Bàn về Cục
CÂY CON NGƯỜI
Khung giữa lá số có phần ghi: Thủy Nhị Cục (hoặc) Mộc Tam Cục, Kim Tứ Cục, Thổ Ngũ Cục, Hỏa Lục Cục… Ta có thể hiểu đây là sự vận động có sóng dao động trong mỗi cuộc đời. Và là phần Đất (phần địa định) của Cây con người. Phần này đặc biệt quan trọng cho các cung Đại vận, nó liên quan chặt chẽ với ba phần: Gốc – Thân – Lá của Cây con người.
Lấy ví dụ về người Nam, tuổi Nhâm Dần, tháng 2 – Quý Mão, ngày 14 – Bính Thìn, giờ Canh Dần nói trên, ta thấy:
1. Phần Lá: cung Mệnh tại Sửu – là Mộ địa của hành Kim; cung Quan tại Tỵ – là đất Tràng Sinh của hành Kim; cung Tài tại Dậu – đất Đế Vượng của hành Kim; cung Phúc tại Mão – đất Đế Vượng của hành Mộc.
2. Phần Thân: Nhật nguyên sinh: Bính – Dương Hỏa.
3. Phần Gốc: Kim bạc Kim.
4. Cục của lá số là Mộc tam Cục, được Tràng Sinh tại Hợi – Đế Vượng tại Mão.
Như vậy ta thấy người này:
– Được cung Phúc Đức của phần Lá là hợp Cục: được cứu vì dòng họ còn có người thiện căn, đức độ, được cứu vì con cái thiện căn, đức độ.
– Được phần Thân là Bính-Hỏa gặp cục Mộc là có Nguyên Thần nên khi sống người này vận động phần Xác có thiện căn, đức độ, hợp đạo Trời Đất.
– Phần Hồn là Kim bạc Kim, được cung Mệnh nằm tại Mộ địa của Kim, không những không bị yểu số vì đã được cứu mà còn được hưởng phần hậu vận và rất giàu có. Luôn làm những việc mới, sẽ thành công về phú quý nếu biết kín đáo, ra vẻ khờ khạo, vì tư tưởng người này là Quan Tràng Sinh – Tài Đế Vượng – Mệnh nhập Mộ, nhưng khi kết hợp xét lá số phải chú ý đến toàn bộ tiêu chí trên lá số.
Ví dụ, tuổi này có sao Triệt, nằm tại Dần, Mão, như vậy cung Phúc hợp cục Mộc nhưng bị thông cho cung Dần là đất Tràng Sinh của Hỏa, nên bớt phần tốt của cung Phúc, lợi thêm cho phần Xác, Bính Hỏa. Vì thế nếu người này ham giàu, ham phần xác quá tất bị hại không để phúc cho con cái vậy.
Cũng nằm trong phần này, khi xem về nhà cửa, mồ mả, bếp núc, chỗ ngồi khi làm việc quan, khi mở cửa hàng kinh doanh…, cần xem có hợp hướng, hợp cục đất không? Như ở ví dụ này ta thấy:
– Đại vận từ 3 – 12 tuổi tại cung Mệnh, cung Sửu là Mộ địa của Kim Cục, Mạng Kim nên Hồn nhập Mộ nhưng Xác được Dưỡng (Bính Hỏa Dưỡng tại Sửu). Cục ở đất Quan đới (Mộc Quan đới tại Sửu), thêm sao Địa Kiếp tại cung Mệnh (giờ Dần – tháng 02): như vậy Thiên định, Địa định đều chỉ rõ người này có thể chết ngay từ khi mới sinh, nhưng nếu phần Xác được chăm sóc tốt, phúc đức dòng họ tốt (Nhân định) thì có thể sống được.
– Đại vận 13 – 22 tuổi tại cung Phụ mẫu là đất Tràng Sinh của hành Hỏa (phần xác Bính Hỏa tốt, may có sao Triệt, nếu không người cha có thể nguy trong Đại vận này). Như vậy Nhân định trong đại vận này tốt. Cục Mộc vào đất Lâm quan cho thấy đã có cái phấn phát trong môi trường xã hội, như vậy phần Địa cũng đã có lợi. Mệnh Kim gặp Dần là nơi đất Tuyệt – hết thời, vậy là phần Thiên mất, may có sao Triệt, nên vẫn ẩn tàng cái tốt được đất Lâm quan tại cung Thân chiếu vào. Và như vậy tại đại vận này cả Thiên lẫn Địa đều cho cái để mà bình tâm, phần Nhân thì bắt đầu phát triển tốt.
– Từ 23 – 32 tuổi tại cung Mão là đất Đế Vượng của hành Mộc (được đất, gặp thời, lấy vợ, sinh con tốt) lại được Địa lợi, Kim tại Mão là đất Thai, ẩn tàng cái tốt được dất Đế Vượng tại Dậu chiếu vào. Cung Mão gặp Triệt là có lợi về Thiên (bắt đầu có tư tưởng mới, phát kiến mới…). Bính Hỏa tại Mão là đất Mộc dục nhưng ẩn tàng đất Tử tại Dậu xung chiếu, vì tại Mão gặp Triệt, cho nên tại đại vận này, về phần nhân định, nếu manh động, hoặc thay đổi nhanh, lớn nhanh thì có thể gặp nguy hại.
– Từ 33 – 42 tuổi tại cung Thìn là Mộ địa của hành Thủy bị Tuần không làm Kim hao tốn (lo buồn về tư tưởng, Mẹ nguy hại); từ 43 – 52 tại cung Tỵ đất Tràng Sinh của hành Kim (nhiều tư tưởng mới đến, nhiều công việc mới phải hao tốn tâm lực); từ 53 – 62 tuổi tại cung Ngọ là đất Đế Vượng của Hỏa (Bố – Mẹ hỏng hẳn, thành công lớn về tinh thần, công danh – chữ Quý đạt); từ 63 – 72 tuổi, tại cung Mùi là Mộ địa của hành Mộc (sức khoẻ cực kém, có thể chết vì thân xác, nhật nguyên Bính Hỏa hết Nguyên thần)
– Từ 73 – 82 tuổi tại cung Thân là đất Tràng Sinh của hành Thủy (nếu tốt số nhờ các sao trên lá số thì mệnh hết ở đại vận này. Kim sinh Thủy nên Kim hết hồn, bị xì hơi, Thủy khắc Hỏa, thân xác (nhật nguyên) Bính Hỏa phải tắt)…
BÀN VỀ CỤC
Nói đến Cục, Kinh Dịch xem xét liên quan đến nhiều bộ môn khác như Phong Thủy, Độn Giáp, Thái Ất… nhưng ứng dụng cho từng môn lại khác nhau. Ví dụ Cục trong Phong Thủy là tiêu chí về cục Đất. Thông thường chỉ có 4 cục: Kim cục – Mộc cục – Thủy cục – Hỏa cục, chia ra thành Cục Âm và Cục Dương vận dụng vào Tử Vi là để nắm mối quan hệ Thiên – Địa – Nhân, con người với Trời Đất. Khi vận dụng phải nắm rất chắc vòng sao Tràng Sinh và luận giải rất mềm, nhất là khi xem xét vận hạn năm – tháng – ngày. Điều này, chúng tôi vận dụng có khác với một số bạn đồng sự, khi đặt vấn đề “Mệnh khắc Cục, Mệnh sinh Cục” là tốt hoặc xấu; hoặc nói rằng “Cục phản ánh quãng đời sau 30 tuổi”. Theo chúng tôi, Cục trong Tử Vi phản ánh môi trường xã hội và thời đại chủ thể đang sống, vì thế khi lý giải lá số, phải bám sát cuộc sống hiện tại của họ. Đấy là lý giải về cuộc đời, vận hạn… còn khi xem xét mặt tâm linh, lại phải bám sát với diễn trình của Kinh Dịch.
Vòng sao Tràng Sinh nắm giữ các thông số về Cục. Khi xét lá số, phải xem ba phần Thiên – Địa – Nhân có “nhập cục” không, nếu được cả ba thì tốt nhất, được một – hai cũng tốt. Cần thấy rằng lá số dù có các sao tốt mà Thiên, Địa, Nhân không nhập cục thì số mệnh chủ thể cũng ở mức bình thường. Cũng cần nhắc lại: Mạng (Ngũ hành nạp âm) thuộc Thiên, Cục ghi trên lá số thuộc Địa, còn Thiên can ngày sinh thuộc Nhân.
Theo như Kinh Dịch thì từ năm 1984 đến 2004 chúng ta đang sống ở Hạ nguyên tiết Sử Thử, trong 20 năm này, môi trường, thời đại chịu sự chi phối của quẻ Đoài. Vì thế khi luận các phần về Tâm Linh, đều phải chú ý xem xét về Thiên, Địa, nhất là khi xác định Dụng Thần, khi định việc cúng tế, khi khai trương làm nhà, làm các việc về phần mộ…
Một điểm nữa chúng ta cần phải chú ý: khi học Kinh Dịch, ta biết “Thiên tả hoàn – Địa hữu chuyển” Thiên Vận (vận Trời) thì quay sang Trái theo kim đồng hồ còn Địa Vận (vận Đất) thì quay theo chiều ngược lại (Trái đất tự quay quanh mình nó theo chiều ngược kim đồng hồ) điều này khi vận vào Tử Vi ta thấy:
– Các hệ Sao theo phân bổ theo chiều kim đồng hồ thuộc hệ Thiên định, các hệ sao theo ngược chiều kim đồng hồ thuộc Địa định.
– Vận của nam mạng, bất luận Dương Nam hay Âm nam đều theo chiều kim đồng hồ, vận của Nữ mạng thì theo ngược chiều kim đồng hồ.
Theo vận của Nam (Dương – Thiên…) thì Cục được vận hành theo Tứ đại, tức là chỉ có 04 Cục (Kim – Mộc – Thủy – Hỏa). Cục này còn vận dụng rất nhiều trong trong môn Phong Thủy, trong Tử Vi ta thấy tất cả mọi người các tuổi Nam mạng, ví dụ: năm 2000 – Canh Thìn, thì trên Tử Vi đều vận theo Cục Hỏa:
– Tuổi: Tý – Ngọ – Mão – Dậu: Tiểu vận đều tại cung Dần, thuộc đất Tràng Sinh của Cục Hỏa.
– Tuổi: Dần – Thân – Tỵ – Hợi: Tiểu vận tại cung Ngọ, thuộc đất Đế Vượng của Cục Hỏa.
– Tuổi: Thìn – Tuất – Sửu – Mùi: Tiểu vận tại cung Tuất, thuộc Mộ địa của Cục Hỏa.
Như vậy ta biết Thiên định năm Canh Thìn là năm Hỏa cục vận hành.
Sang năm Tân Tỵ 2001, lại đến Mộc cục vận hành. Đến năm 2002 là Thủy cục vận hành. Năm 2003 Kim cục vận hành, rồi năm 2004 lại đến Cục Hỏa vận hành, cứ thế thay nhau mãi…
Riêng Nữ mạng thì tùy từng tuổi mà nhập Cục như Nam mạng, điều này rất quan trọng, đặc biệt cho những người Tu học, luyện khí công, làm thuốc chữa bệnh theo Đông Y thời châm…
Trên lá số Tử Vi có các cung Điền – Cung Phúc, các cung này nói về nhà cửa, phần mộ. Khi chọn đất làm nhà, đặt mộ cho người có lá số, người luận Tử Vi phải nắm chắc các Cục mới phân định được, ví dụ: Một người có cung Điền cư đóng tại cung Mão: ta nói người này làm nhà quay hướng chính Đông là hợp cách, sự tốt xấu tại cung Điền do các sao trong cung này phản ảnh, nhưng cung Mão: là Đất Đế Vượng của Dương Mộc và đất Lâm Quan của âm Mộc – do vậy người này dù làm nhà hướng chính Đông là đúng, nhưng tiểu Cục đất nhà phải được Cục Mộc nữa mới gọi là đúng cách.
Khi tìm phần Mộ, đặt Mộ cũng phải chú ý như vậy, cho nên, người giải Tử Vi còn cần hiểu các môn Phong Thủy như: Trạch Cát – Huyền Không Phi Tinh… để luận giải cho sâu rộng. Nhưng trên hết, tất cả đều phải rất chú ý đến sự sinh khắc của Ngũ hành với bản Mệnh, ta xét một môn làm ví dụ: Tam Ngươn cung Phi trong Độn Giáp Thái Ất.
Đây là một môn người xưa xem theo tuổi để làm nhà – dựng vợ gả chồng
Theo Kinh Dịch đây là các “Cung vận động khởi nguyên” của 180 tuổi ứng với 180 năm của một Nguyên, và cứ hết Nguyên này đến Nguyên khác, gọi là một Nguyên Giáp Tý, như từ năm 1864 Giáp Tý, đến năm 2043 Quý Hợi là hạ nguyên hội Ngọ.
Trong Hạ nguyên hội Ngọ này lại chia thành 3 nguyên, mỗi nguyên 60 năm từ Giáp Tý đến Quý Hợi, lần lượt gọi là Thượng nguyên, Trung nguyên, Hạ nguyên.
Để biết trong vòng 180 năm tuổi này, tuổi của một người nam hoặc nữ bất kỳ thuộc Cung nào trong tam nguyên ta theo phương pháp như sau:
Số thứ tự |
Năm |
Nam |
Nữ |
1 |
1924 |
Tốn |
Khôn |
2 |
1934 |
Chấn |
Chấn |
3 |
1944 |
Khôn |
Tốn |
4 |
1954 |
Khảm |
Cấn |
5 |
1964 |
Ly |
Càn |
6 |
1974 |
Cấn |
Đoài |
7 |
1984 |
Đoài |
Cấn |
8 |
1994 |
Càn |
Ly |
9 |
2004 |
Khôn |
Khảm |
Bảng 3. Tóm tắt Cung Phi |
Ta phải thuộc Bảng sau đây trình tự theo môđuyn 9 (tôi lấy từ năm 1924, năm bắt đầu của Trung nguyên thuộc Hạ nguyên hội Ngọ). Đọc bảng này ta biết người sinh năm 1924 mạng nam thuộc Cung Tốn, nữ thuộc Cung Khôn.
Số thứ tự |
Biến Hào |
Kết quả |
1 |
Hào 1 |
Sinh Khí |
2 |
Hào 2 |
Tuyệt mạng |
3 |
Hào 3 |
Họa hại |
4 |
Hào 1 và hào 2 |
Ngũ Quỷ |
5 |
Hào 1 và hào 3 |
Lục Sát |
6 |
Hào 2 và Hào 3 |
Thiên Y |
7 |
Biến cả 3 hào |
Diên Niên |
8 |
Không biến hào nào |
Phục vị |
Bảng 4. Tám biến Cung Phi |
Ta chỉ cần thuộc thứ tự từ 1 đến 9 rồi quay lại vòng tròn, nhưng phải nhớ là chỉ lấy đến 9, ví như nếu ta lấy từ năm 1944 là 1, thì năm 2024 là 9.
Để dễ nhớ ta lấy ngay tuổi của ta mà tính, ví dụ bạn (nam) sinh năm 1947 thuộc Cung gì? Trong bảng trên, người sinh năm 1944 nam mạng, thuộc cung Khôn. Ta đếm theo thứ tự:
1 – năm 1944 – Khôn;
2 – năm 1945 – Khảm;
3 – năm 1946 – Ly;
4 – năm 1947 – Cấn;
5 – năm 1948 – Đoài;
6 – năm 1949 – Càn;
7 – năm 1950 – Khôn;
8 – năm 1951 – Tốn;
9 – năm 1952 – Chấn.
Đến đây trở về 1-năm 53–Khôn; 2-năm 54–Khảm, đúng như trong bảng. Cứ như vậy theo thứ tự 1 – 2 – 3…tới 9 rồi về 1 – 2…
Trở lại ví dụ trên, chỉ mới đếm đến 4 ta biết người nam sinh năm 1947 thuộc Cung Cấn.
Ta lại phải nhớ 08 biến của cung Phi như sau: (tính hào, từ trên xuống)
Trong đó Sinh Khí – Thiên Y – Diên Niên – Phục Vị là các tín hiệu tốt.
Ví dụ người Nam sinh năm 1962 – Nhâm Dần – cung Phi là cung: Khôn
1. Khôn biến hào 1 thành Cấn: Sinh Khí– hướng Đông Bắc.
2. “ hào 2 thành Khảm : Tuyệt mạng, hướng Chính Bắc.
3. “ hào 3 thành Chấn : Họa hại, hướng Chính Đông.
4. “ hào 1 & 2 thành Tốn: Ngũ Quỷ, hướng Đông Nam.
5. “ hào 1 & 3 thành Ly: Lục Sát, hướng Chính Nam.
6. “ hào 2 & 3 thành Đoài: Thiên Y hướng Chính Tây
7. Khôn biến cả 3 hào thành Càn: Diên niên hướng Tây Bắc
9. Khôn không biến vẫn là Khôn: Phục Vị hướng Tây Nam
Người xưa chỉ dạy đến đó, xem tuổi lấy hướng làm nhà, lấy vợ, xuất hành, nhưng nếu ta thông thạo Thiên bàn – Địa bàn – Cục thì ta có thể đưa ra nhiều dự báo theo tiêu chí của cung Phi. Tất nhiên sự hạn chế ở đây là chỉ có căn cứ Năm sinh, thuộc vào nhóm quá rộng, nhưng luận giải vẫn rất thú vị. Một điều nữa chúng ta chỉ biết công nhận, không thể phân tích tại sao người xưa cho hướng này là Sinh Khí, hướng kia là Tuyệt mạng… Bây giờ ta vận dụng để có những dự báo khác
(Dẫn theo trang hoc-tuvi.blogspot.com)