Chương 21: Giải Lá Số Như Thế Nào ?

Tinh túy của Tử Vi Đẩu Số có thể dùng 1 câu như sau để diễn đạt:

Tá Can độn Tinh, giả Tượng hợp Chi ứng Thì.

(Mượn “Can” độn “Sao”, vay “Tượng” hợp “Chi” ứng “Thì”).

Trong câu này đã chỉ rõ ra quy tắc luận mệnh của Tử Vi Đẩu Số, nhưng rốt cuộc hàm ý của câu này là gì, chương này sẽ đi sâu vào nghiên cứu.

Cầm trên tay 1 lá số được an xong xuôi, trong đó có các ký hiệu Thiên Can, Địa Chi, Tinh Diệu, Tứ Hóa, Đại Hạn, Cung chức v.v… khi phân tích lá số thì rốt cuộc cần phải căn cứ vào dấu hiệu nào để mà mổ xẻ? Những dấu hiệu này đều là các yếu tố cần thiết của sự thành thành lập nên lá số. Trong lúc luận giải lá số, những dấu hiệu này chia ra để nắm giữ quản lý các chức năng khác nhau.

Trên thị trường, có rất nhiều sách vở đều lấy tổ hợp tinh diệu làm chính, hoàn toàn quên sức ảnh hưởng của những ký hiệu khác như Thiên Can, Địa Chi. Điều này là không phù hợp!

Sự vận hành của mệnh vận không phải là chỉ do tự bản thân mình mà hoàn thành được. Nó nhất định phải có sự ảnh hưởng qua lại với các yếu tố Phụ Mẫu, Huynh Đệ, Phu Thê, Tử Nữ, Tài Bạch, Quan Lộc, Điền Trạch mới có thể diễn hóa ra được quá trình mệnh vận muôn màu muôn vẻ.

Phải biểu thị mối quan hệ của sự ảnh hưởng qua lại giữa chúng, thì mới dựa vào những ký hiệu của chúng để mà hiển hiện ra những tín hiệu cụ thể của sự kiện. Do có sự khác nhau về hoàn cảnh, ảnh hưởng của xã hội, cùng với những sự kiện đáng nhớ đã trải qua, gây ra sự thay đổi về Thời Gian và Không Gian. Con người bởi vì thích ứng với sự sự biến đổi Thời Gian và Không Gian, tất nhiên sẽ dựa vào quá trình thích ứng sẽ có một ít cải biến hoặc quyết sách, kết quả của sự hỗ trợ tác động lẫn nhau giữa con người cùng sự vật sự việc sinh ra hiệu ứng cát hung, vận mệnh chính là tại chỗ này mà sản sinh ra.

Cho nên trong mệnh bàn, tất cả những yếu tố có thể sử dụng như Thiên Can, Địa Chi, Tinh Tú, Tứ Hóa đều không thể bỏ qua. Khi luận giải mệnh bàn nhất định phải nhìn tổng quan, dựa vào những ảnh hưởng qua lại lẫn nhau của tất cả những yếu tố mệnh bàn sở hữu để suy xét mới có thể phân tích rõ ràng chính xác những nội hàm trong đó. Nếu như chỉ dùng tổ hợp tinh tú để luận mệnh, thường thường sẽ xảy ra sai lầm. Đây chính là nguyên nhân tại sao chỉ dùng có các sao để luận mệnh thường sẽ không ứng với thực tế.

Như vậy những dấu hiệu trong mệnh bàn, rốt cuộc ở trong lúc suy đoán lá số sẽ đóng vai trò gì? Trước hết, bắt đầu nói rõ từ Địa Chi, ở trên khoảng trống của mệnh bàn đã ghi lại một dấu hiệu duy nhất chính là Địa Chi.

Chức năng của bó là biểu thị Thời Gian, bởi vì Thời Gian là nhân tố không thể khống chế, nó là đại lượng thường hằng không thay đổi, biến đổi. Đối với quan lại quyền quý cho tới người buôn bán nhỏ hay kẻ hầu người hạ, thì Thời gian đều là không thay đổi nhịp bước. Từng giây từng phút hướng tới tương lai, vĩnh viễn không quay trở lại. Bất kể là ngoại lực gì cũng không cách nảo cản bước thời gian. Mà Tử Vi Đẩu Số lấy lúc ra đời của một người làm nền tảng cơ bản để phát triển tới thuật đoán mệnh.

Bởi vậy, Thời Gian là tiêu chuẩn cơ bản chung, giúp cho mệnh bàn Tử Vi đẩu số và số phận con người có thể liên kết chặt chẽ với nhau. Cho nên, ở trên khoảng trống của mệnh bàn đã đem Địa Chi in lên. Ở trong Tử Vi Đẩu Số, đem Thời Gian chia làm các loại đơn vị Mệnh, Đại Hạn, Lưu Nguyệt, Lưu Nhật, Lưu Thời, mỗi đơn vị chủ quản các khoảng thời gian khác nhau.

Mệnh Gốc chủ quản các đặc tính tổng quát của cả cuộc đời hoặc các đặc tính bẩm sinh, nó là một hình ảnh thô sơ giản lược mơ hồ. Bình thường sử dụng lời miêu tả qua loa để hình dung tất cả các sự vật hiện tượng mà Mệnh Gốc đại biểu.

Bởi vì Mệnh Gốc có thể rơi vào bất cứ một chi nào đó trên 12 Địa Chi, cho nên cái Địa Chi ấy tức là chỗ sở tại của Mệnh Gốc. Bởi vì Địa Chi ấy có thuộc tính Ngũ Hành của nó, những thuộc tính Ngũ Hành này sẽ cùng Mệnh Gốc tương tác mà thay đổi đặc tính. Nhân cái ảnh hưởng sự vật hiện tượng tiêu biểu của nó, nên các Địa Chi ngoại việc biểu thị Thời Gian ra thì thuộc tính ngũ hành ẩn chứa bên trong của chúng cũng sẽ cải biến sự vật hiện tượng hoặc ảnh hưởng tới đặc tính bẩm sinh. Trên thị trường có rất nhiều sách lấy tổ hợp sao tọa trong cung để luận mệnh, phạm vi thảo luận chỉ là ở đây, nó sẽ phát huy sức ảnh hưởng cả đời.

Mệnh cách ở lá số Gốc đại biểu cho đặc tính tổng thể của một cá nhân, nó là một đường bao quát chung về mệnh vận tổng thể của một người. Giống như thân thể của chúng ta, có người cao, có người thấp, có người cao to khỏe mạnh, có người cao mà lại gầy ốm, do mối quan hệ về hình dáng thể trạng mà sau này đối với việc có thể đảm nhiệm đều đã được định hình. Bởi vậy, từ Mệnh cách ở lá số Gốc có thể giải được một cá nhân có thể thành tựu được bao nhiêu về sự nghiệp.

Muốn phân tích mệnh cách cao thấp của một cá nhân, rốt cuộc cần phần tích những điều kiện nào?

Thứ nhất, đầu tiên phải xem sự tốt xấu của các tinh diệu hội họp ở tam phương tứ chính của cung Mệnh, có hình thành cách cục tốt hoặc xấu hay không?

Chú ý, nhất định phải xem Tam Phương Tứ Chính. Tại sao vậy?

Lấy cung Mệnh làm chủ, tam phương chính là Quan Lộc và Tài Bạch, nếu như Quan Lộc rất tốt mà Tài Bạch rất xấu, thì cái tốt tựa như là có người được cộng sự bầu lên làm Chủ tịch, nhưng sản nghiệp của công ty thì lại không được tốt. Suốt ngày bận bịu, hoặc ký phát chi phiếu trả tiền, do vì là người phụ trách công ty nên nhất định phải gánh vác nợ nần của công ty. Đảm đương chức danh Chủ tịch chính là hàm ý có cung Quan Lộc tốt nhưng mà lưng đeo nợ nần của công ty chính là ý cung Tài Bạch kết cấu hung ác.

Các cung khác cũng như vậy, đều phải chú ý kết cấu của tam phương. Không thể chỉ khán bản cung mà thôi. Như xem sự tốt xấu của cung Điền Trạch cần phải xem xét cân nhắc các cung vị hội nhập từ tam phương của cung Điền Trạch: cung Huynh Đệ, cung Tật Ách và cung Tử Tức.

Ở trong Thái Vi Phú, Cốt Tủy Phú đều có nhắc đến các cách cục và các đặc trưng tương quan, hoặc ngay sách này cũng có những chương tiết luận bàn về cách cục, có thể tham khảo.

Trong khi luận cát hung ở góc hình thành độ Tứ Hóa ở trên mệnh bàn; cũng cần phải suy xét cân nhắc cát hung của các cung vị tam phương hội nhập, mới có thể lý giải cung ấy cát tường hay không.

Thứ hai, nếu như mệnh cách có liên quan đến cặp sao Thái Dương & Thái Âm, lại cần phải xem là người sinh ban ngày hay sinh ban đêm.

Thái Dương tốt cho người sinh ban ngày, còn Thái Âm tốt cho người sinh ban đêm, đương nhiên Mệnh cục có Thái Âm lại còn cần xem có phải là người sinh vào đêm trăng tròn hay không? Giả như người sinh ban đêm gặp đúng đêm trăng tròn thì lại càng gia tăng cát lợi, có thể phát huy tối đa ánh sáng của sao Thái Âm.

Thứ ba, cung Mệnh rơi vào cung vị nào? Mối quan hệ sinh khắc chế hóa về ngũ hành của chủ tinh cung Mệnh và địa chi cung vị có quan hệ như thế nào?

Giả như cung Mệnh tại Hợi có sao Thái Âm tọa thủ, chính là vị trí miếu vượng của Thái Âm, cát lợi của nó không thể nói hết. Nếu cung Mệnh ở cung Ngọ có sao Thái Âm tọa thủ, lại là sao ban đêm mà ở cung vị của ánh mặt trời chói lọi giữa trưa, sẽ sản sinh ảnh hưởng không tốt đối với sao Thái Âm, mà biểu hiện ở trên mệnh cách của người là giống như cương liệt quật cường mà không hiểu lý lẽ, có hiện tượng bất lợi đối với người thân mà thuộc giới nữ. Đến đây thì lại đem điều kiện nam mệnh hoặc nữ mệnh thêm vào, nam mệnh có sao Thái Âm sẽ âm nhu sẵn có nữ tính như đã nói, nhưng khi tiến vào vùng của các cung ở phía sau cung Ngọ, mặc dù có những phong thái kể trên nhưng đã giảm đi rất nhiều. Lúc luận giải có thể cân nhắc giúp cho có sự lý giải về sự khác nhau của độ mạnh yếu, những sao khác cũng có thể phỏng theo như vậy để giải thích.

Thứ tư, ảnh hưởng Tứ Hóa của mỗi cung vị trên lá số Gốc.

Ngoài Tứ Hóa của Can năm sinh, còn phải chú ý đến ảnh hưởng Tứ Hóa của mỗi cung vị trên lá số Gốc. Quan sát mối quan hệ Tứ Hóa xung chiếu hội nhập của Ngã cung đối với mỗi một cung vị, thí dụ như:

Cung Huynh Đệ hóa Kị xung ngã Mệnh cung, nhất định giữa anh em trong nhà có nhiều việc xung đột bất hòa, khó được sự giúp đỡ từ anh em. Mọi ngườiị có thể sẽ hỏi: chẳng lẽ không cần phân tích các sao tọa thủ trong cung Huynh Đệ có cát lợi hay không ư? Giả như Thiên Tướng độc tọa cung Huynh Đệ, thì anh em có bất hòa và có dẫn đến tình trạng anh em không tương trợ nhau hay không?

Ở chỗ này phải phân biệt rõ ràng hai chuyện: có thể trong mắt người ngoài là anh em có hòa khí thân thiện, nhưng khi hai người ở chung trong nhà lại không hòa hợp. Tình cảm anh em đối với việc người ngoài nhìn vào là do các sao tọa trong cung Huynh Đệ biểu hiện, còn mối quan hệ chung sống giữa anh em thì lại là từ Tứ Hóa của cung Huynh Đệ để mà biểu lộ dấu hiệu. Hai việc đó không thể gộp lại làm một mà nói.

Về phần giữa Tha-Ngã (Họ và Ta) vì chuyện gì mà tranh chấp? Điều này có liên quan tới Thiên Tướng (sao tọa thủ). Sao Thiên Tướng có đặc tính nhiệt tình vì lợi ích chung, có một số người vốn có tiềm lực, ở trong cái tiềm lực của bản thân mình mà có thể bỏ tiền xuất lực ra để tương trợ cho bạn bè; nhưng cũng có một số người lại từ chối giúp đỡ anh em trong nhà như với bạn bè của mình, do đó mới xảy ra chuyện anh em bất hòa. Cung Huynh Đệ có sao Thiên Tướng tọa thủ, Hóa Kị xung vào cung Mệnh, chính là gây ra cái hiện tượng kiểu này. Đương nhiên, có một số tổ hợp sao tọa thủ ở cung Huynh Đệ cũng gây ra chuyện tình cảm anh em không thể hòa hợp được, và lúc này nếu như Hóa Kị đến xung cung Mệnh thì còn có khả năng không phải là vấn đề đối đãi nữa, mà còn mang ý nghĩa về anh em phải chia lìa xa cách không thể sum họp hoặc là sinh ly tử biệt.

Thông qua việc phân tích 4 tầng lớp (như vừa nói trên), mới có thể hiện ra đặc tính của một mệnh cách, chứ không phải giống như trong sách nói rằng chỉ khán trạng thái hội hợp của tinh diệu tọa thủ tại cung và tam phương tứ chính là có thể luận đoán được đặc thù mệnh cách của một cá nhân.

Thế nhưng liệu có phải là cứ có mệnh cách tốt là có thể được bảo đảm mai sau sẽ thuận buồm xuôi gió, thăng tiến vùn vụt hay không? Việc đó cũng không nhất định, bởi vì sự hoán chuyển của Đại Hạn khiến cho vận trình đi theo chiều thuận hoặc nghịch, các sao tọa thủ trong cung Đại Hạn mới tiến vào cũng sẽ khác biệt, cho nên vận trình sinh ra sự thay đổi lên xuống. Vậy cái nhân tố nào khiến cho vận trình sinh ra sự lên xuống ư? Đi tới các cung vị Đại Hạn khác nhau. Rốt cuộc cần phải cân nhắc nhân tố nào để phán đoán cát hung của Đại Hạn đây? Dưới đây sẽ lần lượt thuyết minh rõ các nhân tố của việc cân nhắc cát hung cho Đại Hạn:

Vận trình chính là trạng thái cát hung hối lận và tất cả những gì đã gặp trong quá trình trưởng thành của một người. Bởi vì, 12 cung vị không cách nào đại biểu cho vận trình cát hung của mỗi một năm, sẽ sinh ra trường hợp cứ 12 năm thì hiện tượng sẽ trùng lặp. Cho nên đem vận trình chia thành các loại đơn vị: Đại Hạn (10 năm), Lưu Niên (năm), Lưu Nguyệt.

Bởi vì mỗi Đại Hạn quản 10 năm vận đồ, mà mệnh bàn có 12 Địa Chi, cho nên mỗi một Đại Hạn cũng sẽ không có sự trùng lặp về Lưu Niên. Bởi vì trong mệnh cách đã định hình thể chất tiên thiên của một cá nhân. Cho nên ở trong vận trình thì các hiện tượng cát hung gặp được sẽ dựa theo sự mạnh yếu của thể chất tiên thiên mà sản sinh lực ảnh hưởng mạnh lên hoặc giảm xuống. Thí dụ như mệnh cách của 1 người đã định hình là tam phương Sát Kị trùng trùng xung củng, vận trình lại bất lợi thì nhất định hung tính sẽ tăng mạnh; nếu như mệnh cách trên lá số Gốc có cát tinh hội tụ tại tam phương, Lộc Quyền Khoa củng, mà vận trình lại tới gặp Sát Kị tụ tập, tuy rằng phải gặp sự trở ngại, nhưng mà lực phá hoại cũng được giảm bớt, chứ không đến nỗi gây ra sự tổn thương to lớn.

Bởi vì mối quan hệ của âm dương nam nữa sẽ ảnh hưởng tới vận trình đi thuận hoặc đi ngược chiều. Cùng một lá số nhưng mà giới tính Nam hoặc Nữ lại tạo ra vận trình Đại Hạn đi thuận chiều kim đồng hồ hoặc đi nghịch chiều kim đồng hồ, do đó vận mệnh cũng sẽ sinh ra những biến hóa khác biệt. Cho nên, nếu luận đoán về số mạng của một người thì nhất định phải đem Mệnh gốc và vận trình cùng nhau cân nhắc thì mới được.

Đại Hạn từ Ngũ Hành Cục Số của cung Mệnh xác định số tuổi bắt đầu và kết thúc, chủ nắm giữ về việc lên xuống của 10 năm vận thế, so với Mệnh gốc, nó có thể miêu tả chi tiết hơn về hình ảnh của sự vật hiện tượng. Nói cách khác, thông qua việc phân tích tầng lớp của Mệnh gốc (bản mệnh) và Đại Hạn, thì tới giai đoạn Đại Hạn sẽ có thể miêu tả chính xác hơn những hình ảnh của người, sự vật.

Đại Hạn cứ 10 năm chuyển đổi 1 lần, sức ảnh hưởng của Đại Hạn chỉ có hiệu lực ở trong số tuổi 10 năm thuộc Đại Hạn đó mà thôi. Một khi đi đến Đại Hạn sau, lực ảnh hưởng của các cát hung tinh, Kị Sát Lộc Khoa… hội nhập ở tam phương tứ chính của Đại Hạn ấy liền suy vi biến mất. Thế nhưng những tính cách của đương số được bồi dưỡng ở trong Đại Hạn đó, lại sẽ theo Đại Hạn di chuyển mà kéo dài tiếp. Trường hợp này cần không thể xem thường cũng không thể phủ định.

Có một số người có tổ hợp (sao) trên lá số Gốc vốn không tệ, nhưng ở Đại Hạn lúc trưởng thành lại gặp phải tổ hợp cực ác liệt, cho nên tiếp nhận sự ảnh hưởng của các nhân tố chủ đạo trong Đại Hạn đó mà nuôi thành các thói quen không tốt. Tuy nhiên vượt qua được cái Đại Hạn đó thì cũng không thể lập tức dứt bỏ hoặc thay đổi những dắt bỏ thói quen đó. Những tập tính, thói quen này cũng sẽ ảnh hưởng tới vận trình trong Đại Hạn tiếp theo. Cho nên, trong lúc luận đoán Đại Hạn thì không được quên lực ảnh hưởng của loại hiện tượng này. Bởi vì, nhân tài là cần phải bồi dưỡng, trong quá trình trưởng thành đã tiếp nhận giáo dục tại trường học, giáo dục của gia đình, giao du với bạn bè, hoàn cảnh chung quanh, giáo dục của xã hội cùng tạo nên một nhân cách cá nhân, cái này nhất định sẽ ảnh hưởng số mạng của một người. Những bậc làm cha mẹ, thầy cô, quản lý liệu có thể không cẩn thận được ư?

[Có người nói rằng: có kẻ tuy các sao thủ cung Mệnh không tồi nhưng có hành vi dơ bẩn ti tiện, là bởi vì sao tọa thủ cung Thân quá tồi hoặc cái gọi là địa bàn không được tốt mà đưa đến nhận định trên. Tôi là tôi không tán thành sự lý giải này.]

Phán đoán cát hung của Đại Hạn thì phải cân nhắc nhiều nhân tố, so với xét mệnh cách phải phức tạp hơn nhiều. Đại Hạn sẽ cùng Mệnh gốc tác dụng lẫn nhau, diễn hóa thành các dạng hiệu ứng cát hung, do vậy phải cùng lúc nhận định đối chiếu cả mệnh cách ở lá số Gốc và Đại Hạn thì mới có thể biết xu thế của cát hung họa phúc.

Cho nên lúc suy đoán cát hung của Đại Hạn, phải đặt Mệnh Gốc ở vị trí thứ nhất. Chúng ta có thể ví von, Mệnh Gốc là nền móng của công trình, Đại Hạn thì là nhà cửa ở bên trên, nếu như nền móng vững chắc kiên cố, thì có thể đắp nhà cao tầng. Nếu như là nền móng yếu, thì chỉ có thể dựng lều mà thôi, tới khi gặp phải mưa to liền sụt lở tạo thành đại họa. Còn như nhà lầu xây trên nền móng kiên cố, tuy rằng gặp phải mấy ngày liền mưa to tối đa chỉ là tường bị thấm nước mà thôi chứ không gây nên nguy hại lớn. Tương tự, nếu như đương số có một mệnh cách kiên cố vững chắc, gặp phải Đại Hạn bất lợi chỉ sẽ gây nên tổn hại nhỏ; nếu như mệnh cách phù phiếm vô lực, lúc gặp phải Đại Hạn không tốt thì tạo thành thương tổn nghiêm trọng. Bởi vậy, khán vận trình Đại Hạn thì nhất định phải đem Cách cục của lá số Gốc phối vào để suy xét thì mới có thể cân nhắc chính xác sự tốt xấu của Đại Hạn sẽ gây ra lực ảnh hượng mạnh yếu đối với mệnh cách.

Yếu tố thứ hai của việc cân nhắc vận trình cát hung của Đại Hạn chính là tình hình phân bố của Tứ Hóa Đại Hạn. Quan sát xem bố cục hình thành của Tứ Hóa Đại Hạn bay vào các cung vị tại lá số của Đại Hạn và mối quan hệ của sự [Xung, Chiếu, Hội, Nhập] vào tam phương của cung Mệnh của Đại Hạn biểu thị thế nào? Và cả mối quan hệ của sự [Xung] hoặc [Chiếu] hoặc [Hội] hoặc [Nhập] với cách cục trên lá số Gốc. Giả như có hình thành quan hệ kể trên, thì hiệu ứng cát hung sẽ biểu hiện tương đối mạnh và rõ, nếu không thì lực hơi yếu.

Trở lại kiểm tra kết cấu tổ hợp sao tọa thủ trong cung Đại Hạn hiện ra là cát hay hung, các kết cấu tổ hợp tinh diệu cát hung này vốn có giải thích ở trong các sách vở của tiền nhân có thể tham khảo. Về cơ bản, ngoại trừ tổ hợp có chứa hung tinh mà có thể trở thành cách cục cát lợi (như Linh Tham cách), chỉ cần gặp hung tinh nhập vào tổ hợp tinh diệu tất sẽ không tốt.

Lưu Niên chủ nắm giữ tốt xấu của vận khí 1 năm, lực ảnh hưởng của nó chỉ gói gọn trong 1 năm mà thôi. Trên cơ bản nó tiếp nhận những chuyển biến diễn hóa từ Mệnh Gốc, Đại Hạn, để mà ứng nghiệm ở trong Lưu Niên. Trong quá trình hình thành sự kiện nó có vai trò bị động, chúng ta không thể dùng tổ hợp tinh tú Lưu Niên hoặc Tứ Hóa Lưu Niên để phân định xem trong năm Lưu Niên ấy sẽ phát sinh ra chuyện gì. Thế nhưng khi suy tính xem vào ngày nào sẽ phát sinh thì phải căn cứ vào quan niệm Thiên Địa Nhân bàn. Lưu Niên cho phép suy tính được [Ngày] xảy ra sự kiện.

Bởi vì có 12 Địa Chi phối hợp 12 tháng, cho nên từ Đại Hạn suy tính cái [Tháng] xảy ra sự việc là khá đơn giản. Nhưng một tháng có 30 ngày mà lá số chỉ có 12 Địa Chi, cho nên sẽ có Địa Chi có đến 2 hoặc 3 ngày ở trên cung đó.

Muốn tìm ra ngày nào sẽ là ngày ứng nghiệm sự kiện ư? Cái này cần dựa vào linh cảm, người viết vẫn chưa thể hoàn toàn nắm vững được cơ chế triển khai suy luận. Chỉ có điều trong sách này tiếp nhận sử dụng 1 thí dụ luận mệnh do một vị cao thủ Tử Vi Đẩu Số lão thành ở Nhật Bản cung cấp, chính là dùng để nói rõ suy tính Lưu Nhật phát sinh, các vị có thể tham khảo. Trong đó đem mối quan hệ của Đại Hạn, Lưu Niên, Lưu Nguyệt, Lưu Nhật cùng nói rõ một lượt.

Địa Chi của Lưu Niên lại chính là tên gọi của Lưu Niên, thí dụ như năm Bính Tý thì cung Mệnh Lưu Niên ngay cung Tý. Địa Chi lại chính là điểm then chốt của tên gọi Lưu Niên, và cung vị sở tại của Tiểu Hạn là khác nhau. Về phần Tiểu Hạn, người viết không sử dụng, cái này là sự tâm đắc của người viết qua nghiệm chứng gần 1000 ví dụ luận mệnh. Nếu muốn đi sâu vào nghiên cứu mối quan hệ giữa Tiểu Hạn và việc phát sinh sự kiện, các vị có thể tiến hành nghiệm chứng thêm một chút về độ chuẩn xác của nó.

Tổ hợp tinh tú còn có công năng đại biểu cho điều gì?

Mọi người đều biết lúc muốn miêu tả một sự kiện, thì 5 yếu tố “Người”, “Việc”, “Thời”, “Nơi”, “Vật” là không thể thiếu. Tương tự, trong lúc suy luận mệnh bàn thì chúng ta cũng mong mỏi từ trong đó lựa ra 5 yếu tố này để hình dung sự kiện. Như đã nói trước đây, Thời Gian phát sinh sự kiện là do Địa Chi hiển hiện. Vậy thì rốt cuộc mối quan hệ giữa “Người, Nơi, Việc, Vật” và “Can cung, Cung chức, Tổ hợp tinh diệu” hình thành như thế nào?

Khi phân tích vấn đề này, hiểu ra được những chuyện gì? Chúng không phải là mối quan hệ tay đôi một đối một mà những yếu tố này ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Nói cách khác thì Cung chức vừa có thể có thể đại biểu Người, lại cũng có thể đại biểu Vật, còn Tổ hợp tinh diệu vừa có thể đại biểu Nhân vật, lại cũng có thể đại biểu Phẩm vật. Không như Thời Gian chỉ do mỗi mình Địa Chi đại biểu, mà Cung chức, Can cung, Tổ hợp tinh diệu phải nhất định được phối hợp sự ảnh hưởng lẫn nhau để hiển hiện lên Người – Việc – Nơi – Vật.

Phải phối hợp các ảnh hưởng lẫn nhau ấy như thế nào? Điểm then chốt ở bên trong chính là Can cung, từ 4 ngôi Hóa tinh diễn hóa ấy mà xâu chuỗi các Cung chức và Tổ hợp tinh diệu, khơi ra ảnh hưởng diễn hóa mà nhận ra được hình tượng của Người – Việc – Vật. Do vậy, hình ảnh của Người – Việc – Vật không phải chỉ đơn thuần do một mình cung chức biểu hiện, cái này có chỗ khác biệt đối với sở học trước đây của quý vị cũng như so với các sách đang bán trên thị trường ghi lại về từng cung từng sao. Sở dĩ việc giải thích của sự hiển hiện về hình tượng nào đó là khác nhau mà trải qua sự phối hợp mệnh vận ảnh hưởng qua lại chính là một loại động thái thể hiện ra vận thế, cho nên giải thích như bên trên sẽ như:

Sự lý giải của việc phối hợp ảnh hưởng [Anh chuyển nhà sẽ kiếm được tiền] hoặc [cưới chồng thì mẹ chồng sẽ chết trong vòng 3 tháng]. Trong những lý giải này, đem 2 cung vị của Tử Vi Đẩu Số: [Điền Trạch & Tài Bạch], [Phu Thê & Phúc Đức] kết hợp với nhau để đồng thời phân tích. Chính là sử dụng Can cung Điền Trạch phi Tứ Hóa tiến nhập cung Tài Bạch, đem quan hệ liên kết của hai cung tạo ra, rồi cân nhắc lý giải về trạng thái tổ hợp tinh diệu thu được.

Đương nhiên, việc xem kỹ mối quan hệ trùng điệp giữa một cung nào đó của Đại Hạn là loại cung nào của lá số Gốc thì cũng không được xem thường. Nếu như, cung Tài Bạch của Đại Hạn và cung Nô Bộc của lá số Gốc trùng điệp thì cát hung về tiền tài của Đại Hạn ấy sẽ có sự liên quan rất lớn đến bạn bè nô bộc. Đó chính là Phép xem (khán pháp) từ mối quan hệ trùng điệp của cung vị giữa lá số Gốc và Đại Hạn để mà giải thích hình tượng sự vật.

Cho nên Tứ Hóa chính là Dụng thần của Đẩu Số, thông qua tác động của Tứ Hóa mới có thể đem các cung nhân sự độc lập để mà liên kết lại với nhau, khiến cho giữa chúng sản sinh tác động lẫn nhau. Thông qua sự diễn hóa tầng tầng Tứ Hóa của Đại Hạn và lá số Gốc làm sự tăng mạnh hoặc giảm nhẹ ảnh hưởng thì mới có thể khiến cho sự kiện được thành tượng hay là khiến cho sự kiện tiêu tan đi.

Nhân đây, chúng ta sử dụng hình 1 để nói rõ, bởi vì cung Phu Thê có [Thiên Đồng, Thiên Lương Quyền, Thiên Hình, Đà La] tọa thủ, mà cung Mệnh Gốc làm Thiên Đồng hóa Kị nhập vào cung Phu Thê, cung Mệnh của Đại Hạn làm Thiên Lương hóa Lộc nhập vào cung Phu Thê, hình thành việc cung Phu Thê đồng thời tiếp nhận sự tiến đến bởi Hóa Lộc và Hóa Kị của 2 ngôi sao khác nhau do 2 cung vị khác nhau. Loại tình huống này khác với tình huống cùng là một ngôi sao vừa Hóa Lộc vừa Hóa Kị, có ý rằng [bản thân mâu thuẫn, nội tâm xung đột]. Bởi vì [Hóa tính] của 2 ngôi sao đều sẽ đồng thời tồn tại nguyên cớ ở cái cung vị ấy. Đây là hiện tượng không thể xem thường khi luận giải mệnh bàn.

Từ Can cung của Cung chức phi Tứ Hóa nhập vào một cung vị nào đó liền đại biểu cho sự hình thành mối quan hệ của cung khởi phi và cung nhập vào thông qua Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa hay Hóa Kị. Hơn nữa còn là từ cung khởi phi chủ động, còn cung nhập vào chỉ là nơi bị động tiếp nhận Tứ Hóa nhập vào.

Ví dụ như: cung Mệnh có can Mậu, hóa Tham Lang thành Lộc nhập vào cung Huynh Đệ thì là do ta chủ động quan tâm anh em, giúp đỡ anh em nhưng anh em có ấm lòng tương tự đáp lại ta hay không? Sẽ phải xem Can cung Huynh Đệ phi Tứ Hóa nhập cung vị nào của mệnh bàn để đi tới quyết định.

Trong lúc phân tích, vẫn phải chú ý là cái sao nào tham gia vào Tứ Hóa? Cùng là hóa Lộc như các sao Liêm Trinh (can Giáp), Thiên Cơ (can Ất), Thiên Đồng (can Bính)… thì liệu có phải là mỗi một ngôi sao ấy hóa Lộc đều đại biểu ý nghĩa giống nhau hay không?

Không! Giữa chúng có khác biệt, các ngôi sao khác nhau hóa Lộc sẽ thể hiện ra các hình tượng khác nhau. Còn việc nhập vào các cung vị khác nhau cũng sẽ có các giải thích khác nhau. Trong khi giải thích hình tượng Người – Việc – Nơi – Vật, cần phải cân nhắc sự khác nhau trong đó để mà thay đổi các loại hình tượng. Trong việc cân nhắc cần phải tham khảo ba điều dưới đây:

Thứ nhất, cung khởi phi và cung nhập vào.

Thứ hai, là sao nào tham gia Tứ Hóa.

Thứ ba, là tổ hợp tinh diệu.

Điều thứ nhất và thứ hai như đã nói ở trước, điều thứ ba cũng là nhân tố rất quan trọng. Nếu như tổ hợp tinh diệu không đẹp, dẫu là hóa Lộc tiến đến cũng là sản sinh ảnh hưởng tiêu cực, làm tiêu giảm lực tốt đẹp của hóa Lộc. Thí dụ như, tuy rằng cung Tử Tức hóa Lộc tiến nhập cung Mệnh của ta, con cái hiếu thuận ta, nhưng sao tọa thủ cung lại là các sát tinh như Hỏa Tinh, Đà La, Hóa Kị, Thiên Không (Địa Không), thì con cái có thể là hạng lưu manh, ngược lại khiến cho ta lo lắng con cái liệu có phạm pháp, ngồi tù hay không. Mặc dù rất hiếu thuận nhưng xin hỏi trường hợp này là cát hay hung?

Do đó, khi giải thích ý tượng của tinh diệu, phải phối hợp đồng thời cả Tứ Hóa và Tổ hợp tinh diệu mới có thể biết chính xác cát hung, không được chỉ xem mình Tứ Hóa mà thôi.

Thông qua trình tự kể trên lần lượt mổ xẻ là có thể giải ra các bí mật được giấu ở mệnh bàn, cũng là giải pháp để phân tích Lưu Niên, Lưu Nguyệt… Phỏng theo trình tự này cũng có thể giải ra được câu đố của lá số Lưu Niên, Lưu Nguyệt. Đương nhiên mối quan hệ của đơn vị thời gian khác nhau, nhất định phải áp dụng vào quy tắc Thiên Địa Nhân bàn để đi tới phân giải, xin mời tham khảo chỗ nói về Thiên Địa Nhân bàn.

(Dẫn theo trang www.huyenhocvadoisong.com)

Trusted by some of the biggest brands

spaces-logo-white
next-logo-white
hemisferio-logo-white
digitalbox-logo-white
cglobal-logo-white
abstract-logo-white
white-logo-glyph

We’re Waiting To Help You

Get in touch with us today and let’s start transforming your business from the ground up.