[ad_1]
Xưa nay biết bao học giả đã gắng công chú giải kinh điển Trung y. Những chứng cứ khảo cổ mới được phát hiện gần đây và các công trình nghiên cứu về những ký lục của các y sư riêng biệt về các y án đã tiết lộ cho thấy một xu hướng canh tân và đa dạng trong việc thực hành Trung y. Những dị biệt theo khu vực địa lý cũng như những yếu tố xã hội và chính trị đã ảnh hưởng rõ rệt cách thức mà cá nhân hay tập thể đã xây dựng và thuyết giải nền y học cổ điển. Trong khi hầu hết các nguồn tư liệu viết bằng chữ Hán mô tả một cách giới hạn về một nền y thuật kiệt xuất và do nam giới đảm nhiệm, thì một số văn bản tiết lộ về một lịch sử y học của phụ nữ.
Những gì chúng ta biết được về sự thực hành Trung y suốt đời Chiến Quốc và đời Hán là chủ yếu góp nhặt từ các chuyên luận của các tác giả vô danh về triết lý và y thuật. Các tác giả Trung Quốc ngày xưa có xu hướng gán tác phẩm của mình cho tam hoàng ngũ đế, các y sư truyền thuyết, hay các bậc thầy của họ. Khi nghiên cứu y thuật, các y sư ngày xưa thường sao chép các đoạn bản thảo và sắp xếp chúng theo một thứ tự nhằm phản ánh sự kế tục của các y sư bậc thầy thuộc nhiều trường phái khác nhau. Điều này giải thích sự hiện diện của bốn sưu tập lớn về các y luận châm cứu, được biết chung dưới tên Hoàng Đế Nội Kinh. Hoàng Đế là một vị vua truyền thuyết, tương truyền sống khoảng 2697-2597 tcn, và được xem là cha đẻ của Trung y. Đa phần lý thuyết trong Hoàng Đế Nội Kinh (biên soạn khoảng đầu công nguyên) được trình bày qua lời vấn đáp giữa Hoàng Đế và Kỳ Bá, một vị quan cũng là chuyên gia về châm cứu và các vấn đề huyền bí.
Giá trị mà những bậc học thức nhìn nhận đối với các y luận này có thể giải thích sự hiện diện của những sưu tập đầu tiên về các tư liệu tương tự trong các ngôi mộ đời Hán, thí dụ như 3 ngôi Hán mộ được phát hiện tại Mã Vương Đôi, thuộc Trường Sa, tỉnh Hồ Nam hiện nay. Trong số các văn bản khai quật ở ngôi Hán mộ số 3 thì có 7 văn bản đề cập lý thuyết âm dương, lời chú cúng tế, phòng trung thuật, tĩnh tọa, và các phương thuốc bào chế từ thảo dược, động vật, và các chất liệu gia dụng.
Sự phát triển mau chóng của thương mại nói chung và của kỹ thuật ấn loát nói riêng vào đời Minh đã giúp phổ biến kiến thức y học. Sự giao tiếp trực tiếp giữa y sư và đệ tử không quan trọng bằng việc các y điển quan yếu được phổ biến rộng rãi hơn trước. Trong các gia đình theo nghiệp y, các thế hệ con cháu đã xuất bản và đề cao tác phẩm y học của gia tiên. Rõ ràng việc tường thuật các ca chẩn trị thành công này đã chứng minh các quan điểm lý thuyết và thể hiện những kỹ thuật mới. Những y án cũng trở nên phổ biến hơn, giúp người ta thấy được lý thuyết Trung y được vận dụng trong thực tế ra sao.
Sau cùng, văn chương, nhất là các tiểu thuyết từ đời Minh và đời Thanh đã tạo một ấn tượng muôn màu về sự phức tạp và tinh tế của thế giới Trung y.
2. Y SƯ VÀ Y THUẬT
Những nghiên cứu về lịch sử Trung y cho thấy các y sư Trung Quốc thuở xưa thực là đa dạng. Họ đồng thời cũng có thể là nho sĩ, tăng nhân, đạo sĩ, hay phụ nữ. Tuy nhiên những chuyên luận do các y sư trứ tác đôi khi đã ảnh hưởng đến sự phát triển của Trung y, thí dụ như tác phẩm Thương Hàn Luận của Trương Trọng Cảnh (142-220). Tác phẩm được người đời sau trích dẫn rất nhiều này đã chào đời sau một nạn bệnh dịch xảy ra và tàn phá thị trấn ông cư ngụ. Y luận của ông được kế tục vào đời Tống, Kim, Nguyên do một số y sư có tư tưởng canh tân và lập nên trường phái riêng, chẳng hạn như Tôn Tư Mạc (khoảng 581-682, về sau được sùng bái như một vị thần y dược).
Suốt đời Thương, chiêm bốc hẳn rất cần thiết để xoa dịu cơn thịnh nộ của tổ tiên; nhưng những khi khác thì chiêm bốc và lịch pháp được dùng để xác định quá trình và hậu quả của bệnh tật. Giới vu hịch, nhất là nữ vu cũng thực hành y thuật, một công việc liên quan đến chức năng tôn giáo của họ. Họ chuyên về chiêm bốc, mà việc này dùng để chẩn bệnh. Họ có thể niệm danh các chư thần, triệu vời ma quỉ và chiêu hồn tổ tiên về trợ giúp việc trị bệnh, hoặc chế tác các hình nộm của bệnh nhân để thư ếm hay trị bệnh.
Các phương pháp chẩn bệnh cổ truyền gọi là tứ chẩn: vọng (quan sát), văn (nghe), vấn (hỏi han), và thiết (bắt mạch). Tư Mã Thiên chép truyện Biển Thước và Thương Công trong Sử Ký, đã kể rằng thần y Biển Thước thời Chiến Quốc đã biết “thiết mạch, vọng chẩn, thính thanh, vấn chẩn” rồi.
Các tác phẩm y học đã chứng minh rằng cả y thuật mang tính tôn giáo lẫn ma thuật có lúc đã là thành phần chủ lực trong truyền thống y thuật bác học. Tuy nhiên, vào giữa thế kỷ II tcn, những y sư thực hành y thuật theo triết lý tự nhiên hẳn đã tự xem mình là những người bảo vệ cho một truyền thống y học dựa trên kinh điển.
Trong khi sự phát triển dược học là một phần chủ lực của thuật luyện đan Đạo giáo, thì các nhà sư từ khi Phật giáo du nhập vào Trung Quốc sau thế kỷ I cn đã bắt đầu bào chế thuốc cũng như đặt ra cách ăn chay, tham thiền, và các bài tập điều tức. Bùa chú và pháp nội quán dùng để trị các bệnh do tà quái gây ra.
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, cách thực hành y thuật mang tính chất mê tín đã bị hạn chế. Tuy nhiên, Trung y vẫn tiếp tục phát triển ở tầm mức địa phương và địa vị của Trung y đã được khôi phục phần nào sau khi Cộng sản nắm quyền.
3. KHÍ VÀ SINH LÝ HỌC CON NGƯỜI
Những yếu tố quan trọng nhất trong cơ thể con người là tinh, khí thần. Những tư liệu cổ xưa nhất như văn tự khắc trên đồ đồng đời Thương và đời Chu đã có chữ khí và chữ khí liên quan đến thực phẩm dinh dưỡng. Các tư liệu khoảng giữa đời Chiến Quốc cho thấy xu hướng dùng chữ khí để mô tả tình trạng không khí và môi trường, nhất là hơi ẩm ướt, vân vụ, và sương mù, rồi bằng sự suy luận tương tự, người ta dùng chữ khí để mô tả những đặc tính vô hình và tập trung thí dụ khói hay ma quỷ.
Chữ Khí được viết với một nét bút duy nhất (tượng trưng tính liên tục của nó)
Giữa thế kỷ IV cn, chữ khí — gồm chữ khí [hơi] ghép với chữ mễ [gạo] — được dùng để mô tả một chất liệu cơ bản trong cõi tự nhiên (tức là mễ [gạo]) giúp tăng cường sự sống trong thế giới biến thiên. Nó cũng được dùng để mô tả sự cường điệu về các cảm giác được trải nghiệm với thân thể như nóng bức, đau đớn, khoái lạc, và đam mê. Như vậy đã có một sự chuyển biến quan trọng của quan niệm về khí: từ quan niệm khí là những đặc tính môi trường mà ta có thể quan sát cho đến quan niệm khí là cái mà thân thể tuân theo như bốn mùa, rồi đến quan niệm khí là một yếu tố của cơ thể mà mỗi cá nhân đều có thể khống chế nó.
Nói chung, khí trong cơ thể là yếu tố vô hình mà mỗi cá nhân chỉ có thể cảm nhận hay một y sư có thể nhận biết qua sắc mặt và cử chỉ của bệnh nhân hoặc qua việc bắt mạch. Trong chẩn bệnh, khí có thể xem là hữu hình, qua thuật ngữ “xích khí” (khí đỏ), ám chỉ các vết đỏ hiện ra trên da do nóng sốt. Vào thời xưa, người ta quan niệm khí đi theo hướng từ trên xuống dưới. Khí đi lên thí dụ như nhiệt thì được xem là triệu chứng bệnh tật, liên quan đến sự khó thở. Những cảm giác bình thường hay bệnh tật đều được xem là “có đầy khí” nhất là khi các cảm giác đó liên quan đến vũ dũng, phẫn nộ, và hiếu chiến. Kẻ hiếu chiến thường bị xem là “hiếu khí” và trong Hán ngữ hiện nay “sinh khí” nghĩa là nổi giận.
Vào những thế kỷ đầu sau khi Tần Thủy Hoàng Đế thống nhất Trung Quốc, trong lý thuyết Trung y vốn phân biệt có nhiều mức độ về khí thì khí trở thành nguyên lý thống nhất cơ bản. Khí bình thường có thể bị ô nhiễm do tà nhập. Trong ngũ tạng, khí có đặc tính khác nhau. Thí dụ khí của gan (can khí) có xu hướng thăng lên và gây bệnh, nhiệt, đau, hay tính tình nóng nảy.
4. CẤU TRÚC CƠ THỂ CON NGƯỜI
Những quan niệm của người Trung Quốc về các cấu trúc và chức năng khác nhau của cơ thể đã phản ánh thực tế chính trị, tôn giáo, và triết lý của Trung Quốc, và chúng phục chế từng phương diện của thế giới con người và thiên nhiên trong giải phẫu học cũng như sinh lý học. Các y điển đã mô tả cơ thể con người giống như một tiểu vũ trụ, mà mỗi bộ phận cơ thể tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng, tinh tú, núi non, sông ngòi, động vật, thảo mộc, v.v…
Người ta cho rằng trong thân thể có chư thần và hồn phách. Thí dụ thần ngụ ở tim (tâm thần) giúp ta thông minh mẫn tiệp. Các y điển đời Hán đã mô tả về hồn và phách có thể gây ra bệnh tâm lý và chứng chiêm bao mộng mị. Người ta cho rằng khi một người chết thì hồn và phách của kẻ ấy vẫn còn quanh quẩn nơi mộ phần, và nếu không được cúng bái thì vong hồn đó sẽ quấy phá người sống.
Suốt đời Chiến Quốc, thuyết âm dương đã mô tả tính chất lưỡng diện (nhị nguyên) trong cơ thể: trong-ngoài, trên-dưới, nóng-lạnh, v.v… Các triết gia về chính trị thuở ban đầu đã tiếp thu và phát huy thuyết âm dương bằng cách bổ sung sự tương tác của ngũ hành. Khi được vận dụng để trị bệnh, ngũ hành phải tương thích với các yếu tố như tứ thời, mầu sắc, tình cảm, ngũ tạng, các chức năng sinh lý, cũng như là các kinh lạc châm cứu.
Sức khoẻ của mỗi cá nhân có thể được xét qua các triệu chứng cụ thể và sự tương khắc hay tương sinh của ngũ hành. Bằng cách kích thích những huyệt vị tức là châm cứu trên cơ thể bệnh nhân, y sư có thể điều chỉnh tình trạng sức khoẻ của người đó.
Sau cuộc thống nhất Trung Quốc của Tần Thuỷ Hoàng Đế, kinh điển Trung y cũng phản ánh sự thống nhất trong một quan niệm mới mẻ về cơ thể. Tất cả các phương diện sinh lý của con người đều chịu ảnh hưởng của một nguyên lý thống nhất, đó là khí. Cơ thể cũng được xem là một vương quốc, và mỗi bộ phận chính là một cơ quan hành chính.
Tư liệu xưa nhất về các huyệt vị châm cứu là các văn bản được khai quật tại một ngôi mộ ở Vũ Uy (niên đại được giám định là thế kỷ I tcn). Các huyệt vị được đặt tên theo thiên nhiên, bầu trời, tinh tú, hoàng cung. Thí dụ như thiên khu, nhật nguyệt, và thượng tinh phản ánh trật tự vũ trụ; thần đình, thân trụ, và nội cung phản ánh kiến trúc hoàng cung trong cơ thể; núi Côn Lôn, chiếu hải cùng với các tên sông ngòi, ao đầm đã vẽ nên bản đồ cơ thể như là hình ảnh của hệ thống sông ngòi trong thiên nhiên.
5. CHÂM CỨU
Theo truyền thuyết, Hoàng Đế là cha đẻ của châm cứu. Trong Hoàng Đế Nội Kinh, thân thể gồm 12 kinh mạch và nguồn sinh lực là khí lưu thông qua chúng. Nội Kinh còn mô tả 10 kinh mạch nối liền lục phủ ngũ tạng đến da. Trên da có các huyệt vị mà ta có thể dùng kim châm (gọi là châm huyệt) hay đốt ngải cứu. Dụng cụ ban đầu để châm chưa phải bằng kim loại, mà bằng đá, gọi là biếm. Hứa Thận đã giải thích trong Thuyết Văn Giải Tự rằng: “Biếm là dùng đá, châm để trị bệnh.” Nghĩa là ban đầu người ta dùng mảnh đá sắc bén để rạch vỡ những chỗ tụ máu hoặc có mủ.
Về sau người ta dùng que bằng xương hoặc tre để châm. Kim châm bằng kim loại chỉ phát triển khi người ta nắm vững kỹ thuật dã kim. Người ta cho rằng kim châm bằng kim loại tốt sẽ có hiệu quả tinh tế tác động tốt đến dòng khí và tinh trong thân thể. Phát hiện khảo cổ sớm nhất về kim châm là ở ngôi mộ Tây Hán, khai quật năm 1968 ở Hà Bắc. Trong đó có bốn chiếc kim bằng vàng còn nguyên vẹn và năm chiếc kim bạc bị gẫy.
Kim châm được dùng kết hợp với ngải cứu đầu tiên vào đời Hán mặc dù thao tác không hoàn toàn giống như ngày nay. Truyện của thần y Biển Thước cho ta thấy ông đã dùng kim (châm) và đá quý (ngọc thạch) để trị bệnh về máu huyết. Hoàng Đế Nội Kinh, nhất là phần Linh Khu, là y điển bàn nhiều về châm cứu, do Linh Khu ngày xưa cũng có tên là Châm Kinh. Châm và cứu khởi phát từ sự tổng hợp các y thuật ban sơ với những ý tưởng mới mẻ về sinh lý học, mà điều này về sau hưng thịnh thành bộ môn dưỡng sinh.
Nguồn gốc của cứu có thể là do kinh nghiệm của người cổ đại thấy rằng khi ngồi bên bếp lửa, hơi nóng của lửa có thể tiêu trừ một số bệnh. Cũng có thể trong sinh hoạt hàng ngày họ bị phỏng lửa, nhưng bù lại họ tình cờ được khỏi một thứ bệnh nào đó. Có lẽ vì thế mà cách trị bằng hơi nóng đã xuất hiện. Trong ngôi Hán mộ số 3 khai quật ở Mã Vương Đôi (Trường Sa) năm 1974, có bốn văn bản ghi chép về kinh mạch và phương pháp cứu. Chất liệu ban đầu được dùng để cứu vị tất đã là ngải. Người ta đã thử nhiều chất liệu và cây cỏ khác nhau, và cuối cùng nhận thấy ngải cứu có ưu điểm hơn cả. Ngải cất trữ lâu năm lại tốt hơn ngải còn tươi.
Những phát hiện khảo cổ gần đây về đời Tây Hán giúp ta khám phá sự thực hành châm cứu với kinh mạch. Hai văn bản chép tay mô tả rằng thân thể có 11 mạch mà tên của các mạch này cũng tương tự như tên các mạch trong lý thuyết cổ điển. Một hình nhân nhỏ bằng gỗ sơn mài màu đen (được chôn trễ lắm là khoảng năm 118 tcn) bên trên có vẽ các mạch màu đỏ. Hình nhân được tạo tác một cách tượng trưng về cấu trúc xương, cơ bắp, và hệ động-tĩnh mạch, nhưng không cho thấy các huyệt châm cứu. Hai văn bản và hình nhân này là những nỗ lực chính thức hoá các ý tưởng về kinh nghiệm và việc làm giảm đau đớn.
Trước khi phát hiện được hình nhân gỗ này, người ta đã phát hiện được các hình nhân bằng đồng và giám định niên đại là có từ đời Bắc Tống. Những hình nhân đồng rỗng ruột này thể hiện hệ thống kinh mạch và các huyệt vị, và dùng để dạy y thuật. Hình nhân được phủ một lớp sáp màu vàng, bên trong được đổ nước. Khi học sinh châm kim xuyên qua lớp sáp và xoi đúng vào một huyệt thì nước chảy ra ngoài.
Châm cứu hình thành một bộ phận Trung y “cao cấp” cho giới thượng lưu. Châm cứu rất phổ biến trong triều đình đời Đường và là môn học chính thức trong Thái Y Viện đời Tống. Tuy nhiên có lúc các y sư phỉ báng châm cứu là nguy hiểm, là công việc của phụ nữ hay của thầy lang không chuyên. Năm 1822 (niên hiệu Đạo Quang đời Thanh), châm cứu bị cấm dạy trong Thái Y Viện. Và với sự lấn át ngày càng mạnh của Tây y vào đầu thế kỷ XX, sự thực hành châm cứu càng ít đi tuy rằng nó không bao giờ bị triệt tiêu. Suốt chiến dịch đề cao di sản dân tộc vào cuối thập niên 1950 của Mao Trạch Đông, châm cứu được hồi sinh với việc thành lập các cơ sở trị liệu, dưỡng đường, và các trung tâm dạy châm cứu.
6. DƯỠNG SINH
Tại Trung Quốc, dưỡng sinh bao gồm các sự thực hành để thân thể khang kiện và tinh thần minh mẫn. Dưỡng sinh cũng liên quan đến Đạo dẫn, vốn là sự luyện tập trị liệu ở mức độ cao hơn. Trong các kinh điển đời Chiến Quốc, thuật ngữ “dưỡng sinh” thường xuất hiện trong các lý luận về nhân tính. Mạnh Tử (372-289 tcn) tin tưởng vào việc nuôi dưỡng mầm thiện trong tâm mỗi người. Đối với ông, trau dồi đức dũng và nhân tức là dưỡng khí với các kỹ thuật hô hấp đúng đắn. Trên những miếng ngọc đời Chiến Quốc đã ghi khắc những mô tả sớm nhất về các phép thực hành tăng cường khí để cho ảnh hưởng của thiên nhiên tác động vào thân thể.
Trong những thế kỷ sau đó, một số thế gia sĩ tộc đã sưu tập các y điển và thể nghiệm những bí pháp nhằm kiện khang cũng như tăng cường tinh và khí. Khi xu hướng này được đề cao cực độ, nó dẫn đến quan niệm thể xác bất tử.
Quan niệm thông thường đối với các phép dưỡng sinh (và cũng có lẽ là kế thừa các tín ngưỡng cổ xưa) cho rằng thân thể là một lò luyện đan, chuyển hoá tinh và thần. Một tư liệu xưa nhất nhấn mạnh lợi ích của dưỡng khí một cách hệ thống đó là chương Nội Nghiệp trong tác phẩm Quản Tử. Tuy tác phẩm này được gán cho nhà tư tưởng và chính trị Quản Trọng (mất năm 645 tcn) nhưng có lẽ nó đã được viết khoảng giữa thế kỷ V và thế kỷ I tcn. Quản Tử chủ trương sự định tâm và tĩnh khí để định tam bảo tinh-khí-thần nhằm đạt được cảnh giới thần minh. Khi đạt được cảnh giới thần minh thì thân thể khang kiện, tứ chi kiên cố, nhĩ mục thông minh, da dẻ sáng láng.
Một bài học quan trọng mà y học đã tiếp thu từ dưỡng sinh là hầu hết các y sư minh triết đều biết bảo dưỡng thân thể trước khi khi bệnh tật phát sinh. Họ biết thận trọng trong việc ẩm thực, phòng trung, và các sinh hoạt thường ngày.
Cũng từ dưỡng sinh người ta biết các dẫn khí lưu thông trong thân thể. Việc tập trung tư tưởng vào đan điền (tức là những trung tâm chuyển hoá) rất là bình thường trong phép quán sổ tức (đếm hơi thở). Rốt cuộc châm cứu đã tiếp thu phép tập trung tư tưởng này để điều khiển khí của bệnh nhân qua cách thao tác kim châm có chủ ý. Các y điển thường hướng các quy tắc dưỡng sinh theo mục đích của y thuật. Trong khi tĩnh tọa nhấn mạnh nhiều vào dưỡng khí thì y thuật nhấn mạnh việc quân bình tinh-khí-thần. Điều này được thấy qua kỹ thuật đạo dẫn, một phương pháp rất phổ biến trong lịch sử Trung Quốc và được lưu truyền hiện nay qua các bài tập khí công và uốn dẻo đa dạng.
7. DƯỢC PHẨM VÀ THỨC ĂN TRỊ LIỆU
Các dược điển xưa nhất hiện tồn đã được khai quật tại Mã Vương Đôi. Chúng chứng minh việc sử dụng rộng rãi các chất liệu làm dược phẩm trong đời Chiến Quốc và đời Tần–Hán. Mọi thứ từ thực phẩm và cây cỏ thông thường cho đến côn trùng và các chất bài tiết của người hay súc vật đã được phối hợp và điều chế thành vô số các dược phương dưới các hình thức cao-đơn-hoàn-tán để trị bệnh cho con người. Một số chất ở dạng tươi hoặc khô, giã hay bằm. Một số ở dạng tễ và bào chế với rượu hay giấm, một số khác được sắc trong siêu.
Mặc dù khoảng 156 trong số chừng 224 dược chất được đề cập trong bộ sưu tập tư liệu phong phú nhất khai quật trong ba ngôi Hán mộ ở Mã Vương Đôi đã được đối chiếu với các dược chất sử dụng trong Trung y về sau này, nhưng các tư liệu này hầu như không cho thấy các quy tắc của Trung y cổ xưa. Các dược phương liên hệ trực tiếp đến bệnh chứng chứ không nhắc đến sự tương ứng của âm dương và ngũ hành. Nhiều liệu pháp còn vận dụng vu thuật.
Việc tùy táng các tư liệu y dược này trong ba ngôi Hán mộ ở Mã Vương Đôi (Trường Sa, Hồ Nam) xảy ra năm 168 tcn. Gần 700 năm sau đó, Đào Hoằng Cảnh (452-536) mới biên soạn Thần Nông Bản Thảo Kinh. Đây là dược diển cổ nhất của Trung Quốc hiện tồn, luận bàn 365 loại dược vật, 252 loại thực vật, 67 loại động vật, và 46 loại khoáng vật. Trong Thần Nông Bản Thảo Kinh Đào Hoằng Cảnh liệt kê các dược tính của dược liệu tương tự theo hệ thống hành chính trong vương quốc. Dược liệu phân làm ba hạng: thượng, trung, hạ; mỗi hạng có chức năng vương (vua) hay thần (bầy tôi). Thuốc nào làm khang kiện thân thể và ích thọ diên niên thì xếp vào loại “thuốc vua” (vương dược); thuốc nào chỉ có tác dụng trị bệnh mà thôi thì xếp vào loại “thuốc bầy tôi” (thần dược).
Năm 659, triều đình đời Đường bảo trợ một tập thể do Tô Kính chủ biên, biên soạn quyển dược điển tên là Tân tu Bản Thảo. Dược điển này gồm 844 vị thuốc kèm hình vẽ minh họa. Căn cứ nguồn gốc tự nhiên của các vị thuốc, sách phân chúng làm 9 loại: ngọc thạch, cỏ, gỗ, cầm, thú, côn trùng, cá, quả, rau. Triều đình đời Đường đã qui định dược điển này làm tư liệu giảng dạy chính thức cho các y sinh. Ảnh hưởng của dược điển này rất lớn và được truyền sang Nhật Bản.
Thương Hàn Luận của Trương Trọng Cảnh (142-220) là y điển xưa nhất hiện tồn luận bàn căn nguyên của bệnh dựa trên cơ sở âm dương và đề ra các dược phương tương ứng. Y điển này có ảnh hưởng rất lớn đến các nhà lý luận y dược về sau, nhất là ảnh hưởng đến truyền thống y dược của Nhật Bản.
Khai triển từ tác phẩm Đào Hoằng Cảnh theo các phương diện khác biệt, những trường phái lý luận Trung y cạnh tranh nhau đã nở rộ một ngàn năm sau đó, tức là suốt các đời Tống, Kim, và Nguyên. Mỗi y sư của các trường phái này tập trung vào việc đơn giản hoá các mô tả căn nguyên của bệnh, chẳng hạn quy vào hàn và nhiệt; hoặc xác định nguyên nhân nội tại hay ngoại tại, và sau cùng là thành lập một nền dược học dựa trên lý thuyết Trung y cổ truyền.
Bản Thảo Cương Mục của Lý Thời Trân (1518-1593) đời Minh là một bách khoa thư, sưu tập và tăng bổ 952 nguồn tư liệu xa xưa về lĩnh vực y, dược, khoáng vật, dã kim, thực vật, và động vật. Trong từng tập bản thảo, Lý Thời Trân mô tả cách trị liệu cổ truyền của các dược thảo, động vật, khoáng vật. Ông mô tả ngoại hình của chúng, cách nuôi trồng, cách bào chế, các dược tính của chúng cũng như sự tương cận của chúng với các dược liệu khác, âm tính hay dương tính của chúng, và mức độ hiệu quả khi sử dụng chúng. Công trình đồ sộ này luôn được trân trọng trong giới y sư Trung y cũng như ở các trường y dược. Sau khi được khắc in ở Nam Kinh năm 1596, bộ y điển này được tái bản liên tục, lan truyền nhanh sang Nhật Bản và Triều Tiên. Hiện đã được dịch một phần hoặc toàn phần ra các ngôn ngữ Nhật, Triều Tiên, Latin, Anh, Pháp, Đức.
Tuy nhiên, vào thế kỷ VII Tôn Tư Mạc chủ trương việc dùng thực phẩm để phòng bệnh và trị bệnh. Theo ông, một y sư sau khi khám bệnh và xác định được căn nguyên bệnh thì trước tiên phải dùng thức ăn để trị bệnh (ẩm thực liệu pháp), khi nào liệu pháp này thất bại thì mới dùng đến thuốc.
Tịch cốc (hạn chế hoặc không dùng ngũ cốc) cũng là cách diên niên ích thọ. Cũng như phật gia và đạo gia, người ta đồng thời cũng nên kiêng các thứ như rượu, thịt, và thức ăn có nhiều gia vị gây kích thích. Trong các chế độ dinh dưỡng cổ truyền, người ta quan niệm ăn gì bổ đó, như ăn dương vật của chó, nai, dê, lừa sẽ làm tăng cường khả năng tính dục. Người ta cũng tin rằng ăn quả hồ đào (hình dáng giống quả thận) sẽ tráng thận. Các thực phẩm nhiều prô-tê-in như thịt thú rừng cũng được xem là giúp tăng cường sinh lực. Thực phẩm nào càng quý hiếm khó tìm thì giá càng cao.
Mỗi thứ thực phẩm đều được quy vào hệ thống âm dương ngũ hành, mặc dù âm dương không quan trọng bằng tính hàn hay nhiệt của thức ăn. Thực phẩm có năm mức nhiệt độ: nóng, ấm, vừa, nguội, lạnh. Chúng có tác dụng đối với nhiệt độ cơ thể, thí dụ ăn ớt ăn gừng thì nóng.
Thực phẩm cũng được phân loại theo ngũ vị: cay, đắng, chua, mặn, ngọt. Chúng có chức năng trị liệu, thí dụ thức ăn đắng có nhiều âm tính nhất, nên đối trị với bệnh nhiệt, giúp hạ sốt, thanh nhiệt, an thần. Thức ăn cay có nhiều dương tính nhất, giúp kích thích khí huyết, gia tăng thân nhiệt, và khử đàm. Nói chung, y dược đòi hỏi sự quân bình và tiết độ. Ăn quá nhiều thịt thà, gia vị, dầu mỡ sẽ phát nhiệt; còn ăn rau sống và thức ăn nguội lạnh và nước lạnh sẽ khó tiêu hoá và đau bao tử.●
—————————————————————-
TƯ LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
1. E.L. Shaughnessy, China, Oxford, 2000.
2. Wolfram Eberhard, A History of China, University of California Press, 1977.
3. Jacques Gernet, A History of Chinese Civilisation, Cambridge University Press, 1987. (Bản dịch tiếng Anh của J.R. Foster).
4. Một số trang Web của Trung Quốc về đề tài này.
[ad_2]
Nhịp Cầu Giáo Lý – Lê Anh Minh