Nhận thức về mệnh bàn và 12 cung nhân sự
Trên bề mặt một mệnh bàn hoàn chỉnh ta thấy ghi đầy rẫy các ký hiệu Thiên Can, Địa Chi, Tinh Tú, 12 cung Nhân sự, Đại Hạn, phương vị và thuộc tính của Ngũ Hành các Địa Chi, rốt cuộc những ký hiệu đó được bày đầy ra trên mệnh bàn đại diện cho cái gì? Trong khi suy đoán mệnh lý thì có vai trò chức năng gì? Đây đều là những vấn đề mà người mới học đều gặp phải, tại chương này chỉ nói rõ về ý nghĩa tiêu biểu của chúng, còn về vai trò chức năng trong suy đoán mệnh lý của các ký hiệu đó thì sẽ giải thích ở chương sau.
Địa Chi chính là nhân tố đại biểu cho Thời gian, mà con người thì không có cách nào để khống chế được Thời gian, cho nên chỗ trống trong mệnh bàn đã lấy Địa Chi ghi vào mà đại biểu cho việc Địa Chi là nhân tố mà không ai có thể khống chế được. Ở phần bên cạnh mỗi ô có thể dùng để ghi chú thêm mấy thứ như Ngũ Hành của Địa Chi, hay Phương hướng và thuộc về Quẻ nào. Ví dụ như cung Hợi thuộc Thủy, là phương Bắc, quái vị là quẻ Càn, ký hiệu này trong lúc suy đoán mệnh bàn sẽ phát sinh ảnh hưởng. Ví dụ như sao Tham lang thuộc Thủy đi vào cung Mệnh ở Hợi, mà Hợi lại thuộc vị trí của Thủy, mà nước nhiều thì lênh đênh, nếu nhập cung Mệnh thì đại biểu tình cảm phong phú, hình tượng tình dục như một dạng nước sông vỡ đê tràn lan khắp nơi, cho nên nói “Tham cư Hợi Tí, phiếm thủy đào hoa” (nghĩa là Tham lang cư ở cung Hợi cung Tý là tính đào hoa ngập tràn). Cho nên Ngũ Hành của Địa Chi đối với tính chất riêng của Tinh tú sẽ phát sinh ảnh hưởng. Còn với Quái vị thì sao? Trong nguyên tắc hỏi sự việc, thì có thế lấy Quái vị kết hợp với Tinh tú để biểu hiện hình tượng của vật hoặc nhân sự. Ví dụ như: Hợi ở vị trí quái Càn, mà Tham Lang nhập vào vị trí của Hợi chính là người nam trung niên, bởi vì những dấu hiệu này là không đổi cho nên ta cần in cái này trước tiên ở khoảng trống trên mệnh bàn để nó có sẵn trên mệnh bàn, để tiện cho mọi người ứng dụng.
Lập lá số cần phải rõ ràng chính xác, không được làm bẩn hay để giấy bị nhăn nhúm, đánh dấu phải rõ ràng, để khi bạn nhìn xuống thấy toàn bộ mệnh bàn mới có thể đem các mối quan hệ
nhân quả của hình tượng gieo vào trong não một cách rõ rệt. Phi tinh Tử Vi Đẩu Số chú trọng vào mối quan hệ giao hỗ lẫn nhau giữa toàn bộ các cung trên lá số, chứ không tập trung vào tổ hợp tinh tú của 1 cung nào đó để luận đoán cát hung. Cho nên sự hỗn tạp sẽ làm lời nói mơ hồ, đứt đoạn dòng suy nghĩ, ảnh hưởng tới tính hoàn chỉnh của tư duy.
Cuộc sống phải đối mặt với nhiều loại hoàn cảnh và việc đời muôn hình muôn vẻ, tạo thành trong sinh hoạt ngày thường của con người các loại khía cạnh, Vậy suy cho cùng thì có những khía cạnh nào? Làm thế nào để phân chia ra các khía cạnh khác nhau? Chắc chắn rằng những bậc tiên hiền đã thường đau đầu suy nghĩ về cái này, có điều, chúng ta biết rằng 12 cung trong Tử Vi Đẩu Số chính là do bậc tiên hiền phối hợp với 12 Địa Chi mà miễn cưỡng phân chia ra. Chúng đại biểu cho các lĩnh vực mà một cá nhân tiếp xúc trong sinh hoạt như ở các cung vị biểu thị mối quan hệ giữa con người, cha mẹ (Phụ mẫu), anh em (Huynh đệ), con cái (Tử nữ), vợ chồng (Phu thê), bạn bè (Giao hữu), còn các cung vị Quan lộc, Thiên di, Tài bạch thì đại biểu về các hành vi trong sự nghiệp công việc của mình, cung Phúc đức biểu thị đời sống tinh thần của một cá nhân, cung Mệnh và cung Tật ách biểu thị 2 phần tách biệt là Tinh thần và Thể xác của ta. Nhưng ngoài các lĩnh vực ấy, mỗi cá nhân sẽ tiếp xúc những nhân sự và đồ vật không thuộc 12 cung này mà vẫn có ảnh hưởng tới số phận con người. Ví dụ như các yếu tố chú bác, nhà xưởng, ông bà đều không thuộc 12 cung trong lá số, cho nên trong lúc luận đoán số mệnh thì thể dùng cách “Tá cung” (phép “Mượn cung”) để luận đoán những hình tượng sự tình của Người – Việc – Vật mà không nằm trong 12 cung nhân sự. Cho nên mỗi cung không chỉ nói về một đối tượng nhất định nào đó, mà nó còn mang hàm nghĩa là một đối tượng khác trong những việc khác nhau.
Một, [cung Mệnh]: đại biểu cho các tính cách cá nhân, giá trị quan, tư tưởng, tướng mạo, bản thân đương số cao thấp, trọng điểm là ở chỗ [cái Tôi về mặt tinh thần]. Cung Mệnh chính là cái Tôi tổng thể, lấy cờ tướng làm ví dụ, cung Mệnh là [chủ soái], tuy không thể qua sông chém tướng thế nhưng trong tổng thể nó là quân cờ quan trọng nhất trong bàn cờ, khi bị chiếu bí thì sẽ kết thúc trò chơi, cung Mệnh cũng tương tự kiểu như vậy.
Hai, [cung Huynh Đệ]: đại biểu cho ô số phận của anh em, tình cảm của anh em nông sâu, có được anh em trợ giúp hay không. Đối với quan hệ giao tiếp trong xã hội sẽ phát triển thành các tình huống khác nhau. Bản thân có năng lực lãnh đạo hay không cũng được thể hiện ở cung này. Vừa có thể là mô tả cha mẹ của cung Phu thê, đó là vị trí của mẹ và cũng vừa là Phu thê của cung Phụ mẫu. Do đó nó có cũng là vị trí của cha mẹ chồng (nữ mệnh), hoặc đại biểu cho cha mẹ vợ.
Ba, [cung Phu Thê]: cho thấy thái độ tình cảm của một cá nhân, là người cởi mở hay là bảo thủ, là người lém lỉnh hay là chất phác,… Trước khi kết hôn thì dùng cung này để dự đoán về quan hệ nam nữ, loại đối tượng mà mình thích như thế nào. Còn sau khi kết hôn thì xem về tình cảm sinh hoạt vợ chồng tốt xấu ra sao, có hiện tượng tiềm ẩn xảy ra chuyện ngoại tình hay không, cần phải lấy cái nhìn về ý nghĩa rộng là [cung tình cảm], không nên chỉ nhìn vào cái nghĩa hẹp là cung vợ chồng. Nếu lấy cung Tài Bạch làm cung gốc, thì cung Phu Thê sẽ trở thành cung Phúc Đức của cung Tài Bạch, chính là áp dụng vị trí hưởng thụ tiền bạc kiếm được, không có tiền thì quan hệ vợ chồng tự nhiên sẽ bị ảnh hưởng.
Bốn, [cung Tử Tức]: đại biểu cho ô số phận của con cái, tình cảm ruột thịt cùng với tình duyên khác giới của bản thân. Lúc xem con cái, nó đại diện cho con trai chứ không phải con gái, bởi vì việc sinh con và giới tính có liên quan với nhau. Vì thế, ta có thể xem được năng lực sinh dục của một cá nhân hoặc giới tính hành vi sự vật có liên quan. Cũng là đại biểu cho những cấp dưới mà mình quản lí hoặc là các công ty con có quy mô nhỏ trực thuộc. Nó cũng là cung Quan Lộc của cung Nô Bộc, cho nên nó đại biểu sự nghiệp phía đối tác.
Năm, [cung Tài Bạch]: đại biểu cho tiền mặt lưu động, quan sát một cá nhân cùng năng lực tài vụ có liên quan, làm ngành nghề gì có thể kiếm tiền, gốc gác tiền tài đến từ đâu, năng lực quản lí tiền bạc cao hay thấp, thái độ đối với tiền bạc,… Khi không có tiền, quan hệ vợ chồng cũng sẽ sinh ra thay đổi, cho nên cung vị này quan sát được vợ chồng đối đãi với nhau tốt xấu thế nào sau khi kết hôn.
Sáu, [cung Tật Ách]: đại biểu thể chất của cá nhân, tình trạng sức khỏe, bộ phận tật bệnh, tướng mạo bên ngoài vừa là vị trí [Số kiếp] đại biểu tai nạn phát ra từ cơ thể. Ví dụ như có khối u, xuất huyết dạ dày, tật bệnh phát sinh từ trong cơ thể, biểu thị [cái Tôi vè mặt thể xác]. Vừa là cung Quan Lộc của cung Điền Trạch, cho nên đại biểu cửa hàng, nơi đi làm hoặc nhà xưởng.
Bảy, [cung Thiên Di]: đại biểu tất cả các việc [liên quan tới bên ngoài] như năng lực giao tiếp, gặp gỡ khi ra ngoài, có thể phát triển năng lực đặc biệt của bản thân hay không, quan hệ đối ngoại, vận trình du lịch cùng tình hình phát triển ngoài xã hội. Nó cũng đại biểu vẻ bên ngoài của cá nhân hoặc cách nhìn nhận nói năng, là [cái Tôi biểu hiện ở bên ngoài] của một cá nhân.
Tám, [cung Giao Hữu / Nô Bộc]: đại biểu bạn bè, cộng sự, các tình huống trong đối xử với cấp dưới. Ngày xưa gọi là [cung Nô Bộc] tức cung vị này sẽ biểu thị cho việc có được người trợ thủ đắc lực hay không, còn thời hiện đại bây giờ có thể biểu thị một loại hình cá nhân chọn lựa người giao tiếp. Cũng có thể dùng cung này để xem năng lực lãnh đạo của một cá nhân.
Chín, [cung Quan Lộc]: sự nghiệp tức là vận trình đường lối, có thể xem được đặc tính con người thích hợp với công việc nào, nó cũng đại biểu cho tình trạng của vận trình đường lối. Như học sinh thì là vận trình đi học, sau này ra xã hội thì đại biểu cho vận trình của sự nghiệp, làm quan thì là vận trình thăng tiến chức vị, nên còn gọi là [cung quan lộc] chứ không hẳn chỉ là sự nghiệp mà thôi.
Mười, [cung Điền Trạch]: đại biểu bất động sản, hoàn cảnh nơi ở phù hợp với môi trường hay tọa hướng thế nào, năng lực cao thấp khi lựa chọn nhà cửa, năng lực xử lí chuyện gia đình. Cũng đại biểu cho [Số kiếp] ngoài ý muốn, như đột nhiên bị thương tổn, cho nên còn gọi là [Số kiếp tự]. Trong phong thủy học có nói phòng ốc không tốt cũng sẽ ảnh hưởng tới con cái, cho nên nó cũng đại biểu cho [cách nhìn của người ta về biểu hiện bên ngoài của con cái].
Mười một, [cung Phúc Đức]: Vị trí xem xét một cá nhân có khả năng được hưởng thụ hay không? Hoặc có hứng thú gì? Cho nên còn gọi là [cung Sở thích], cũng có thể dùng để xem vận đồ
lúc về già. Cung Phúc Đức tốt, dù không có gia tài bạc triệu nhưng cũng đầy đủ để hưởng phúc tuổi già. Cung Phúc Đức xấu, dù nắm giữ gia tài ngàn tỉ nhưng suốt ngày sẽ nóng vội vì muốn kiến tiền nên lòng không bao giờ thành thản. Ở nữ mệnh thì cung Phúc Đức là cung vị trọng yếu để xem tốt xấu trong hôn nhân, không được quên điểm này.
Mười hai, [cung Phụ Mẫu]: đại biểu ô số mệnh của cha mẹ, cùng với xem duyên phận với cha mẹ sâu hay cạn. Đối ới người đi làm thì đại biểu duyên phận đối với cấp trên, còn kẻ đi học thì là đại biểu duyên đối với thầy. Cũng đại biểu cho khả năng quản chế người khác như quan tòa, cảnh sát, cơ quan chính phủ. Bởi vì thân thể do cha mẹ sinh ra nên sẽ mang di truyền từ cha mẹ, nên cũng thể dựa vào đó xem tướng nên còn gọi là [cung Tướng Mạo].
Trên đây chính là hàm ý cơ bản của 12 cung nhân sự, đồng thời còn dùng phép [mượn cung] để mà diễn dịch đại thể. Các bạn có thể lấy cách mượn cung ở trên để suy ra cách mượn cung của các cung còn lại.
Bây giờ chúng ta sử dụng quan điểm Hà đồ Lạc thư để giải thích mối quan hệ tương hỗ trong cách sắp xếp lần lượt 12 cung nhân sự.
Đầu tiên chúng ta giải thiết rằng đã có mệnh bàn đã điền lên 12 cung nhân sự (hình vẽ số 1/3) lấy cung Mệnh điền số 1, cung Huynh Đệ điền số 2, cung Phu Thê điền số 3,…, căn cứ theo vậy điền từ 1 đến 12 vào trong mệnh bàn.
Nhất Lục cộng tông (1 và 6 chung gốc):
Cung Mệnh là 1, cung Tật Ách là 6, cung Mệnh đại biểu các đặc tính của Mệnh cách, cá tính, tinh thần của con người, còn cung Tật Ách là thể xác hữu hình của một cá nhân. Có thể xác khỏe mạnh thì tinh thần mới có thể tạo thành sức sống hoạt bát của con người.
Nhị Thất đồng đạo (2 và 7 chung lối):
Cung Huynh Đệ là 2, cung Thiên Di là 7, anh em trong nhà nhiều, sẽ ra bên ngoài mong được phát triển, đương nhiên sẽ có hiện tượng di chuyển, đến một nơi khác công tác, đi ra khỏi quê quán, cho nên 2 với 7 chung lối.
Tam Bát vi bằng (3 và 8 là bạn):
Cung Phu Thê là 3, cung Giao Hữu (Nô Bộc) là 8, trong kết giao bạn bè thì có nam có nữ, nữ thì có thể trở thành vợ, nam thì có thể trở thành chồng, có kết giao mới có vợ chồng, phù hợp với quan niệm trước và sau hôn nhân của người hiện đại.
Tứ Cửu tác hữu (4 và 9 làm bè):
Cung Tử Tức là 4, cung Sự Nghiệp (Quan Lộc) là 9, chúng ta thường nói đến thành gia lập nghiệp, nói cách khác là kết hôn rồi mới lập gia đình mới, sau đó sẽ sinh con, sẽ chịu trách nhiệm gia đình. Do đó cần sự nghiệp ổn định thì mới có thể lo cho chi phí sinh hoạt cần thiết của vợ con. Cho nên 4 và 9 tương làm bạn bè.
Ngũ Thập đồng đồ (5 và 10 chung đường):
Cung Tài Bạch là 5 để xem về năng lực kiếm tiền, mà đã kiếm tiền sẽ mang về nhà để cung cấp cho việc chi tiêu sinh hoạt hoặc mua nhà đất dùng làm nơi che chở an cư lạc nghiệp cho người thân trong nhà, hoặc đem tiền về nhà để mà cất giữ, cho nên Điền Trạch là vị trí kho tàng của cung Tài Bạch. Cung Điền Trạch mà không đẹp sẽ biểu thị kho sẽ bị phá vỡ, không giữ được tiền tài. Cung Tài Bạch là trạng thái động của tài vận (động sản) còn cung Điền Trạch là trạng thái tĩnh của cất giữ tài sản (bất động sản).
Thập Nhất dữ Nhất đồng tông (11 và 1 cùng họ):
Tức là cung Mệnh cùng với cung Phúc Đức đối đãi ngang nhau, cung Phúc Đức biểu thị sự che chở của tổ tiên, tổ tiên có đức hoặc cá nhân tích nhiều âm đức sẽ cải thiện vận mệnh của cá nhân. Cho nên cung Phúc Đức và cung Mệnh có chức năng ảnh hưởng tổng thể tương tự như nhau đến Mệnh cục.
Thập Nhị dữ Nhị đồng vị (12 và 2 cùng ngôi)
Nghĩa là cung Phụ Mẫu và cung Huynh Đệ được xem như cùng ngôi, bởi vì cha mẹ sinh ra ta thì cũng sẽ sinh ra anh em ta, mà cung Huynh Đệ lại là cung Phụ Mẫu của cung Phu Thê, là cung vị của cha hoặc mẹ, cho nên cung Phụ Mẫu và cung Huynh Đệ đối đãi cùng ngôi.
Từ những thuyết minh ở trên, đã giải thích được mối quan hệ của âm dương và 12 cung nhân sự. Ví dụ như cung Phu Thê xung với cung Mệnh thì ta sẽ thấy, do cung Mệnh vốn nghiêng về mức độ tinh thần của cá nhân cho nên sẽ biểu thị các hiện tượng như về mặt tinh thần giữa 2 vợ chồng là không hợp, hoặc không ưa cái hành vi tác phong của đối phương, mà chẳng ai nói cũng xung (Khắc). Lại giả như cung Phu Thê mà xung với cung Tật Ách, thì sẽ biểu thị ý nghĩa có loại bệnh tật nào đó sẽ phát sinh do giữa chồng vợ có mối tương quan đóng mở. Nếu chỉ có cái tiếng vợ chồng mà lại không có quan hệ tình dục, thì cái bệnh đó sẽ không phát sinh. Nguyên nhân gây bệnh loại này là có thể dự đoán bằng mệnh lí, bởi vì muốn dùng Tứ Hóa để suy đoán Mệnh Vận, thì việc đầu tiên phải phân rõ âm dương của cung vị cùng với mối quan hệ ảnh hưởng qua lại giữa các cung vị, mới có thể vận dụng linh hoạt lá số để đoán mệnh.
(Tử vi mệnh vận phân tích – Từ Tăng Sinh)