khó mà có cơ phát đạt.

Tạo hóa chân tích

Càn tạo: Giáp nhật chủ sinh sau Tiểu Thử 28 ngày.

Nhâm Dần-Đinh Mùi-Giáp Tuất-Ất Hợi

Đại vận: Mậu Thân/ Kỷ Dậu/ Canh Tuất/ Tân Hợi/ Nhâm Tý/ Quí Sửu

Sau Tiểu Thử thì Kỷ thổ nắm lệnh, Tỉ nhiều tranh đoạt Tài là điều tối kỵ của Tài cách, thấy Tỉ Kiếp đoạt Tài thì trước hết phải lấy cứu cách cục làm trọng, thứ đến mới xét điều hậu. Lẽ thường sinh mùa hè thì lấy thủy để điều hậu, sinh mùa đông thì ưu tiên lấy hỏa, nhưng nên “trước xem cách cục, thứ đến xem điều hậu”, không nên đảo nguyên nhân làm kết quả. Với người có kinh nghiệm, luận đến điều hậu thì trước đó đã sớm biết rõ cách cục thành bại, độc giả dụng tâm thể hội sẽ biết người viết nói không sai.

Sách “Cùng Thông Bảo Giám” mới xem qua đều thấy nói điều hậu, thực ra là bên ngoài nói cách chọn điều hậu, bên trong ám luận cách cục, đó là tạo hóa chân tích, không thể bỏ qua không khảo sát.

Mệnh này Tài cách không có Quan hộ vệ cho cục, Thương Quan thấu can thông quan là dụng nhưng lại bị hợp, cách từ thành chuyển bại, đại vận dụng thần lấy Quan làm dụng. Mệnh này 3 vận đầu chạy vận Quan Sát chế Tỉ Kiếp hộ vệ Tài, chủ về sau khi sinh ra đã được hưởng phước từ cha mẹ, trung vãn niên chạy vận thủy tuy có công điều hậu nhưng lại sinh Tỉ khắc Tài, cách bị phá ! Nên bảo thủ trong mọi chuyện mới được.

Tạo hóa thất chân

Càn tạo: Kỷ nhật chủ sinh sau Lập Đông 8 ngày.

Bính Ngọ-Kỷ Hợi-Kỷ Mão-Ất Sửu

Đại vận: Canh Tý/ Tân Sửu/ Nhâm Dần/ Quí Mão/ Giáp Thìn/ Ất Tị

Kỷ thổ sinh tháng Hợi, Ấn Tỉ có căn gốc và thấu can, Tỉ Kiên là thứ khắc Tài, trụ giờ thấu thổ Sát chế Tỉ, đó là dấu hiệu thành cách. Không đẹp ở điểm không thấy ngũ hành kim, dụng Sát chế Tỉ sẽ tiết Tài, Tài không có nguồn lại bị tiết, cách cục có khuyết hãm.

Xem trong cục thấy hỏa có gốc mạnh, thân không nhược lại có Sát chế Tỉ, dòm có vẻ đắc cách quí, thực ra mệnh này thủy không có nguồn thì đúng là tạo hóa thất chân (không thực), không đủ để luận quí. Trong mệnh cục nếu có kim, nếu chạy vận đông nam thì tất sẽ quí. Mệnh này tuy không có kim nhưng điều hậu là đủ, cũng không mất đi mệnh cách ông chủ, nhưng ông chủ này khá là vất vả, giống như ta thường nói “Hiệu trưởng kiêm bảo vệ”!

Mệnh thiếu kim, hành vận nên lấy kim để bổ túc mệnh trung khiếm khuyết. Tuế vận thuộc thủy tuy có Tài khí, nhưng sẽ làm thương tổn đến nguyên cục Ấn tinh, trong cát tàng hung. Vận Nhâm là Tài, sự nghiệp hãy còn ngon lành, nhưng Tài hoại Ấn, Sát công thân, dễ phạm tiểu nhân và quan phù. Đương số vào năm Ất Hợi bị dính đến kiện tụng, vụ này tính đến năm Mậu Dần thì Mậu thổ khắc Nhâm thủy, Ấn tinh hồi phục trở lại hóa Sát, kiện tụng sẽ chấm dứt.

Hợp Sát khác với giá Sát

Càn tạo: Đinh nhật chủ sinh sau Lập Đông 4 ngày.

Quí Tị-Quí Hợi-Đinh Mão-Mậu Thân

Đại vận: Nhâm Tuất/ Tân Dậu/ Canh Thân/ Kỷ Mùi/ Mậu Ngọ/ Đinh Tị

Đinh hỏa sinh ở tháng Hợi, Giáp mộc nắm lệnh (Durobi chú: Theo “Nhân nguyên tư lệnh ca quyết” thì sau Lập Đông 7 ngày đầu là Mậu nắm lệnh, 7 ngày sau là Giáp nắm lệnh, với bát tự trên thì Mậu nắm lệnh mới phải), vượng thủy thấu xuất, nhìn đại thế đánh giá thì trước tiên dụng Mậu thổ, trụ giờ có một Mậu thổ, tức thì cả cục có sinh khí. “Thương Quan giá Sát” và “Thương Quan hợp Sát” phải phân biệt cho rõ, tượng của nó không giống nhau, không thể đánh đồng làm một, mệnh này chỉ có thể luận Thương Quan hợp Sát.

Thấy nhật chủ tự tọa Mão mộc đương lệnh, lại đắc chi năm Tị hỏa trợ lực, nên không luận nhược. Trụ giờ có một Mậu thổ, tức là có điều kiện để thủ quí, dạng tổ hợp ngũ hành thế này nếu có quí khí thì cũng từ khó khăn mà có được, bởi vì Tài không thể làm dụng nên tương đối cực một chút.

Nguồn gốc của quí đến từ trụ giờ, do đó nên tra những vận ban đầu xem có trợ lực không thì mới xác định. Ba vận đầu chạy nghịch cục, khó mà luận quí được. Đến vận Ngọ, thủy tuyệt, là Lộc vị của nhật chủ, lại là điều hậu thần, làm Trưởng phòng hoặc Manager không thành vấn đề. Cục lấy Thương Quan làm dụng, hợp nghề gì có động đến “ăn nói”, vận đến Ngọ là Đế vượng của Mậu thổ, đoán rằng người này sẽ phất.

Đại tượng thủ dụng

Càn tạo: Nhâm nhật chủ sinh sau Tiểu Thử 17 ngày.

Bính Thân-Ất Mùi-Nhâm Thìn-Giáp Thìn

Đại vận: Bính Thân/ Đinh Dậu/ Mậu Tuất/ Kỷ Hợi/ Canh Tý/ Tân Sửu

Nhâm nhật chủ sinh tháng Mùi, Kỷ thổ đương lệnh, Chính Quan không xuất can, mà Thực Thương thấu xuất sinh Tài, thiên can hiện rõ Thực Thương sinh Tài như thế này là giả dụng của “cách cục”, chứ không phải giả dụng của “thoái khí” mộc trong tháng Mùi.

Mệnh này cách cục khó lập, chỉ có thể dùng đại thế để xem. Dụng thần ở chi năm cung tổ bối, gặp Bính hỏa ở can năm khắc nên phải cần thông quan, nếu không có cứu ứng thần thì toàn cục bỏ đi. Địa chi Mùi thổ Chính Quan đương lệnh là thông quan thần có lực nhất, Ấn tinh được cứu, vận hồi nhỏ chạy vận hỷ dụng, tổ bối không quí thì phú. Quan tại nguyệt lệnh làm dụng, chủ về sinh ra trong gia đình phú quí.

Mệnh này giả thiết lấy cách mà luận thì Chính Quan cách dụng Ấn sinh chủ về có quyền, nếu là Thương Quan sinh Tài cách thì kinh doanh mà giàu, nhưng trên thực tế đương số chẳng có ứng gì hai trường hợp trên. Tuy không thể chọn cách gì nhưng dụng thần tụ ở niên và nguyệt cũng đủ dựa dẫm phước ông bà mà giàu.

Tác giả tự bình: Mệnh này Kỷ thổ Chính Quan đương lệnh, Thương Quan thấu xuất từ lệnh tháng, thân nhược Thương Quan sinh Tài khó mà luận như thế được, Thương Quan sinh Tài chỉ là ngoại tượng mà thôi. Cho nên luận cách cục không giống như kiểu hễ lệnh tháng thấu xuất thì có cách cục ngay như dân trong nghề đang lưu truyền.

Bảo hộ quá độ thành vô ích

Càn tạo: Canh nhật chủ sinh sau Mang Chủng 2 ngày.

Giáp Dần-Canh Ngọ-Canh Thìn-Bính Tuất

Đại vận: Tân Mùi/ Nhâm Thân/ Quí Dậu/ Giáp Tuất/ Ất Hợi/ Bính Tý

Mệnh này Kỷ thổ Chính Ấn đương lệnh, tháng gặp Tỉ Kiên đoạt Tài, Bính hỏa xuất can, nếu được chế thích đáng thì đẹp. Trong cục địa chi hợp thành hỏa cục, đó là tượng chế Tỉ Kiếp quá độ, Canh kim tại tháng Ngọ hình suy thể tuyệt, sau Mang Chủng hỏa đang thiêu đốt, dù không thấu QuanSát thì Tỉ Kiên muốn khắc Tài cũng không dễ, tóm lại là Tài mạnh hơn Tỉ Kiên, trụ giờ có Thất Sát, địa chi lại hợp hỏa Sát cục, đó là bảo hộ Tài không thành ngược lại còn bị liên lụy, nên luận là tạo hóa thất chân, mệnh cách tối kỵ tổ hợp như vậy.

Thường thì mệnh có chế Tỉ Kiếp thì có năng lực lãnh đạo, mà bát tự này ngũ hành sắp xếp không tốt lắm nên không được như vậy (không làm lãnh đạo). Hỏa vượng thổ cháy, dù là thổ ướt cũng chỉ tốt cho bản thân mình thôi, xét lục thân bát tự này, hỏa vượng kim tan chảy, mộc cũng bị hại, Tỉ Kiên trụ tháng tọa tử tuyệt, một Tân kim trong kho Tuất, anh chị em khó có người thành tựu lớn. May mà hành vận một mạch đất Tây Bắc, cục được điều hậu, có thể nói là gia vận xương thịnh, cả nhà đều được thuận lợi.

Vẻ vang cửa nhà

Càn tạo: Bính nhật chủ sinh sau Lập Xuân 21 ngày.

Canh Tuất-Mậu Dần-Bính Tý-Bính Thân

Đại vận: Kỷ Mão/ Canh Thìn/ Tân Tị/ Nhâm Ngọ/ Quí Mùi/ Giáp Thân

Giáp mộc đương lệnh, sau Lập Xuân trời còn lạnh, Bính hỏa xuất hiện ở trụ giờ vừa đúng lúc, xuân mộc có Bính hỏa nên vinh (vẻ vang), nếu Dần mộc là Tài tinh thì còn đẹp hơn. Dần mộc Ấn tinh đắc hỏa nên là vinh dự cho cung phụ mẫu, suy luận tượng này là người giỏi giang, bố mẹ được nhờ, một tay tạo phước cho cả nhà, hoặc có thể nói là vẻ vang cửa nhà. Anh em người này nhất định phải nhỏ tuổi hơn, khó có khả năng lớn hơn mình, chi năm Tuất là kho hỏa, anh em nhập kho thì không khá bằng mình.

Điều hậu thần nếu có thể linh hoạt vận dụng, quan sát kỹ sẽ thấy những dấu hiệu nhỏ trong mệnh lý, như mệnh này Bính hỏa thấu ở trụ giờ, bố trí thích đáng, xuất ngoại dễ được bạn bè tương trợ hoặc gặp quí nhân. Bát tự này Ấn cách, hành vận hỷ Quan, không lấy hỏa làm hỷ. Chi nếu gặp Tài, cách bị phá thì còn đẹp chăng ? May mà vận Tài đến qui về ta (tài lai tựu ngã) nên cát tường, cho nên vận Tân năm Bính Tý lúc đang còn trắc trở thì bỗng gặp quí nhân giúp đỡ mà lập nghiệp, năm sau thì đã mua được nhà ! Nhật chủ phục ngâm thường luận hung, mệnh này có hợp hóa giải cho, nên luận cát.

Quan lộc của chồng

Khôn tạo: Đinh nhật chủ sinh sau Mang Chủng 12 ngày.

Nhâm Dần-Bính Ngọ-Đinh Hợi-Kỷ Dậu

Đại vận: Ất Tị/ Giáp Thìn/ Quí Mão/ Nhâm Dần/ Tân Sửu/ Canh Tí

Đinh hỏa sinh sau Mang Chủng, Ngọ hỏa đương lệnh, kiến lộc gặp Tài Quan là hỷ. Quan tinh thấu xuất, Kiếp Tài được chế, trụ giờ có Thực Thần không bằng có Tài. Thực Thần đã thấu xuất là vật được dẫn xuất từ lệnh tháng nên mạnh và có lực, nếu có thể đắc dụng nữa thì rất hay. Kỷ thổ là quan lộc của phu tinh, mệnh này Quan là dụng thần, phu tinh lại nhập phu cung, phu tinh đắc quan lộc, phải chăng điều này ám thị đương số lấy ông chồng không quí thì phú ?

Đương số vào vận Ấn quả nhiên cưới chồng điều kiện kinh tế khá giả, nhưng về tinh thần thì không được vui cho lắm. Xét kỹ Quan tinh can năm rõ là có ám hợp nhật chủ, tọa chi Dần lại có tàng Tỉ Kiếp hợp vào phu thê cung, đó là tượng chung chồng cùng với người khác, ở địa chi là “ám”, bên ngoài không mấy ai biết, trên sự thực là ông chồng này li hôn xong mới cưới đương số, nhưng bảo ông này hết duyên với bà trước thì e là sớm vì 2 người vẫn còn lằng nhằng chưa dứt hết tình cảm.

Hễ trong mệnh có Ngọ Hợi, mà là Tỉ Kiên/Chính Quan hoặc Tỉ Kiên/ Tài tinh, bảo đảm chuyện tình cảm có vấn đề, độc giả làm thử thống kê thì biết.

Dụng thần thật giả

Càn tạo: Nhâm nhật chủ sinh sau Mang Chủng 12 ngày.

Quí Hợi-Mậu Ngọ-Nhâm Tuất-Canh Tuất

Đại vận: Đinh Tị/ Bính Thìn/ Ất Mão/ Giáp Dần/ Quí Sửu/ Nhâm Tí

Nhật chủ Nhâm sinh sau Mang Chủng, Đinh hỏa đương lệnh, tuy lấy cách là Chính Tài nhưng thực ra thì cách này không thật. Nên biết rằng Tài cách có được thành lập hay không đầu tiên phải xem thân có kiện vượng gánh nổi Tài Quan không đã, xem sự hộ vệ của nó, sau xem đến điều hậu để định cách thành hay bại, nếu đi chệch những điều kiện trên thì cách cục phần nhiều có khuyết hãm. Như mệnh này Ngọ hỏa đương lệnh, nhật chủ Nhâm thủy đắc Lộc ở chi năm, thường bát tự đắc một Lộc là đã không nhược nhưng mệnh này thủy tại tháng Ngọ là tử tuyệt, thân hiển nhiên nhược một chút, cách cục cũng do đó mà không thật.

Tài tối kỵ Tỉ Kiếp, hễ gặp thì phải dùng Quan/ Sát chế Tỉ Kiếp là điều quan trọng, nhưng chế vừa phải thì được, chế thái quá sẽ tiết Tài. Trụ giờ có Canh kim hóa Sát khá đẹp, nhưng được này mất kia, Sát được hóa nhưng Kiếp Tài phục hoạt, tuy là điều hậu thần nhưng khó tránh khỏi hao Tài, đây là vấn đề của bố trí thập thần, nếu trong cục có Thực Thương thì sẽ không như vậy.

Mệnh này đa số thường hay lấy Kim làm dụng, Canh kim có công hóa Sát, nhưng nguyên cục đã có mà tuế vận gặp nữa thì không có mấy tác dụng, trong mệnh này Canh kim có thể nói là nguyên cục dụng thần, nên hành vận gặp nó thì chỉ có thể bình thuận, nếu lưu niên gặp Thực Thương thì còn có thể châm chước, chạy vận thủy cũng chỉ tính là bình ổn chứ không phất.

Trong cục Thất Sát là bệnh, trụ giờ có Ấn hóa Sát là được, Ấn là dụng của toàn cục, hành vận nên lấy Thực Thương sinh trợ Tài tinh, hành vận gặp kim/ thủy là giả thần. Cách cục tương tự như vầy dễ lấy giả làm thật nên phải cẩn thận không thì coi không nghiệm.

Đương số sinh năm Dân Quốc thứ 12, làm nông, tay trắng làm nên, đất đai mua được đều ngay trong vận Thực Thương, chạy vận kim/ thủy tuy đủ ăn đủ mặc nhưng không phất. Luận thủ dụng thần tựa như đơn giản nhưng nếu không khổ tâm nghiên cứu thể dụng thì khó mà vận dụng cho linh hoạt, bát tự này là một ví dụ ấn chứng.

Không phải Ấn cách thật sự

Càn tạo: Bính nhật chủ sinh sau Thanh Minh 26 ngày.

Canh Dần-Canh Thìn-Bính Thân-Giáp Ngọ

Đại vận: Tân Tị/ Nhâm Ngọ/ Quí Mùi/ Giáp Thân/ Ất Dậu/ Bính Tuất

Bát tự này thổ đương lệnh, Giáp mộc thấu can, đại thể có thể gọi là Ấn cách. Thực ra Ấn đã thấu can này nên thuộc giả cách, không phải Ấn cách thật, nhưng giả cách này nếu có cứu ứng cũng có thể thành sự.

Ấn cách tối kỵ Tài đến hoại Ấn, Tài tinh này trong cục không phải là vật đương lệnh nhưng được bè đảng trợ lực, lực của nó không yếu, Tài cường hoại Ấn, cục không có cứu ứng thần thì cách sẽ bại ! Giả dụ Ấn cách Ấn cường mà có lực, không bị Tài ngưỡng chế thì cũng nên vừa phải, hễ thái quá hay bất cập đều không tốt.

Bính nhật chủ sinh tháng Thìn tuy được Dần mộc sinh trợ, nhìn tưởng thân cường, nhưng nhìn kỹ thì mộc này đã thoái khí, không được thương hại đến nó, nếu lấy thân vượng dùng Thực Thương sinh Tài làm dụng, mệnh này Tài cường mà có lực thì đáng ra phước trạch phải lớn mà còn là mệnh giàu có nữa mới phải. Thế mà trên thực tế đương số có đủ thói hư tật xấu, vận Thân tuy đánh bạc mà làm ảnh hưởng đến sự nghiệp, cho nên không lấy Thực Thương sinh Tài làm dụng, nếu lấy Thực Thương sinh Tài thì phải tốt giống như ở trên nói, e có khi phải tra lại ngày giờ sinh có đúng không. Mệnh này vận Thân thì sự nghiệp thất bại, đại vận lại không gặp Quan tinh, đoán rằng đương số khó mà có cơ hội để Đông Sơn tái khởi được nữa.

Càn tạo: Bính nhật chủ sinh sau Kinh Trạch 16 ngày.

Bính Tuất-Tân Mão-Bính Thân-Kỷ Sửu

Đại vận: Nhâm Thìn/ Quí Tị/ Giáp Ngọ/ Ất Mùi/ Bính Thân/ Đinh Dậu

Ấn Tỉ trong cục đều tham hợp mà không trợ nhật chủ, thuộc về thân nhược. “Nhật chủ nhược, dụng thần nên lấy sinh trợ nhật chủ là quan trọng”, cách chọn dụng thần này khá thịnh hành, nếu người học y theo đó ứng dụng trên thực tế chắc sẽ có cảm giác lực bất tòng tâm.

Thực ra luận mệnh không chú trọng cách cục thành bại mà chỉ trọng thân cường nhược thì không phải phép tắc truyền thống. Xem bát tự nên lấy cách cục làm trọng, thứ đến chọn phù ức nhật chủ, chứ không phải trước phù ức sau chọn cách cục.

Mệnh này ngũ hành bắt đầu từ hỏa lưu chuyển đến Tài thì dừng mà hoại Ấn, Ấn cách không có bảo hộ nên cách bại ! Cách đã thành hình, luận lựa chọn dụng thần trước phải xem chữ lập cách có bị tổn thương không mới có thể nói tới thân cường nhược, nếu chữ lập cách bị phá hoại mà không đi luận cứu ứng mà chỉ tìm dụng thần trong thân cường nhược thì tức là bát tự này đi lệch phép tắc. Mệnh này Ấn cách gặp Tài, rất cần cứu ứng, bệnh tại địa chi chữ Thân, chọn dụng thần là ngũ hành hợp hoặc thông quan Tài Ấn thì có thể luận là vận tốt.

Từ thành chuyển bại

Khôn tạo: Canh nhật chủ sinh sau Tiểu Hàn 1 ngày

Giáp Thìn-Đinh Sửu-Canh Thân-Kỷ Mão

Đại vận: Bính Tý/ Ất Hợi/ Giáp Tuất/ Quí Dậu/ Nhâm Thân/ Tân Mùi

Canh kim sinh tháng Sửu, Quí thủy đương lệnh, nếu chỉ thuần quan sát tượng bên ngoài, sau Tiểu Hàn nhằm lúc khí hậu mùa đông lạnh lẽo, Canh kim được Đinh hỏa trụ tháng có Giáp mộc sinh cho, cách cục đẹp. Luận điều hậu, Đinh hỏa tuy không có lực bắng Bính hỏa nhưng Đinh thấu ở can nên cục được sưởi ấm, thổ không bị đông mộc không bị hàn, nên mộc có sinh cơ, tổ hợp như vậy khá là hữu tình.

Trên thực tế thì bát tự này ám tàng huyền cơ, nếu chỉ nhìn từ ngoại tượng thì khó suy ra bí ẩn của toàn cục, cho nên bát tự đầu tiên là phải chú trọng cách cục, không chỉ có dựa vào ngoại tượng để luận cát hung. Nếu chỉ quan sát ngoại tượng thì đây là mệnh có phúc có lộc, chồng con đề huề, nhưng quan sát kỹ cách cục thì lại không đẹp như vậy. Mệnh này Quí thủy Thương Quan đương lệnh, Ấn tinh xuất can chọn làm cách, Ấn vượng hỷ Tài chế, Tài tinh Giáp mộc thấu can rất hay nhưng Giáp gặp Kỷ tham hợp không sinh Quan nên không hay nữa, cách bại ở chỗ này. Mệnh cục dụng Tài mà Tài thấu xuất không sinh cho Quan thì làm sao là vợ hiền cho được ?! Tuế vận gặp Thương Quan sẽ gặp sóng gió. Vô vận Tuất xung xuất Thương Quan, lưu niên Quí Dậu Thương Quan gặp Quan, vợ chồng li dị xong thì cô này vào chốn phong trần.

Càn tạo: Đinh nhật chủ sinh sau Thanh Minh 26 ngày

Nhâm Thìn-Giáp Thìn-Đinh Mùi-Canh Tý

Đại vận: Ất Tị/ Bính Ngọ/ Đinh Mùi/ Mậu Thân/ Kỷ Dậu/ Canh Tuất

Mệnh này thổ đương lệnh, trùng trùng điệp điệp, khí thế thịnh đến phát sợ, tiết thân thái quá nên là bệnh của cục. Sách rằng: “Có bệnh mới là quí, không bệnh chẳng gì hay, trong cách khử bệnh đi, tài lộc đến tức thì.” Mệnh này Thương Quan là bệnh, Giáp Ấn thấu xuất ở trụ tháng, Giáp mộc tuy thoái khí nhưng tự tọa Thìn thổ, Thìn là thổ ướt có khả năng bồi đắp cho mộc, trong Thìn tàng Ất nên là vượng mộc địa, Giáp mộc tuy đã thoái khí nhưng có gốc mạnh nên không nhược, dư sức chế thổ.

Mệnh này nếu Giáp mộc tọa tử tuyệt thì không đủ lực chế thổ, cách bại, về xử sự thường hay có dấu hiệu nông nổi. Cho nên luận chế hóa phải coi có thích nghi điều độ hay không, nguyên cục có bệnh được thuốc hay thì đẹp, hơn nữa Giáp mộc lại ở trụ tháng, phước càng dày. Mệnh này thành Thương Quan phối Ấn cách, Giáp mộc gặp Canh chém mộc tạo tia lửa sinh Đinh, dễ được bậc bề trên quí mến.

Án: Canh kim chém mộc ra lửa sinh Đinh cũng cần điều độ, nếu trong mệnh Canh kim khí thế thịnh vượng mà Giáp mộc hưu tù thì chỉ luận Canh kim khắc mộc chứ không có hữu tình như Canh kim chém mộc ra lửa sinh Đinh.

(Durobi biên dịch)

Trusted by some of the biggest brands

spaces-logo-white
next-logo-white
hemisferio-logo-white
digitalbox-logo-white
cglobal-logo-white
abstract-logo-white
white-logo-glyph

We’re Waiting To Help You

Get in touch with us today and let’s start transforming your business from the ground up.