Tam hợp? Phi tinh? Đường nào đến La Mã?

Mùa Giáng Sinh và tết tây năm nay hơi đặc biệt, tôi được nghỉ lâu hơn các năm trước. Nhân đó xin viết loạt bài này, mong sẽ đạt đến một kết quả nào đó. Bằng không thì coi như là mua vui cuối năm vậy.

Một khởi đầu bình thường

Là người Việt Nam sinh ra trong thập niên 50, tôi bắt đầu học Tử Vi với quyển Tử Vi Đẩu Số Tân Biên của ông Vân Đằng Thái Thứ Lang. Sau khi bỏ khoa Tử Vi 10 năm rồi trở lại trong thập niên 80, tôi học thêm hai tập sách của cụ Thiên Lương, cũng như các sách Tử Vi áo bí biện chứng học (Hà Lạc Dã Phu Việt Viêm Tử) và Tử Vi chỉ nam (Song An Đỗ Văn Lưu) v.v…

Tóm lại, về sách Tử Vi Việt Nam thì tôi là một người đọc sách rất bình thường, và chắc chắn có nhiều người thâm cứu đã đọc nhiều về Tử Vi Việt Nam hơn tôi.

Kỳ duyên: Được chứng kiến phong trào trăm hoa đua nở

Nhờ một cơ duyên tôi được biệt phái sang làm việc ở Đài Loan mùa hè năm 1995, đến tháng 12 năm 2001 mới trở lại Hoa Kỳ, tính ra thời gian công tác Á Châu của tôi tròn 6 năm rưỡi. Mặc dù công tác đòi hỏi tôi phải đi lại nhiều nước ở Á Châu, nhưng nhờ Đài Loan là trụ điểm mà tôi được chứng kiến phong trào Tử Vi “trăm hoa đua nở” nhà nhà tranh tiếng đưa Đài Loan lên đỉnh cao của Tử Vi toàn cầu.

Vì thời trăm hoa đua nở sách Tử Vi nhiều quá, ngay cả sách hay cũng nhiều quá mà thời giờ của tôi thì có hạn, khi còn ở Đài Loan mục đích chủ yếu của tôi là tìm lại cơ sở khoa học của Tử Vi. Rất may nhờ gặp quyển “Chu dịch dữ Tử Vi đẩu số” của ông Tạ Phồn Trị mà mục đích này của tôi đã đạt được kết quả đáng kể.

Còn về kỹ thuật xem Tử Vi thì mặc dù phong trào trăm hoa đua nở ở Đài Loan (thêm sách Vương Đình Chi phái Trung Châu ở Hương Cảng) giúp tôi đạt nhiều tiến bộ và biết áp dụng nhiều kỹ thuật mà tôi chưa từng thấy trong các sách Tử Vi Việt đã đọc qua, chủ yếu tôi vẫn lấy cách xem của tử vi Việt làm nền, và bổ sung bằng cách xem tứ hóa của phái tam hợp.

Hai phái tam hợp và phi tinh trong thời trăm hoa đua nở

Đến đây xin đi lạc đề một chút, thời trăm hoa đua nở ở Đài Cảng có hai phái chính, một là phái “tam hợp” cách xem nhiều điểm tương tự Tử Vi Việt Nam, với khác biệt chủ yếu là chú trọng tứ hóa khi xem đại hạn (hạn hóa), lưu niên, lưu nguyệt, lưu nhật v.v… và khi luận hạn thì dùng phép chuyển cung để xem hết cả 12 cung.

Phái kia là phái “phi tinh” bắt đầu rầm rộ từ năm 1985 (tức 10 năm trước khi tôi sang Đài Loan) khi quyển “Đẩu số bí nghĩa” xuất hiện tạo nhiều sôi nổi. Vậy thì phái phi tinh trên mặt nổi có vẻ còn mới lắm. Nhưng theo nhận xét của tôi đó chỉ là mặt nổi thôi. Vì tật dấu nghề của người Á Đông, xét những diễn biến vài năm trước cũng như sau khi quyển “Đẩu số bí nghĩa” lộ ra ngoài giang hồ thì thấy ngay là lối xem của phái phi tinh đã được tối thiểu vài cao thủ ở Đài Loan cũng như Hương Cảng xử dụng, thậm chí dạy học trò, nhưng giữ bí mật, sau khi “bí kíp” lộ rồi thì chẳng còn lý do gì bí mật nữa, mới tình nguyện bật mí đó thôi.

Tại sao nói đến chuyện trước năm 1985? Vì trước đó đã có ông Chính Huyền Sơn Nhân (CHSN) tự xưng là được thần tiên dạy bảo, ra sách Thiên Địa Nhân tử vi đẩu số hoàn tập 12 quyển bìa cứng, riêng tập thứ 6 trong tít chứa 4 chữ “Huyền không tứ hóa” xử dụng cách xem khá giống với phái phi tinh thì ra từ tháng giêng tây năm 1984, tức là hơn một năm trước khi “Đẩu số bí nghĩa” xuất hiện giang hồ. Đây chỉ là trường hợp tôi biết (vì tôi đã mua toàn bộ 12 quyển Tử Vi của ông CHSN tại phố tàu từ lâu trước khi đi Đài Loan), chắc hẳn còn nhiều trường hợp tương tự.

Tóm lại, theo tôi, thời trăm hoa đua nở là lúc phái phi tinh dù muốn hay không cũng phải ra mặt giang hồ, vì đã lộ hàng rồi, muốn “dấu nghề” cũng không được nữa.

Nghiên cứu phái tam hợp

Trong thời gian ở Đài Loan, mặc dù mua sách của phái phi tinh (thí dụ như Tử Vi tiến giai của Khuyến học trai chủ, Đẩu số bí nghĩa kim giải của Hồng Lăng, v.v…) tôi lại chỉ học cơ bản mà chẳng bao giờ áp dụng vào thực tế. Sở dĩ dám nói chắc thế vì tôi còn nhớ vài lần về Hoa Kỳ thăm nhà bị người ta yêu cầu xem số; cách xem của tôi cơ bản giông giống Tử Vi Việt Nam, và dĩ nhiên chịu ảnh hưởng của phái tam hợp, nhưng lại chẳng có hơi hướng gì của phái phi tinh. Tôi sẽ bàn sau lý do tại sao tôi có vẻ “kị” cách xem của phái phi tinh như vậy.

Sau khi về lại Hoa Kỳ tôi bị đuổi việc. Dĩ nhiên chẳng ai muốn bị đuổi việc, nhưng đây đúng là một trường hợp tái ông thất mã vì nhờ đó mà tôi có thời giờ suy ngẫm về những gì mình đã biết trước khi sang Đài Loan và những gì mình thu thập, học hỏi được trong thời gian ở Đài Loan, kết tụ lại thành 4 quyển sách huyền học là:

  • Tử Vi hoàn toàn khoa học 1 (Chính tinh, tứ hóa, và các sao liên hệ) năm 2004.
  • Tử Vi hoàn toàn khoa học 2 (các sao thần sát), 2011.
  • Mệnh lý hoàn toàn khoa học, 2011.
  • Kinh dịch hoàn toàn khoa học, 2011.

Cũng nhờ có nhiều thời gian, tôi bắt đầu nghiên cứu chuyên sâu cách xem Tử Vi của phái tam hợp (tôi cũng nghiên cứu nhiều cách xem Tử Bình, nhất là các sách của nhân tài manh phái Đoàn Kiến Nghiệp, nhưng sau nhận thấy mình không hợp với khoa Tử Bình, tôi quyết định thôi Tử Bình, trở lại chuyên tâm với Tử Vi).

Sau khi so sánh nhiều tác giả của phái tam hợp, tôi đi đến kết luận cách xem Tử Vi của ông Tử Vân (Đài Loan) có tính khoa học cao hơn hết; thế là tôi liên tục nghiên cứu 11 quyển sách Tử Vi mà ông Tử Vân viết. Tính đến năm 1916, công cuộc nghiên cứu này đã kéo dài mười mấy năm. Mặc dù cách xem của phái Tử Vân khá phức tạp và còn tối thiểu vài vấn nạn (như việc định cung trọng điểm) mà tôi chưa tìm ra đáp án hợp lý. Tôi chờ mong, hy vọng rồi sẽ có những quyển sách mới của ông Tử Vân giải quyết các vấn nạn này.

Thất vọng với cách xem mới của đại sư Tử Vân

Năm 1916 nhờ thông tin của anh Transporter trên mạng tuvilyso.org tôi mới biết ông Tử Vân có ra sách mới. Tức thì tôi đến tiệm sách tiếng Hoa địa phương nhờ họ đặt mua tất cả những quyển sách mới này. Khi sách về tôi hăng hái đọc. Mới đầu tôi rất hứng khởi vì thấy có vài điều mới so với cách sách trước, mà cách xem vận của người B dùng lá số của người A là một thí dụ.

Nhưng sau một tháng trời mọi hăng hái ban đầu của tôi đều biến mất, vì rõ ràng ông Tử Vân đã chuyển đường hướng. Xưa ông chê cách xem của phái phi tinh mà ông gọi là “tứ hóa bay đầy trời”, nhưng trong các sách này rất nhiều bài ông cũng để cho tứ hóa tung bay khắp nơi chẳng thua gì phái phi tinh, có khi còn hơn nữa.

Nghiêm trọng hơn, ông Tử Vân giới thiệu một cách xem dựa trên “quái tượng” hoàn toàn xa lìa nền tảng của khoa Tử Vi. Đại khái khi áp dụng phép quái tượng ông tủy điều kiện dựa trên năm tháng ngày giờ sinh và tứ hóa mà hoàn toàn định lại vị trí của hết thảy 14 chính tinh.

Tôi luôn luôn kính trọng sáng kiến mới. Nhưng mọi sáng kiến mới đều phải có nền tảng rõ ràng. Rất có thể thời gian sẽ chứng minh rằng cách xem quái tượng của ông Tử Vân là một đột phá vĩ đại, và chính là tương lai của khoa Tử Vi. Nhưng là người trọng khoa học, tôi buộc lòng phải tạm bỏ qua cách xem này vì nó đã rời quá xa cái nền tảng cơ bản của khoa Tử Vi.

Miễn cưỡng trở lại chồng sách phi tinh

Trở lại vấn đề “tứ hóa bay đầy trời”, vì trong những sách mới của ông Tử Vân đây là sự thật tôi bỗng nảy ra một câu hỏi. Quý vị chẳng cần biết câu hỏi này là gì. Chỉ cần biết là nó thôi thúc tôi trở lại với chồng sách Tử Vi phi tinh mà tôi không chịu đọc kỹ nhưng vẫn còn giữ kỹ trong kho. Ngay đây tôi phải có lời cám ơn một anh bạn trẻ (so với tôi) mà tôi chỉ biết sơ qua mạng tuvilyso là anh WhiteBear, bởi tôi biết anh và những người theo anh đã chọn lối xem phi tinh làm cơ sở, chắc là phải thấy cách này có điểm trội hơn hoặc tối thiểu ngang hàng cách cũ. Tôi phải có lời cám ơn này bởi nếu chẳng có người Việt nào thèm xử dụng phi tinh thì thú thật tôi sẽ chẳng bao giờ làm chuyện trở lại học sách phi tinh. (Biết đâu ngày nào đó còn khẳng định cách xem phi tinh chắc chắn là “man pháp”?)

Lý do khiến tôi trước đây “Kị” phái phi tinh có nhiều, nhưng điểm chính là hầu hết các sách phi tinh mà tôi đã đọc qua đều chỉ thấy xem tứ hóa, còn các sao khác của Tử Vi dù lớn hay nhỏ coi như bỏ hết. Gốc Tử Vi Việt bảo tôi cách luận Tử Vi như thế không ổn chút nào. Có người sẽ đề nghị “Thì cứ việc phối hợp cả hai cách mà xem!” Vấn đề là tôi nghiên cứu Tử Vi với tinh thần của một người trọng lý lẽ khoa học. Phái phi tinh chỉ trọng tứ hóa mà lờ đi các sao khác của Tử Vi là có lý do của họ (cũng tương tự lý do tại sao khoa Tử Bình hiện đại gần như đã bỏ hết các thần sát không xem), chẳng phải cứ hổ lốn nhét trộn cơm với bánh mì là tự nhiên ổn thỏa đông tây.

Sau khi thất vọng với cách coi mới của đại sư Tử Vân, mặc dù trở lại đọc kỹ các sách phi tinh vấn đề này vẫn treo nặng trĩu trong đầu tôi.

Nhiều người chưa quen thuộc với phái phi tinh sẽ thốt ngay ra hai chữ “dấu nghề” khi biết phái này ít khi dùng, thậm chí không dùng những sao khác của khoa Tử Vi. Đây là phản ứng hợp lý, vì dấu nghề quả là đặc tính của huyền học Á đông.

Thú thật thời gian ở Đài Loan vì đã coi nhẹ phái phi tinh tôi chẳng buồn suy nghĩ sâu lắm, chỉ biết rằng bỏ hết các sao là “không được”, thế thôi, thậm chí phái phi tinh có dấu nghề hay không tôi cũng chẳng cần biết tới. Nhưng sau khi thất vọng với cách xem mới của đại sư Tử Vân và trở lại học sách phi tinh, tôi biết mình phải nghĩ sâu hơn nữa về vấn đề này. Ấy bởi vì tôi đã quyết định xét phái phi tinh dưới nhãn quan của một người nghiên cứu. Người nghiên cứu phải vượt thắng tâm lý của chính mình để mong tìm sự thật. Vì vậy tôi cố bình tâm suy nghĩ thật kỹ xem có lý do gì khiến phái phi tinh bắt buộc phải bỏ hết các sao khác hay không.

Một ngày trong năm 2018, tôi nghĩ tôi đã tìm ra câu trả lời cho vấn đề này, sau nhiều tháng dài tiếp tục suy nghĩ thêm bây giờ tôi càng chắc chắn. Tôi xin trình bày suy nghĩ của mình như sau:

Cách hay nhất là so sánh với lịch sử khoa Tử Bình. Khoa Tử Bình xưa (lúc chưa gọi là Tử Bình) coi trọng năm sinh, tức sao Thái Tuế. Đa số các thần sát lại từ Thái Tuế mà ra, nên sự thật là Tử Bình xưa trọng thần sát. Sau ông Tử Bình có phát kiến mang tính đột phá là lấy can chi ngày làm trụ “ta”, ngày trở thành yếu tố quan trọng nhất, trải qua ngàn năm phát triển trở thành khoa Tử Bình như chúng ta biết ngày nay. Một trong những diễn trình trong ngàn năm phát triển đó là việc phế bỏ thần sát. Việc phế bỏ này có tính lần hồi, nhưng với thời gian con số hơn trăm thần sát đã tụt xuống thảm hại.

Sự thật Tử Bình phế bỏ thần sát chẳng phải tôi là người đầu tiên nói tới, vì tôi chỉ lập lại ý của ông Nhật Nguyệt đạo nhân là cao thủ của cả hai môn Tử Bình và Tử Vi, như đoạn trích sau đây:

Phê phán hai khoa Tử Vi và Tử Bình

Nguyên tác: “Đẩu số, Tử Bình đại phê phán”

Trích chương 3, trang 32-36, sách “Tử Vi đẩu số trưng nghiệm”

Soạn giả: Nhật Nguyệt Đạo Nhân

nhà xuất bản Vương Gia, Đài Bắc 1991

Đằng Sơn phỏng dịch, 2005

“Tại sao từ lúc sáng lập khoa Tử Bình đã không trọng phương vị thần sát? Lời đáp cho câu hỏi này rất giản dị: Tử Bình chỉ có bốn trụ, chỉ có 8 loại can chi; kết cấu quá thô sơ nên không thể nào kết nạp phương vị thần sát vào mà xử dụng được.

“Đưa thử một thí dụ quý vị sẽ thấy ngay.

“Trong quyết yếu an thần sát, khi thái tuế là năm Giáp Tý thì niên can sát tinh Dương Nhận được an ở Mão. Chữ ‘Mão’ này đại biểu phương chính đông của tinh bàn, hoàn toàn chẳng phải như khoa Tử Bình nói là ‘trong bát tự có chi Mão thì có Dương Nhận’. Quan điểm này (về Dương Nhận của khoa Bát Tự) hoàn toàn méo lệch so với nghĩa nguyên thủy của thần sát. Lại nữa, khi ta nói Dương Nhận của Giáp ở Mão, chữ ‘Giáp’ này không phải là thiên can của tháng, ngày, hoặc giờ, mà là thiên can của Thái Tuế. Sách cổ viết ‘Thái Tuế là chủ tể của các thần sát’, lại có nói ‘Thái Tuế đuổi theo các sát’. (Từ đó có thể nói) cách an thần sát có liên hệ mật thiết với chuyển động của địa cầu.

“Khoa Tử Bình cho đủ loại thần sát phát xuất từ can ngày; những thần sát hư cấu này phải áp dụng thế nào vào việc đoán mệnh vận? Cho nên, sau nhiều thế kỷ thử nghiệm, cuối cùng khoa Tử Bình đã bỏ việc dùng thần sát để hỗ trợ việc đoán vận. Các thầy Tử Bình có đề cập (đến thần sát) cũng chỉ là nói cho qua vậy thôi…”

Nay tôi xin bổ túc ý kiến. Cái lý của việc bỏ thần sát trong Tử Bình rất dễ hiểu: Ngày và năm không có cách gì liên kết được với nhau. Dựa trên lý của can chi, chúng ta có thể nói tháng là thành phần của năm, cùng lý có thể nói giờ là thành phần của ngày; nhưng ngày là gì của tháng thì thật mơ hồ, ngày là gì của năm càng mơ hồ hơn nữa. Thành thử một khi chọn ngày là trụ “ta” thì khoa Tử Bình buộc lòng phải bỏ thần sát, hoặc đặt ra những thần sát mới thuộc ngày. Có thể kết luận rằng phép dùng thần sát trong Tử Bình hiện đại là một bài toán hết sức lọng cọng.

Quay lại Tử Vi và tập trung vào phái phi tinh. Xin bắt đầu với hai câu đăng to (to hơn cả tên tác giả) ngoài bìa sách “Đẩu Số tứ hóa thâm nhập” (Tạ Vũ Đằng, Vũ Lăng, Đài Bắc 1995):

“Đẩu số dụng thần vi tứ hóa

“Tinh phùng tứ hóa hiện cát hung

Hai câu này có thể gọi là hai câu thiệu mà các học viên mới của phái phi tinh phải thuộc nằm lòng. Các độc giả quen thuộc với Tử Bình khỏi cần giải thích, còn các độc giả không quen thuộc với Tử Bình tôi xin tóm gọn ý hai câu thiệu này là “Tứ hóa của Tử Vi y như dụng thần của Tử Bình”. Một khi chấp nhận sự thật là trong khoa Tử Bình dụng thần quyết định hết cả (các phái đa số dùng “dụng thần” thôi, các phái thiểu số như manh phái thì có khác) thì ta hiểu ý của các bậc đại sư phi tinh qua hai câu này cho chúng ta biết rằng trong Tử Vi tứ hóa quyết định hết cả.

Nhưng “tứ hóa quyết định hết cả” như thế nào? Tử Bình dụng thần tác dụng lên năm tháng ngày giờ sinh, thì Tử Vi tứ hóa tác dụng lên thập bát phi tinh (tức 14 chính tinh và Xương Khúc Tả Hữu). Từ lý so sánh một khi thấy Tử Bình bỏ thần sát thì thật khó thấy lý do tại sao Tử Vi lại dùng thần sát. Cường điệu hơn, vì Tử Bình chỉ có thể dùng tứ trụ thì Tử Vi cũng chỉ có thể dùng thập bát phi tinh.

Cái lý tại sao nhiều đại sư phi tinh bỏ thần sát không xem chỉ giản dị như thế! Lý thì giản dị như mạng lưới mỏng mà thật khó thoát ra.

Xin đưa ngay một thí dụ từ trang 60-61 sách “Đẩu số tứ hóa thâm nhập” đã dẫn trên, để thấy cách xem phi tinh hoàn toàn không đề cập đến thần sát:

Số: Nam mệnh, năm Mậu Tuất (1958), âm lịch ngày 17 tháng 11 giờ Thìn (ai rảnh để hộ số này lên, mệnh cư Canh Thân có Phá Khúc).

Sự thật: Năm Canh Thân (1980), 23 tuổi, trong quân đội phạm quân pháp, bị xử tội hình 1 năm 10 tháng.

Tạ Vũ Đằng luận (dịch nguyên văn): Đại hạn phụ mẫu Hợi bị sinh niên Kị (vdtt chú: tức Kị của năm sinh) xung, đại hạn quan lộc Giáp Dần Thái Dương hóa Kị nhập bản tật (vdtt chú: tức cung tật nguyên thủy) xung bản phụ, lưu niên 23 tuổi năm Canh Thân chạy đến nhập cung bản mệnh, lưu niên phụ mẫu bị xung (vdtt chú: tức bị Thái Dương Kị xung), nên phạm quan tư.

Yếu tố quyết định là luận đoán chính xác

Mấy mươi năm tôi vật lộn với khoa Tử Vi, nghĩ lại thấy vấn đề vẫn là làm sao luận đoán cho chính xác; bởi nếu Tử Vi không có khả năng luận đoán chính xác thì chẳng ai xem Tử Vi làm gì.

Nhưng Tử Vi có một vấn đề rất đặc biệt so với nhiều môn huyền học khác là cùng một lá số có thể có rất nhiều cách luận. Lối giải quyết thông thường là phối hợp các cách với nhau, nhưng khi gặp hai cách cho kết luận mâu thuẫn nhau, như một bảo “thành công” một bảo “thất bại” thì phải làm sao đây? Có câu nói “Tử Vi dễ học khó tinh” (Tử Vi dị học nan tinh) chính là vì như thế. Và cũng vì như thế mà người coi Tử Vi được chia thành đẳng cấp, đại khái gồm có mới học, sơ cấp, trung cấp, cao cấp, rồi trên hết là đại sư (bậc thầy).

Tôi xin nói một chút về đẳng cấp bằng thí dụ có thật là trường hợp đại sư Tử Vân của Đài Loan. Ông Tử Vân sở dĩ vang danh đại sư vì, theo những giai thoại được kể lại, ông đã bị nhiều thầy bói và người nghiên cứu thuộc hàng cao thủ mang những lá số kỳ cục, thậm chí quái đản, đến thách thức rồi vì ông đoán đúng mà xin làm học trò của ông. Cũng theo giai thoại, lại có những người có gốc khoa học chẳng tin bói toán cuối cùng phải bái phục ông vì ông dùng Tử Vi xem chuyện hãng xưởng của họ đúng mồn một.

Tôi lấy đại sư Tử Vân làm thí dụ chẳng phải vì muốn tuyên dương ông, mà vì sau mười mấy năm nghiên cứu hơn mười quyển sách của ông, kết luận của tôi là nếu không có “cảm ứng” phù hợp thì đừng hòng áp dụng cách xem của ông đến nơi đến chốn. Nói nôm na hơn, dù chuyên tâm học cách xem của đại sư Tử Vân, chưa chắc áp dụng được lối xem của Tử Vân mà đạt kết quả chính xác. Đây chẳng phải là tôi bi quan võ đoán, vì ngay trong các sách của ông có ghi rõ, rất nhiều lá số được đưa lên chỉ vì những học viên cao cấp của ông chẳng biết phải đoán như thế nào cho đúng.

Nhưng phải truyền lại được cho đời sau

Khi tôi viết những dòng này thì phái Tử Vân đã chuyển sang “quái tượng” là một lối xem hoàn toàn mới, xa lìa cái nền có sẵn của khoa Tử Vi. Như tôi đã trình bày trong message 1, đây là một lý do khiến tôi quay trở lại và nghiên cứu phép phi tinh. Với tôi quyết định này đến đột ngột như một cơn động đất, bởi khi ấy tôi chợt giật mình hiểu ra rằng những cách xem như của ông Tử Vân, dù chính xác bao nhiêu đi nữa cũng có một vấn đề hết sức to lớn là lệ thuộc vào quá nhiều yếu tố chồng chéo lên nhau, thành thử quá phức tạp, người khác thấy quá khó hiểu. Cứ theo những gì ghi lại trong các sách của ông Tử Vân thì cách xem của ông hình như không còn đệ tử nào của ông hiểu thấu (theo tôi nhớ có một người có nhiều triển vọng hiểu thấu nhưng đã mất sớm, người khác được ông Tử Vân đặt nhiều kỳ vọng là ông Liễu Vô cư sĩ thì giữa đường lại bỏ ông Tử Vân mà đi theo lối khác). Nghĩa là dù ông Tử Vân hết lòng truyền thụ, cái học của ông có thể vẫn thất truyền, như ông sư mật tông chết đi mà không có học trò đủ công lực để tiếp tục con đường của mình vậy.

Với chủ trương “Tử Vi hoàn toàn khoa học” tôi muốn tìm một cách xem có đặc tính như kiến thức khoa học, mà muốn như kiến thức khoa học thì cách xem ấy phải có thể được người bình thường như tôi chẳng hạn truyền lại cho đời sau học hiểu. Sau khi “chịu thua” cách xem của ông Tử Vân, khi đọc lại sách phi tinh đây chính là trọng điểm mà tôi tìm kiếm.

Xin ghi lại hai câu thiệu của phái phi tinh đã ghi trong message 1:

“Đẩu số dụng thần vi tứ hóa

“Tinh phùng tứ hóa hiện cát hung.

Trước đây hai câu này khiến tôi phản cảm, vì chúng ám chỉ rằng phái phi tinh hoàn toàn không cần biết gì đến hơn trăm thần sát của khoa Tử Vi. Nhưng lúc ấy tôi vừa lìa bỏ cách xem phức tạp của ông Tử Vân thành thử hai câu này bỗng dưng với tôi có một ý nghĩa hoàn toàn mới, nếu không muốn nói là hết sức hấp dẫn.

Tôi muốn hỏi: “Có thật là giản dị như thế không?” vì nếu thật thì chỉ dùng tứ hóa tôi có thể đoán cát hung, tức là luận tốt xấu thành bại. Dĩ nhiên chính xác là tiêu chuẩn quyết định, nhưng giả như cách xem này có độ chính xác chấp nhận được thì chẳng phải là nó đã thỏa tiêu chuẩn Tử Vi hoàn toàn khoa học hay sao?

Đọc đến đây một số độc giả có lẽ sẽ bất mãn vì tôi đã từng cho là phái phi tinh “không chấp nhận được” vì họ bỏ thần sát, sao giờ lại có vẻ chấp nhận? Sự thực là tôi không hề chấp nhận bỏ thần sát, nhưng gốc kỹ sư dạy tôi rằng nếu đòi giải quyết hai vấn đề cùng một lúc thì thường chẳng giải quyết được vấn đề nào cả. Tôi muốn xét vấn đề thứ nhất cho xong đã, rồi sẽ đến vấn đề thứ hai.

Vấn đề Tuần Triệt và một khám phá bất ngờ

Trước khi tiếp tục, thiết tưởng cần trình bày một khám phá của tôi, có thể nói là một khám phá tâm đắc của tôi về khoa Tử Vi. Khám phá này bắt đầu với những cọ xát và động não liên tiếp khi đọc sách dạy Tử Vi của các bậc đại sư trong thời gian tôi còn ở Đài Loan, nhưng lấn cấn kéo dài mãi đến hai năm trước đây tôi mới có đáp án tối hậu.

Tôi xin bắt đầu với vấn đề nặng kí nhất là Tuần Triệt. Tôi lớn lên với Tử Vi Việt dĩ nhiên cho rằng Tuần Triệt là hai yếu tố quyết định của lá số Tử Vi. Tôi cũng đã từng gặp nhiều người dùng Tuần Triệt luận ra những kết quả cực kỳ chính xác. Xin khẳng định rằng trong đời nghiên cứu của tôi Tuần Triệt là vấn đề đã khiến tôi phải bỏ rất nhiều thời gian và công sức, mặc dù phải nhìn nhận là đến bây giờ vẫn chưa có đáp án hoàn toàn thỏa đáng.

Bởi chú tâm đến Tuần Triệt như thế, khi đọc sách Tử Vi Đài Loan tôi sửng sốt khi biết các đại sư đa số đều bỏ Tuần Triệt không xem. Khởi đầu tôi nghĩ vì xem Tuần Triệt là đòn tối hậu của cao thủ Tử Vi, nên họ giữ lại để dạy cho người thân mà thôi. Tức là họ dấu nghề! Nhưng sau khi đọc khá nhiều sách, nhất là sau khi nghiên cứu chuyên sâu 11 quyển sách của đại sư Tử Vân thì tôi buộc lòng nhìn nhận sự thật là quả thật nhiều cao thủ Tử Vi của Đài Loan đã bỏ hẳn Tuần Triệt, chẳng phải dấu nghề gì cả, và trường hợp ông Tử Vân là một chứng cớ rành rành.

Vậy thì chắc chắn phải có một bên đúng một bên sai chăng? Trước đương nhiên tôi nghĩ như thế, và dĩ nhiên tôi cho rằng Tử Vi Việt đúng Tử Vi Đài sai. Nhưng sau hơn mười năm nghiên cứu khá sâu và có thể nói là hiểu Tử Vi Đài Loan khá rõ, câu trả lời của tôi bây giờ lại là: “Chưa chắc có người sai kẻ đúng. Rất có thể hai bên cùng có lý cả!”

Để giải thích quan điểm khá ngang tai này tôi xin so sánh Tử Vi như một tòa biệt thự kiến trúc cổ phức tạp, cùng lúc có mấy nhà khảo cổ quan sát từ xa, nhưng từ những góc cạnh khác nhau. Vì góc nhìn khác nhau, khi kiếm cách vào trong tòa biệt thự ấy mỗi người sẽ theo một con đường khác nhau. Người theo đường A thấy một lối vào bí hiểm, tất nhiên chọn nó vì không thấy cách nào khác; người theo đường B không gặp lối vào bí hiểm đó vì tự nhiên thấy một lối vào khác, cũng rất khó khăn nhưng không bí hiểm như đường A.

Ý tôi muốn so sánh Tử Vi Việt với đường A, Tử Vi Đài với đường B. Mặc dù hai bên khởi đầu cùng như nhau cả (nhiều sách cũ ở Đài Loan vẫn an Tuần Triệt), nhưng vì một tình cờ của lịch sử Tử Vi Đài quyết định cho tứ Hoá đóng vai trò áp đảo trên lá số Tử Vi. Đây là một khác biệt hết sức to lớn so với Tử Vi Việt bởi mặc dù Tử Vi Việt không coi thường tứ Hóa, nhưng bảo là coi trọng tứ Hóa thì không đúng. (Chú: Tử Vi Việt đây ý tôi nói là Tử Vi theo các sách Vân Đằng Thái Thứ Lang, Song An Đỗ Văn Lưu, Thiên Lương, phú Lê Quý Đôn v.v…, tôi không biết gì đến các phái mật truyền không lộ đòn ra ngoài của đất nước ta nên những điều này không ám chỉ họ).

Hãy ví tứ Hóa trong Tử Vi Đài như bốn con hổ. Rừng có lắm hổ chỉ thêm đại loạn, nên Lộc Quyền Khoa Kị được Tử Vi Đài tăng lên cấp hổ rồi thì hai con hổ già Tuần Triệt bị mất chỗ đứng; bỏ chúng đi hay không thì phải quyết định sau, nhưng chẳng có lý do gì để cho chúng đóng vai trò áp đảo nữa. Thành thử nhờ cho tứ Hóa vai trò áp đảo mà Tử Vi Đài đã lần hồi loại Tuần Triệt ra khỏi cách xem số Tử Vi.

Kiếp Không cũng là hai con hổ mất uy

Ngay sau Tuần Triệt là vấn đề Không Kiếp. Quen với sách Tử Vi Việt, tôi cứ nghĩ gặp Không Kiếp thì xấu lắm; nên một lần nữa tôi sửng sốt khi khám phá rằng Tử Vi Đài Loan chẳng cho Không Kiếp vai trò phá hoại quan trọng như Tử Vi Việt, và sau khi đọc nhiều sách của Tử Vi Đài tôi buộc lòng kết luận rằng đây cũng chẳng phải là dấu nghề, mà quả thật họ xem như vậy.

Một lần nữa, ý kiến của tôi về Không Kiếp y hệt trường hợp Tuần Triệt. Tử Vi ta và Tử Vi Đài nhìn Không Kiếp khác nhau không phải là vấn đề tôi đúng anh sai mà là cùng một biệt thự Tử Vi có hai lối vào khác nhau, nên khi gặp chuyện tất nhiên phải dùng những đòn khác nhau để đối phó, thậm chí kết quả hoặc hậu quả cũng khác nhau.

Đã nói đến Không Kiếp thì tôi không thể không đề cập đến lá số của một người phi thường có vị trí vĩ đại trong lịch sử Trung Hoa, được cả Tưởng lẫn Mao trọng vọng, tức vị cha già của dân tộc Trung Hoa, ông Tôn Dật Tiên.

Nếu có thể được xin vị nào đó bỏ dùm lá số ông Tôn Dật Tiên lên, đây là lá số có bằng là giấy khai sinh do thầy bát tự ghi lại hiện vẫn còn, không phải hư cấu:

Sinh năm Bính Dần 1866, ngày 6 tháng 10 âm lịch, giờ Dần.

Tôn Trung Sơn

Khác biệt Việt Đài khi xem số Tôn Dật Tiên (TDT)

Trước hết bàn cách cục:

Với Tử Vi Việt, lá số này rất đặc biệt vì ông TDT sinh tháng 10, là cách mệnh Không thân Kiếp, một cách bị coi là rất đáng sợ trong Tử Vi Việt. (Mười mấy năm gần đây tôi đọc trên mạng chữ Việt thấy có người bảo –và thỉnh thoảng được người khác lập lại- rằng sinh tháng 10 thì được Không Kiếp “miễn” cho, tức là không bị chúng hành hạ. Đây quả là một khuynh hướng mới, có lẽ được xiển dương bởi một vị nào đó đã xem số nhiều người sinh tháng 10 mà chẳng thấy Không Kiếp hành hạ họ gì cả. Tôi xin thưa rằng, nếu đã trọng cách xem của Tử Vi Việt thì đây là một lý vá víu, chẳng nên theo; bởi phải sinh 10 mới bị cách “Mệnh Không thân Kiếp”, nếu chính vì sinh tháng 10 lại được hai hung thần này miễn cho thì cách “Mệnh Không thân Kiếp” còn gì đáng sợ nữa? Bỏ nó đi cho rồi!)

Ông TDT đắc song Lộc nên có thành tựu, Mệnh Không thân Kiếp, thân lại cư quan nên phải luận là ông có khuynh hướng hành động nhanh nhẹn, thành ít bại nhiều, đặc biệt trong sự nghiệp khó thành tựu lâu bền. Chú ý rằng mệnh ông TDT có hóa Lộc, thân cư quan có hóa Quyền; nhưng vì cách xem Việt không cho tứ hóa vị trí áp đảo, nên chỉ có thể kết luận là có thành đạt nhưng không lâu bền.

Nếu xem bằng cách Đài Loan thì vì đắc song Lộc, thêm mệnh có Lộc (tương đối đúng chỗ), thân có Quyền (đúng chỗ) nên đây là một lá số có thành tựu rất đáng kể, nhưng vì chính tinh Đồng ở Dậu, Cơ ở Sửu đều hãm nên thành tựu không lâu bền. Ngoài ra, vì cặp Không Kiếp tề tựu ở mệnh quan nên đời sống và sự nghiệp có tính gập ghềnh, ngay khi thành công cũng rất dễ có vấn đề, tóm lại không thể nào thông suốt được.

Xem ra cả hai cách luận đều ra kết quả khá giống nhau, và đều đúng cả. Nhưng cách xem của Đài vì cho tứ Hóa vị trí áp đảo DỄ đoán ra mức độ thành công lớn mà ông TDT đạt được. Cách xem Việt KHÓ luận ra sự thật này. (Chú ý: hai tĩnh từ DỄ, KHÓ hoàn toàn bằng chữ in để nhấn mạnh).

(Chú: Đây tôi xin nói một chút về câu “chính tinh hãm đáo Quyền Lộc quang vinh” mà tôi đặt ra khi còn làm việc ở Đài Loan. Theo cách luận này thì Đồng, Cơ hãm chẳng những không làm cho cách cục giảm đi như cách luận của Tử Vi Đài Loan, trái lại còn khiến cho cách to hơn, thành tựu dễ lớn hơn. Cách xem này đúng nhất trong trường hợp ông TDT nhưng nó chẳng chứng minh được gì cả. Chẳng phải là tôi khiêm nhượng, mà vì lá số TDT là một dữ kiện tôi dựa vào để đặt ra câu này sau khi đọc kỹ các cách liên hệ đến Lộc Quyền của Cự, Đồng hãm địa trong sách Vân Đằng Thái Thứ Lang).

Kế tiếp, luận hạn thì Tử Vi Đài thấy ngay Tân Sửu là hạn đặc biệt, có thành công to vì gặp lại Quyền Lộc nguyên thủy, hạn Lộc Quyền lại ở trục quan lộc – thê thiếp của hạn, nhưng vì gặp Không Kiếp nên thành tựu khó mà giữ được. Còn theo Tử Vi Việt thì vì số mệnh Không thân Kiếp, hạn lại bị Kiếp Không hội họp (hạn Kiếp hội Không) tất nhiên là hạn gặp rất nhiều khó khăn, nếu có lên thì phải có xuống.

Sự thật: Hạn Tân Sửu bắt đầu năm 1911 chính là năm cách mạng Tân Hợi, ông TDT vinh quang về nước được tôn làm đại tổng thống (ngày 1 tháng 1 năm 1912, tức Trung Hoa Dân Quốc năm thứ nhất, âm lịch vẫn là năm Tân Hợi). Đến tháng 3, tức đầu năm âm lịch Nhâm Tí, thì chức này đã mất vào tay Viên Thế Khải, rồi năm 1913 phải lưu vong, sau khi họ Viên xưng làm vua, bị phản đối uất ức chết đi ông TDT mới về nước. Những năm còn lại trong đại hạn này đời ông TDT vẫn là chuỗi dài lên voi xuống chó, nhưng hai năm 1918-19 ông đã hoàn thành kiệt tác “tam dân chủ nghĩa”. Tóm lại là một đại hạn có thành tựu to tát, nhưng lên xuống gập ghềnh.

Thành ra, xét thoáng qua thì thấy hai cách xem hạn đều đúng. Nhưng cách xem của Đài Loan DỄ luận ra là thành tựu của ông TDT ở cấp “to”, còn cách xem của Việt Nam (mà tôi quen thuộc) thì KHÓ mà luận ra rằng ông TDT thành tựu ở cấp to. (Chú ý: Hai tĩnh từ DỄ, KHÓ hoàn toàn bằng chữ in để nhấn mạnh).

Thành thử, tôi nhận ra một điều hết sức quan trọng mà tôi đã dùng chữ in để độc giả chú ý; đó là dùng lối xem Việt KHÓ mà đoán chính xác bằng lối xem Đài Loan cho lá số này.

Cái KHÓ này của Tử Vi Việt phải chăng đặc thù với lá số TDT? Tôi xin trả lời là không phải, mà cái KHÓ này là bản chất của Tử Vi Việt, và lý do chính yếu –theo tôi- là không chịu cho tứ Hóa vai trò áp đảo trong việc định thành bại, nên phải phối hợp rất nhiều dữ kiện lại rồi mới kết luận được, mà muốn phối hợp càng nhiều dữ kiện cho chính xác thì càng phải có nhiều kinh nghiệm thực chiến, và ai cũng biết muốn có kinh nghiệm thực chiến trong một “nghề tay trái” như Tử Vi thật chẳng phải chuyện dễ dàng.

Vậy thì nên chọn lối xem nào?

Độc giả có thể đoán được là nếu cho tôi chọn giữa hai cách xem, một là cách xem Việt (mà tôi biết thôi, không phải là những cách xem siêu đẳng nhưng bí mật chẳng bao giờ tiết lộ ra ngoài) hai là cách xem Đài, thì tôi sẽ chọn cách xem Đài. Đây chính là lý do khiến tôi bỏ công sức nghiên cứu chồng sách Tử Vân hơn mười năm.

Viết đến đây tôi thấy có nhu cầu tự biện hộ cho mình, vì rất có thể một số độc giả sẽ lên án tôi là “phản quốc”, “làm nô lệ cho ngoại bang” v.v… (Còn may Đài Loan và Trung Cộng hiện là hai phe đối nghịch, bằng không tôi bị lên án là “cam tâm làm nô lệ cho bọn Tàu phù” thì thật là nguy hiểm).

Lời biện hộ của tôi rất giản dị: Tôi xem Tử Vi là một môn khoa học, không phải là một quyển gia phả. Khoa học không phải là tài sản của một quốc gia, mà là tài sản của toàn thể nhân loại. Là người trọng khoa học, tôi muốn học những kiến thức ở cấp tốt nhất, cao nhất của Tử Vi; và hy vọng tự mình có thể đóng góp những kiến thức Tử Vi ở cấp tốt nhất, cao nhất cho toàn thể nhân loại được hưởng.

Tóm lược những bước đi trên đường nghiên cứu cách xem Tử Vi của tôi

Tóm lược lại hoàn cảnh. Sau khi có khá nhiều cơ hội so sánh tại chỗ, tôi thấy Tử Vi Việt khó xem hơn Tử Vi Đài vì thế tôi cố học Tử Vi Đài cho đến nơi đến chốn. Trong nỗ lực ấy tôi quyết định nghiên cứu trường phái Tử Vi Đài tôi nghĩ là khoa học hơn cả, tức Tử Vi theo phái Tử Vân. Mặc dù cách xem của phái Tử Vân càng ngày càng phức tạp, nhưng cho đến năm 2012 vẫn tương đối xem được, mặc dù còn vài vấn nạn chưa được giải quyết ổn thỏa.

Chẳng ngờ từ năm 2013 trong loạt sách mới phái Tử Vân thay đổi toàn bộ, vận dụng một cách xem mới gọi là “quái tượng”. Cách này không những phức tạp hơn cách cũ, và có lẽ phức tạp hơn cả Tử Vi Việt, mà còn đi quá xa ra ngoài cơ sở của khoa Tử Vi (định lại vòng chính tinh, tùy theo tứ hóa của năm tháng ngày giờ sinh). Sự thật này khiến tôi bắt buộc có một quyết định khó khăn là tối thiểu tạm thời phải bỏ phái Tử Vân mà đi. (Chú: Bỏ cách xem mới thôi. Không phủ nhận giá trị của cách xem cũ).

Vì cách xem “quái tượng” cũng gây ra cảnh “tứ hóa bay đầy trời” chẳng thua gì cách xem của phái phi tinh, tôi quyết định trở lại với các sách phi tinh, nhưng lần này với ý nghiên cứu chuyên sâu.

Phát hiện bất ngờ: Phi tinh là cách xem hạn hoàn chỉnh hơn Tử Vi Đài Cảng

Trước đây thấy “tứ hóa bay đầy trời” tôi đã chán, nên chẳng nghiên cứu chuyên sâu phái phi tinh, chỉ là thấy sách thì mua, có sách thì học cho biết, để lỡ có ai mở miệng nói về phái phi tinh thì tôi biết đâu là thực đâu là giả, và có khả năng thẩm thấu kiến thức mới, thế thôi. Khi trở lại làm việc nghiên cứu chuyên sâu, tôi phân tích kỹ càng hơn các chi tiết, cố định giá mỗi lý luận của phái này.

Thật đáng sợ cho cái thành kiến sai lầm của con người! Trong trường hợp này là thành kiến sai lầm của chính tôi! Bởi chỉ sau hơn một tháng bình tâm đọc kỹ tôi đã giật mình nhận ra là phái phi tinh không đến nỗi “vớ vẩn” như tôi đã tưởng chắc trước đó.

Nhưng nhờ đọc mọi bài kỹ hơn, tôi khẳng định được một điều là trong các phái phi tinh, việc dùng thần sát là ngoại lệ, quy luật là không dùng thần sát. Chẳng hạn, quyển “Cửu Thiên phi tinh” (tác giả Cửu Thiên, nxb Vũ Lăng, Đài Bắc 2012) đề rõ trong trang 27, tôi xin dịch nghĩa như sau:

Tử vi phi tinh chủ yếu vận dụng 14 chính tinh… (liệt kê tên 14 chính tinh, không dịch vì không cần thiết)… , thêm 4 sao phụ: Văn Khúc, Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương; rồi thêm tứ Hóa Lộc, Quyền, Khoa, và Kị. Dùng phi tinh luận mệnh thế là đầy đủ.

“Kỳ dư lưỡng cát tứ sát, Địa Không, Địa Kiếp, Lộc Tồn, Thiên Mã, tất cả các sao cấp Ất, Bính, Đinh, thân chủ mệnh chủ, thậm chí cả cung thân v.v… đều không luận tới. Nếu quý vị có hứng thì có thể tham khảo các tác phẩm của phái tam hợp, nhưng khi phối hợp cần cẩn thận, vì hai bên kết cấu có phân biệt, các chương sau sẽ bàn vào chi tiết.”

Theo lời ghi trong sách thì ông Cửu Thiên là thạc sĩ khoa học và điện não, từng là giảng sư Đại Học Khoa Kỹ và Đại Học Mở của Hồng Kông. Sau quyết định làm “thầy” huyền học, khi sách ra đời là thầy nổi danh, hoạt động ở cả ba vùng Đài Cảng Lục, chuyên tâm nghiên cứu phong thủy, Tử Vi phi tinh, mai hoa dịch số, tính danh học, nhân tướng học v.v… tóm lại ông quyết định bất chấp thần sát chẳng phải là vì ông thất học nên chẳng biết gì. Tôi đã suy ra lý do tại sao phái phi tinh bất chấp thần sát, lý này tôi đã trình bày trong bài 2, quý vị nào chưa đọc bài này xin tìm nó mà đọc sẽ hiện. Nhưng tôi không tin rằng đây là vấn đề đã đóng. Xin trở lại sau.

Điểm chính là, hai câu trên của ông Cửu Thiên là lời gián tiếp khẳng định rằng muốn xem cát hung thành bại chẳng cần biết đến thần sát, chỉ cần luận tứ Hóa là đủ. Với tôi, đây là một tin chấn động. Nếu nó sai chẳng kể làm gì, nhưng nếu nó đúng thì cách xem cát hung thành bại của Tử Vi Việt đúng là tự hành hạ mình, vì dù cách xem cát hung thành bại của phi tinh phức tạp đến thế nào chăng nữa, chỉ cần đếm số thần sát cũng biết ngay chắc chắn phải giản dị hơn cách xem của Tử Vi Việt.

Còn Tử Vi Đài thì sao? Nghiên cứu thêm, tôi bây giờ có thể khẳng định rằng cách dùng tứ hóa luận hạn của Tử Vi Đài, tối thiểu trên lý khoa học, chẳng gì khác hơn là một ứng dụng của phép phi tinh vào lối xem tam hợp cũ (có thể gọi là lối xem của Tử Vi Việt nếu muốn). Sự thật là tôi không nhìn ra hiện tượng này trong lần đầu đọc các sách phi tinh, bây giờ nghĩ lại là vì bị các thần sát làm mờ mắt.

Nhưng cách luận hạn của Tử Vi Đài chỉ là một ứng dụng nửa chừng, không phải là tất cả của phép phi tinh. Vấn đề này tôi sẽ vào chi tiết sau.

Hóa ra, nhờ “bỏ cuộc” chồng sách mới của ông Tử Vân tôi đã tìm ra đáp án cho nửa đầu của bài toán xem hạn Tử Vi, tức là luận làm sao cho ra cát hung thành bại. Vì giản dị là ước mong, chính xác là tiêu chuẩn tối hậu, đáp án ấy là áp dụng cách luận hạn của phái phi tinh xem có chính xác không. Nếu thấy không chính xác thì dĩ nhiên phải “tắt đèn làm lại”, nhưng nếu thấy đủ chính xác thì phải tìm lý luận để giải quyết nửa sau của bài toán luận hạn, đó là xác định vai trò mới của các sao thần sát.

Để quý độc giả dễ so sánh, tôi xin luận vài đại hạn bằng ba cách Việt, Đài, và phi tinh. Việt theo cái học sách vở thiếu sót của tôi, Đài là theo cái tinh hoa tôi học được của Tử Vi Đài Loan, phi tinh là theo cái tôi học được trong thời gian nghiên cứu chuyên sâu hai năm trở lại đây và hiện vẫn đồng ý.

Đại hạn Đinh Dậu 6-15 tuổi:

Sự thật: Năm 13 tuổi (Mậu Dần) sang Haiwaii ở chung với người anh ruột có cơ sở làm ăn ở đó. Nhờ vậy được học hỏi văn minh, khoa học tây phương, lại thấy Haiwaii bị Mỹ chiếm nên nẩy ra ý muốn chống lại cường quyền bạo lực, thành cái nhân đấu tranh chống triều đình nhà Thanh sau này.

(Chú: Sở dĩ nói chuyện xuất ngoại vì mệnh cư Dậu có Đồng gặp Âm là sao động hãm xung chiếu, cách cục nguyên thủy đã ứng chuyện xuất ngoại).

Việt luận: Hạn có song Lộc, Quyền, Tả Hữu, Khôi (hoặc Việt, tùy cách an), Hỏa Linh nói chung tốt và nhiều tính động, nhưng vì thành cách Tả Hữu Không Kiếp chỉ tốt nếu hành động vì người khác, không phải cho mình. Đặc biệt hạn di có Âm hãm địa, với những cách tốt kể trên, có cơ hội đi xa tốt đẹp (Chú: cách này không mạnh lắm, phải đoán hơi liều mới ra).

Năm đi xa: Tôi chủ trương xem cả tiểu hạn lẫn Thái Tuế nếu có thời giờ suy ngẫm, còn như nếu vội vàng thì chỉ xem Thái Tuế thôi (Tiểu hạn là ta làm, Thái Tuế là trời cho, trởi thường thắng người). Nam mệnh Tiểu hạn và Thái Tuế luôn luôn ở thế đối nghịch. Nữ mệnh cách năm, năm này đối nghịch thì năm sau trợ giúp và ngược lại.

Ông TDT nam mệnh, tuổi tứ mã nên tiểu hạn đi trước Tuế 2 cung, như năm Dần thì tiểu hạn ở Thìn.

Xem theo tiểu hạn thì năm 10-12 tuổi (10 vì nhập quan ở Sửu có Cơ là sao động, 11 nhập tứ mã địa ở Dần có Tử Phủ Vũ Tướng diệu dụng Kị Hình thêm Mã xung chiếu, 12 vì nhập di gặp Âm Hỏa đều có tính động mạnh).

Xem theo Thái Tuế (lưu niên) thì năm 12-14 tuổi. Lý như tiểu hạn sau khi cộng thêm 2 tuổi. (Ngoài ra một năm khác có thể xảy ra là năm 7 tuổi nhập cung Thân, trong cung có Mã, nhưng xác xuất nhỏ hơn vì còn bé quá).

Đài luận: Dùng tứ hóa của cung nhập đại hạn (như số ông TDT hạn đầu là Đinh Dậu nên dùng tứ hóa của can Đinh)rồi phối hợp với các thần sát trong tam hợp mà luận. Theo phái Tử Vân ngoài ảnh hưởng trên các cung hạn ra, phải xem hạn hóa ảnh hưởng như thế nào trên cách cục nguyên thủy.

Về tứ hóa nguyên thủy ông Liễu Vô cư sĩ chủ trương “mệnh vận phân ly” nên không xem. Tôi vẫn xem, lại coi là tiên quyết, tức là nếu hạn hóa đấu với hóa nguyên thủy thì hóa nguyên thủy thắng, dĩ nhiên khi phải đấu tranh thì cái hay cũng có tì vết rồi.

Cách cục tốt (như Việt luận) hạn lại là Đinh (Nguyệt Đồng Cơ Cự) rõ là dễ có cách đi xa tốt đẹp. Không Kiếp đây chỉ khiến mọi việc không hoàn toàn đúng ý, nhưng cũng chẳng thể kể là xấu. Coi là có chút gập ghềnh mà thôi.

Năm đi xa: Như Việt luận, nhưng xem theo Thái Tuế, không xem theo tiểu hạn. (Chú: Vẫn có vài phái ở Đài Loan dùng tiểu hạn, nhưng là thiểu số rất nhỏ. Cách định cung tiểu hạn dĩ nhiên y hệt Tử Vi Việt).

Phi tinh luận:Về cơ sở phép phi tinh khi xem đại hạn không chỉ dùng hóa của hạn mệnh, mà còn dùng hóa của hạn tài và hạn quan; nhưng chỉ tìm tín hiệu ở một số cứ điểm đặc biệt, nhất là mệnh tài quan nguyên thủy và các cung xung chiếu. (Sâu thêm một bước lại tùy theo việc muốn xem mà vận dụng các cung hóa phù hợp, bước sâu này xin phép không giải thích ở đây).

Hạn mệnh tứ Hóa (Đinh Nguyệt Đồng Cơ Cự), hạn tài (Quý Phá Cự Âm Tham), hạn quan (Tân Cự Nhật Khúc Xương). Theo hạn mệnh tứ Hóa đoán là dễ có cách đi xa tốt đẹp, giống như Đài luận. Cả ba cung hóa đều hiện ra Cự. Cự là phe phản đối triều đình, mầm đấu tranh đã manh nha (mệnh Kị) và được nuôi dưỡng rối (tài Quyền quan Lộc).

Năm xuất ngoại: 13 hoặc 14 tuổi, nhưng 13 tuổi xác xuất cao hơn vì 1) ở tứ mã địa lại đến trước 14 tuổi 2) có Xương hạn quan Kị xung 3) cung can Canh khiến chính tinh cư mệnh là Đồng hóa Kị (Chú: Tôi xem cả cung can lẫn can Thái Tuế, nhưng trường hợp này can Thái Tuế là Mậu ảnh hưởng không rõ ràng). Năm 14 tuổi có xác xuất vì nhập đại hạn di, gặp Âm là sao ứng động lại được hạn hóa Lộc. Tóm lại không đi năm 13 tuổi thì cũng đi năm 14 tuổi.

Nhận xét: Cả ba cách xem đều có thể đoán được chuyện xuất ngoại. Nhưng hai cách Đài và phi tinh rõ nét hơn Việt, và phi tinh rõ nét hơn Đài.

Về năm đi xa (tức năm 13 tuổi) cả ba cách đều chấp nhận được, nhưng theo tôi phi tinh xem tốt nhất vì tín hiệu rõ nét hơn.

Đại hạn Kỷ Hợi 26-35

Sự thật: Năm 1896, 31 tuổi, ông TDT bị điệp viên bắt ở Anh rồi giam trong sứ quán Trung Hoa ở Anh, định mang về Trung Hoa xử tử. Nào ngờ chuyện lộ ra ngoài, lại được một ông thầy dạy học cũ can thiệp, sự việc đăng lên mặt báo, cuối cùng sứ quán Trung Hoa bị chính phủ Anh áp lực phải thả ông TDT ra sau 12 ngày. Chính nhờ vụ này mà tăm tiếng ông TDT nổi khắp năm châu, tên tuổi được toàn thể thế giới biết đến.

Việt luận: Đại hạn nhập Hợi gặp Nhật hãm địa có Kiếp Sát Phi Tuyệt, tam phương tứ chính có cách thập ác (Âm hãm gặp Hỏa cùng cung), Thiên Không Mộc Dục Phục Binh, có thể bị người âm mưu làm hại. Tóm lại, hạn này dưới trung bình, nhưng chi tiết thế nào thì không đoán được. Rõ ràng hơn, chẳng đoán được chuyện bị bắt suýt bị xử tử. Và vì không có chuyện đáng nói nên không bàn thêm năm ứng.

Dĩ nhiên đây là tôi xem, như đã trình bày tôi tự học Tử Vi Việt nên có thể thiếu chiều sâu. Ai có ý kiến khác tôi rất mong được lắng nghe.

Đài luận: Luận thần sát như Tử Vi Việt biết đại hạn có vấn đề. Đại hạn Kỷ (Vũ Tham Lương Khúc) kích hoạt cách “Hình Tù giáp Ấn hình trượng nan đào” coi chừng bị người ta bắt bớ, hành hạ.

Năm ứng: Năm Giáp Ngọ (1894) tuế nhập Ngọ là cung chứa cách Hình Tù giáp Ấn có thể ứng, nhưng vì năm Giáp khiến Liêm hóa Lộc làm cách Hình Tù giáp Ấn bớt xấu, nên xác xuất thấp hơn năm Bính Thân (1896) khi tuế nhập Thân, vì Bính khiến Liêm hóa Kị tăng cường sức hung hiểm của cách Hình Tù giáp Ấn. Mà bị bắt năm Thân thì có thể thoát nạn, vì Khoa nguyên thủy là sao cứu nạn nằm ngay ở đấy.

Phi tinh luận: (đoạn đầu sau đây đã viết lại cho đúng, vì trước viết là có cách Hình Tù giáp Ấn, nhưng xem theo phép phi tinh không thể có cách này.)

Hạn mệnh Kỷ (Vũ Tham Lương Khúc), hạn tài Ất (Cơ Lương Tử Nguyệt), hạn quan Tân (Cự Nhật Khúc Xương). Hạn tật ách có Liêm Kị nguyên thủy. Liêm là tù tinh, cùng cung với Tướng lại hóa Kị ứng chuyện bắt bớ giam cầm, nay Khúc cùng cung lại bị hạn mệnh hóa Kị thì tín hiệu mạnh lắm, vì “mệnh” liên hệ trực tiếp đến bản thân, phải đoán là xác xuất cao bị bắt bớ giam cầm.

Tuy nhiên, vì hạn di chứa Cự là sao hóa bản mệnh Kị bản tài Quyền, bản quan Lộc nên đây là lúc sao Cự nổi bật, đến lúc được tiếng tăm (Cự Quyền Lộc) trong cảnh kình chống bất thường (Cự Kị).

Năm ứng:

Có thể năm 1894 (Giáp Ngọ) bị bắt, nhưng với lý tương tự trường hợp Đài luận, chỉ thêm là năm Giáp Ngọ can năm là lưỡng Giáp (năm Giáp vào cung Giáp), năm Bính Thân can năm là lưỡng Bính (năm Bính vào cung Bính) lại có Xương hạn quan Kị nên cộng hưởng cực mạnh. Chưa kể là theo cách xem phi tinh khi gặp thế xấu của đại hạn tính là năm thứ nhất (Giáp Ngọ), còn phải phòng đến hết năm thứ ba (Bính Thân) mới thoát nạn.

Thành ra có thể khẳng định rằng năm 1896 (Bính Thân) là năm bị bắt. Cùng lý với Đài luận, bị bắt năm Bính Thân thì thoát nạn vì có sao cứu nạn là Khoa nguyên thủy đóng ngay đấy.

Đoán là nổi tiếng từ năm 1893 khi vào hạn di vì gặp Cự thêm can tuế và can cung đều là Quý khiến Cự hóa Quyền, nhưng đến năm 1896 thì mới thật là nổi như cồn vì có bệnh (Xương ứng bằng sắc gặp hạn quan Kị) được thuốc (Khoa nguyên thủy).

Tiếc là phần đầu đoạn này (nổi tiếng từ năm 1893) không kiểm chứng được. Nếu năm này ông TDT đã được nhiều người trong nước Trung Hoa biết đến thì đúng. Chúng ta biết rằng năm sau đó (1894) ông và một bằng hữu đưa kiến nghị dài 8 ngàn chữ lên quan lớn Lý Hồng Chương nhưng không được tiếp. (Năm 1894 dám nghĩ chuyện đưa kiến nghị lên quan lớn cấp 1 như thế thì chắc là phải tự tin lắm, nên rất có thể năm 1893 đã được quần chúng thán phục rồi. Dĩ nhiên đây chỉ là hậu đoán. Sự thật phải chờ các sử gia.)

Nhận xét: Tử Vi Việt dường như không đoán ra chuyện bị bắt trong hạn này. Tử Vi Đài đoán đúng, nhưng phi tinh chính xác hơn vì thêm cách nổi tiếng (Cự Lộc Quyền Kị) ở hạn di.

Tóm lại, hai hạn 6-15 và 26-35 phép phi tinh đều đoán đúng các diễn biến chính yếu.

Đại hạn Canh Tí 36-45

Sự thật: Nổi dậy chống nhà Thanh nhiều lần, đều thất bại cả.

Việt luận: Hạn Sát Phá Tham Mã Khốc Khách thì hăng hái bôn ba đấu tranh, nhưng hạn Phá Quân có Xương Khúc hội họp là trái cựa rồi, ngay trong hạn bị Thiên Phúc (thử thách) trấn giữ, lại bị Hình Kình Kị xung, mưu sự khó thành. May mà Khoa nguyên thủy ở tam hợp, nên nếu nguy được cứu.

Vì đại hạn không có thành tựu, chẳng cần luận năm làm gì.

Đài luận: Cách bất lợi y như Việt luận, hạn Canh (Nhật Vũ Âm Đồng) nên hạn Kị nhập bản mệnh gây bất lợi, nhưng hạn Quyền nhập phối xung quan nên không chịu thua số mệnh, nhất định làm chuyện muốn làm. Hạn Lộc hạn Khoa nhập tam hợp phúc phối di, lại là hạn Mã Khốc Khách rõ là mười năm bôn ba khổ ải nhưng gặp nhiều nhân duyên tốt đẹp.

Phi tinh luận: Hạn Sát Phá Tham thì có rất nhiều diễn biến xảy ra. Hạn mệnh lại có Phá Quân cư Tí thì hăng hái ghê gớm. Phần này y như Việt luận, Đài luận.

Nay dùng hạn hóa để luận thành bại. Hạn mệnh Canh (Nhật Vũ Âm Đồng), hạn tài Bính (Đồng Cơ Xương Liêm), hạn quan Nhâm (Lương Vi Phụ Vũ). Hạn tài Kị xung hạn mệnh, hạn quan Kị xung hạn quan; ba yếu tố mệnh tài quan bị hai bất lợi như thế thật là nghiêm trọng; còn may hạn mệnh Kị nhập bản mệnh nên sức kháng cự rất mạnh (Chú: Theo phép phi tinh, hạn Kị nhập mệnh tài quan nguyên thủy chẳng xấu vì là Kị của mình, điểm này khác với Đài luận như phái Tử Vân). Thành thử luận là mưu sự thất bại, nhưng sống còn chẳng phải là vấn đề.

Nhận xét: Cả ba cách đều đồng ý rằng hạn này bất lợi cho việc đấu tranh, nhưng sức đấu tranh rất ghê gớm. Chú ý rằng phép phi tinh cho cùng kết quả với hai phép kia mặc dù chẳng xét Mã Khốc Khách, Hình Kình v.v…

Đại hạn Tân Sửu 46-55

Sự thật:

Năm Tân Hợi 1911: Cách mạng Tân Hợi thành công, ông TDT về nước nhậm chức đại tổng thống, bắt đầu Trung Hoa Dân Quốc năm thứ nhất ngày 1-1-1912 (vẫn còn trong năm Tân Hợi).

Năm Nhâm Tí 1912: Ông TDT trong thế kẹt phải nhường chức đại tổng thống cho Viên Thế Khải. Viên Thế Khải lộng quyền.

Năm Quý Sửu 1913: Ông TDT phải lưu vong sang Nhật để khỏi bị họ Viên hãm hại.

Năm Ất Mão 1915: Bà Tống Khánh Linh trốn nhà (Thượng Hải) sang Nhật gặp ông Tôn. Ông Tôn bảo bà là đã li dị bà Lô Mộ Trinh (lấy từ năm 1885), hai bên cử hành hôn lễ. Thực ra, ông Tôn chẳng bao giờ li dị bà Lô nên cuộc hôn nhân này là một trường hợp mà Tử Vi gọi là “phạm đào hoa”.

Việt luận:Hạn Cơ hãm đắc hóa Quyền nguyên thủy, lại được Đồng hãm đắc Lộc nguyên thủy chiếu; lại là hạn song Lộc, trong cung có sẵn Tả Hữu, thật là rực rỡ. Hiềm là hạn Âm Long Trực dễ phạm sai lầm hoặc thua thiệt. Kiếp Không hãm đủ bộ hội họp e rằng thành công không giữ được, trước tốt sau xấu. Thêm Hồng Loan-Quả Tú Cô Thần càng đáng ngại. Do đó đoán là khởi đầu thành công, nhưng bị thua thiệt, không giữ được thành quả.

Xét hạn năm:

Theo tiểu hạn

Tân Hợi (1911): Nhập cung Sửu, rõ ứng. Rất tốt, nhưng vì Không Kiếp e cuối năm có biến chuyển không tốt. Quả thật cuối năm đang vừa nhậm đại tổng thống đã phải nghĩ ngay đến chuyện nhường chức này cho Viên Thế Khải để cứu vãn cách mạng.

Nhâm Tí (1912): Nhập cung Dần, bị Hình Tù giáp Ấn hóa Kị chiếu, thật không hay. May mà chính cung có Tử Phủ mạnh, lại được Khoa xung, không đến nỗi. Sự thật mất chức về tay Viên Thế Khải, nhưng chưa phải làm chuyện gì cực đoan.

Quý Sửu (1913): Nhập cung Mão, gặp Âm hãm địa, được Đồng Lộc xung, Khôi Việt là quý nhân chiếu. Âm ứng động nên nếu gặp khó khăn thì có thể cao bay xa chạy thoát thân. Sự thật là năm lưu vong tránh họa Viên Thế Khải.

Ất Mão (1915): Nhập cung Tị, cách Đồng Cự Cơ, không có tín hiệu gì đặc biệt.

Theo Thái Tuế:

Tân Hợi 1911: Vào Hợi, không có tín hiệu gì đặc biệt.

Nhâm Tí 1912: Vào Tí, bị cung xung (Ngọ) áp lực nặng nề.

Quý Sửu 1913: Vào Sửu, chính tinh Cơ nên có tính động. Vì có Không Kiếp có thể đoán phải đi xa lánh nạn.

Ất Mão 1915: Vào Mão, gặp Âm hãm hội Dương hãm Đào Hỉ Mộc Dục, có thể có chuyện đào hoa.

Phối hợp tiểu hạn và Thái Tuế có thể luận rằng:

Tân Hợi 1911: Trời cho vinh quang, rồi có vấn đề. (Đúng).

Nhâm Tí 1912: Bị áp lực nặng nề, là một năm không tốt. (Đúng).

Quý Sửu 1913: Đi xa lánh nạn. (Đúng).

Ất Mão 1915: Có chuyện đào hoa (Đúng).

Đài luận:

Cách cục y như Việt luận, nhưng thêm hạn Tân (Cự Nhật Khúc Xương). Cự Nhật nhập trục của hạn quan phối, rõ ràng có biến chuyển to lớn tốt đẹp về đường quan lộc. Tiếc là Xương ở hạn tật hóa hạn Kị, xung hạn phụ mẫu. Phụ mẫu ứng công việc, bằng sắc; Xương ứng bằng sắc tức là không có duyên với bằng sắc trong hạn này. Nếu có phải mất.

Luận các năm:

Các năm cách cục y như Việt luận, thêm các dữ kiện sau đây:

-Năm Tân Hợi 1911 (trùng can đại hạn): Cự hạn và lưu Lộc ở Tị là đại hạn quan lại là di của Tuế nên đi xa vinh quang. Xương hạn và lưu Kị ở Thân là đại hạn tật e gặp cảnh luống cuống chân tay, không thể xử cho hay được.

-Năm Nhâm Tí 1912: Lương lưu Lộc xung hạn mệnh còn tạm yên ổn, nhưng Vũ lưu Kị ở hạn tử xung hạn điền thì mầm mống loạn lạc đã rõ ràng.

-Năm Quý Sửu 1913: Phá lưu Lộc ở hạn bào làm sao kình chống nổi với Kị nguyên thủy ở cung nô xung, rõ là thế bị người ta công kích, Lộc trở thành đường chạy trốn. Tham lưu Kị ở hạn điền càng rõ là phải chạy trốn.

-Năm Ất Mão 1915: Cơ lưu Lộc ở hạn mệnh, Nguyệt lưu Kị ở hạn phúc, tín hiệu mạnh rõ là cách “đào hoa” thành hình.

Phi tinh luận:

Hạn mệnh Tân (Cự Nhật Khúc Xương), hạn tài Đinh (Nguyệt Đồng Cơ Cự), hạn quan Quý (Phá Cự Âm Tham). Ba tổ đều có Cự đúng là lúc Cự (quan lộc) nổi bật. Nhưng một trong ba hóa của Cự là hạn Kị, xung hạn phối. Kị xung phối ứng sự “vô duyên” với người hôn phối, là tín hiệu xấu cho hôn nhân. Cự lại có cả Lộc lẫn Kị kình chống nhau, thành thử từ tốt biến thành xấu.

Luận năm:

Năm Tân Hợi 1911: Nhập Hợi thấy cả ba tính của Cự ở cung xung (hạn mệnh Lộc, hạn tài Kị, hạn quan Quyền), trước huy hoàng sau có vấn đề. (Đúng).

Năm Nhâm Tí 1912: Nhập Tí gặp hạn quan hóa Lộc (Phá) tưởng tốt, nhưng lưu quan là cung ứng với quan lộc lại gặp hạn quan hóa Kị (Tham). Có quan chức khó mà giữ được vì quan lộc gặp Kị khó làm quan. Tuế can Nhâm (Lương Vi Phụ Vũ) và cung can Canh (Nhật Vũ Âm Đồng) cho biết có chuyện không tốt cho bản thân (Đồng ở bản mệnh bị Kị), có thể ứng vào chuyện mất chức.

Năm Quý Sửu 1913: Nhập Sửu là tuế hạn trùng phùng. Hạn quan và Tuế can Quý (Phá Cự Âm Tham) khiến điền bị song Kị rõ là nơi ẩn náu (điền) có vấn đề. Cung can Tân (Cự Nhật Khúc Xương) khiến Kị nhập tật của hạn và Tuế, xung phụ mẫu của hạn và Tuế, công việc hỏng hết rồi, đã đến lúc bôn tẩu.

Năm Ất Mão 1915: Nhập Mão. Cung can Tân (Cự Nhật Khúc Xương) không có gì đáng nói, nhưng Tuế can Ất (Cơ Lương Tử Nguyệt) khiến lưu Lộc nhập lưu phối (Sửu), trong khi lưu Kị nhập lưu mệnh (Mão) gây mâu thuẫn đấu tranh ở sao Nguyệt (vì Nguyệt nhờ hạn tài Đinh mà hóa Lộc, vì năm Ất mà hóa Kị). Ta có thể đoán có vấn đề trong hôn nhân, nhưng chẳng thể nói là phạm đào hoa như cách xem Việt hoặc Đài.

Nhận xét: Hạn này cả ba cách đều tương đối đoán đúng chuyện đấu tranh. Về vấn đề đào hoa cách Đài Loan rõ nét hơn hết, rồi đến cách Việt. Cách phi tinh hơi mập mờ, mặc dù lý tính vẫn đúng.

Luận năm thì các năm liên hệ đến đấu tranh cách phi tinh chính xác nhất (vì đoán được là có thể mất chức năm 1912), cách Việt yếu nhất nhưng đoán đại khái vẫn đúng. Về năm có cách đào hoa, cả ba cách đoán đúng là có vấn đề hôn nhân, nhưng cách phi tinh yếu nhất vì không thể xem ra là phạm đào hoa.

Hạn Canh Dần 56-65:

Ông TDT mất năm 1925, thọ 60 tuổi ta. Hạn cuối không có gì đặc biệt lắm, nên xin miễn luận.

Tôi đoán phi tinh là tương lai của khoa Tử Vi

Xem ra loạt bài này của tôi đã đạt kết quả hơn cả mong muốn, vì từ những messages hồi đáp của anh MikeDo tôi hiểu rằng anh đã hoàn thành một cách mới để xem Tử Vi với cái nền là phái phi tinh, và anh rất tự tin với cách xem mới đó…

…Cùng lúc, hy vọng tôi đã đạt được nửa đầu mục đích nguyên thủy, là thuyết phục độc giả nên chú ý đến pháp phi tinh, mà tôi tin sẽ là tương lai của khoa Tử Vi.

Tôi dám nói thế vì khi xem Tử Vi tiêu chuẩn quan trọng nhất là đoán cho chính xác. Nhưng đoán chính xác không vẫn chưa đủ, vì như trường hợp ông Tử Vân (Đài Loan) cho chúng ta thấy, ông ấy đoán cực kỳ chính xác, nhưng xem ra cho đến bây giờ số người học được “nghề” của ông cao lắm chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Tôi sợ là pháp của ông sớm muộn sẽ thất truyền vì… khó quá!

Cái tôi muốn tìm là một phương pháp xem Tử Vi thỏa hai tiêu chuẩn:

  • Độ chính xác đủ cao (thí dụ 70% trở lên, tức là xem 10 việc đúng 7 trở lên).
  • Thỏa điều kiện sư phạm: Chỉ cần trình độ thông minh trung bình trở lên là có thể học được, và nếu có năng khiếu sư phạm thì có thể tập các kỹ thuật để sau đó truyền dạy lại cho người khác, cũng chỉ đòi hỏi trình độ thông minh trung bình trở lên.

Từ kinh nghiệm của tôi (tức là tôi không dám bàn đến các phái mật truyền mà tôi chẳng có lý do gì để được biết):

Tử Vi Việt: Đạt tiêu chuẩn 1 kể trên (đủ chính xác) có thể được, nhưng thỏa tiêu chuẩn 2 rất khó. Sự thật là trong những người Việt tôi biết đã từng học Tử Vi, số người “sạch nước cản” kiếm đã khó rồi.

Tử Vi Đài Loan: Đạt tiêu chuẩn 1 có thể được, và tương đối dễ thỏa tiêu chuẩn 2 hơn Tử Vi Việt, nhưng vẫn khó lắm. Trăm người học may ra một hai người đạt tiêu chuẩn 2.

Có lúc tôi đã tưởng công cuộc tìm kiếm của tôi hoàn toàn vô vọng. Chẳng ngờ, vì thất vọng với lối xem mới của ông Tử Vân mà tôi “khám phá” ra rằng một cách xem Tử Vi mới bị bật mí mấy mươi năm trở lại đây, và trước đây tôi rất coi thường, tức là pháp phi tinh, có thể giúp giới ưa chuộng Tử Vi đạt cả hai tiêu chuẩn.

Cường điệu hơn, tôi dám cả quyết rằng pháp phi tinh sẽ giúp bạn thỏa cả hai tiêu chuẩn, thành người biết xem Tử Vi, theo đúng tiêu chuẩn “hoàn toàn khoa học”.

Nói về hy vọng tương lai thế là tạm đủ. Bây giờ tôi xin vào nửa hai nguyên thủy của loạt bài này.

Nhưng dùng phi tinh vẫn không thể bỏ thần sát

Nhắc lại Tử Bình có 4 trụ tức 1) Can chi năm 2) Can chi tháng 3) Can chi ngày 4) Can chi giờ. Khởi đầu khi chưa gọi là Tử Bình, khoa này coi năm là yếu tố quan trọng nhất, đó là lý do tại sao thần sát là yếu tố quan trọng nguyên thủy. Sau ông Từ Tử Bình làm một cuộc “cách mạng”, chọn trụ ngày làm chủ điểm. Quyết định này đạt đến nhiều kết quả mà trước đó không đạt được, nhưng nó đưa đến một “hậu quả” mà ta có thể đoán được từ lô gích là các sao thần sát phải bị gạt bỏ, vì chúng chẳng dính líu gì đến yếu tố ngày.

Một số lý thuyết gia của phái phi tinh cho rằng khoa phi tinh cũng phải bỏ thần sát vì lý do tương tự. Sự thật là có rất nhiều sách phi tinh chẳng bao giờ nhắc đến một sao thần sát nào cả, thậm chí ngay cả Lộc Tồn, Kình Dương cũng bỏ. Sách “Đẩu số tứ hóa thâm nhập của” Tạ Vũ Đằng, Vũ Lăng, Đài Bắc, Đài Loan 1995 là một thí dụ. Sách này an sao có đủ hết thần sát, nhưng chẳng hề nhắc đến thần sát trong lời giải.

(Viết đến đây sực nhớ ra một chuyện. Có phần lạc đề nhưng phải xen vào ngay đây kẻo sau lại quên mất. Xưa nay khi xếp loại, tôi vẫn cứ coi ông Liễu Vô cư sĩ (LVCS) là phái tam hợp vì ông tách từ phái Tử Vân mà ra; nhưng khi viết đến bài thứ ba hay thứ tư gì đó của loạt bài này tôi chợt giật mình nhận ra rằng phải xếp ông vào phái phi tinh mới đúng. Khi hiểu như thế rồi thì tự nhiên chuyện ông LVCS bỏ hết thần sát trở thành tự nhiên. Thế nhưng xin phê bình ngay là, chưa cần nói đến chuyện bỏ thần sát có hợp lý hay không, theo tôi chi phái phi tinh do ông LVCS đặt ra giản dị quá nên không phát huy hết tiềm năng chứa trong nền tảng của phái này).

Giờ tôi xin thưa với quý vị rằng các lý thuyết gia phi tinh này đã sai lầm. Lý do giản dị: Cái nền của khoa Tử Vi là địa bàn, mà địa bàn chẳng gì khác hơn là đại biểu của năm sinh. Tóm lại, trong khoa Tử Vi năm sinh lạ một cung trọng điểm (Chú: Điểm này giải thích được lý do tại sao ông Tử Vân đã khám phá ra rằng nhiều lá số phải coi cung Thái Tuế, tức cung ứng năm sinh, quan trọng như cung mệnh, có lá số cung này còn quan trọng hơn cung mệnh). Coi năm sinh là trọng điểm rồi thì tất nhiên phải coi ảnh hưởng của yếu tố năm là cực kỳ quan trọng/

Thành thử Tử Vi khác hẳn Tử Bình. Tôi xin cường điệu rằng Tử Vi không thể nào bỏ thần sát, trái lại Tử Vi phải có thần sát mới đạt hết tiềm năng của nó. Tử Vi không có thần sát là Tử Vi thiếu sót què quặt. Bản ản này dĩ nhiên ứng với lối xem Tử Vi của ông LVCS, giờ tôi xin mạnh dạn phát biểu như vậy.

(Chép lại bài viết từ diễn đàn TVLS của tác giả VDTT (TS Đằng Sơn)

Trusted by some of the biggest brands

spaces-logo-white
next-logo-white
hemisferio-logo-white
digitalbox-logo-white
cglobal-logo-white
abstract-logo-white
white-logo-glyph

We’re Waiting To Help You

Get in touch with us today and let’s start transforming your business from the ground up.