[ad_1]
Cao Thượng Ngọc Hoàng Tâm Ấn Diệu Kinh
● Lê Anh Minh trích lục & chú thích
«Cao Thượng Ngọc Hoàng Tâm Ấn Diệu Kinh» còn có tên là «Tâm Ấn Diệu Kinh» 心印妙經, «Tâm Ấn Kinh» 心印經, hay «Ngọc Hoàng Kinh» 玉皇經. Toàn văn chữ Hán 200 chữ, phân thành 50 câu, mỗi câu bốn chữ. Tác giả đích thực của bản kinh này chưa rõ là ai, chỉ biết tương truyền là của Vô Thượng Huyền Khung Chủ Kim Khuyết Đại Đạo Quân 無上玄穹主金闕大道君 (tức Ngọc Hoàng Thượng Đế 玉皇上帝). Bản kinh này được đưa vào Chính Thống Đạo Tạng 正統道藏 (đời Minh); rồi sang thời Dân Quốc, Đạo gia Đinh Phúc Bảo 丁福保 đã đưa bản kinh này vào Đạo Tạng Tinh Hoa Lục 道藏精華錄, có chú giải của Dựng Chân Tử 孕真子.
Bản kinh này chủ yếu giảng giải phương pháp tu luyện của Đạo giáo, tức tu luyện tinh-khí-thần theo nội đan. Đời Minh, đạo sĩ Bạch Vân Tê 白雲霽 trong Đạo Tạng Mục Lục Tường Chú 道藏目錄詳注 đã xưng tán bản kinh này là «Nội tu thần kinh» 內修神經 (bản kinh thần diệu của phái tu nội đan). Đạo gia Đinh Phúc Bảo 丁福保 đã viết trong Đạo Tạng Tinh Hoa Lục 道藏精華錄 rằng: «Kỳ từ khôi áo, kỳ chỉ uyên vi. […] Chí đạo chi huyền cơ, tính mệnh chi căn chu, mạc bất xiển phu phẫu lộ. Thực đăng chân chi kính lộ, độ thế chi thê hàng. Học giả cẩu năng tạo kỳ lý, đạt kỳ từ, cùng thần dĩ tri hoá, tham huyền dĩ nhập diệu, tức tâm thị ấn, tức ấn thị tâm, tắc tâm ấn chi diệu tự ngã nhi đắc chi hĩ.» 其辭恢奧其旨淵微 […] 至道玄机, 性命之根株, 莫不闡敷剖露. 實登真之徑路, 度世之梯航. 學者苟能造其理, 達其辭, 窮神以知化, 參玄以入妙, 即心是印, 即印是心, 則心印之妙自我而得之矣. (Lời lẽ của kinh ảo diệu lồng lộng, tông chỉ của kinh sâu kín tế vi. […] Đây là cơ huyền diệu để đạt đạo, là căn cội của tính mệnh, không có gì mà không trình bày rõ ràng. Quả thực đây là con đường tắt để trở thành tiên, là chiếc thuyền để độ đời. Nếu người tu học có thể tìm được lý, hiểu được lời, luyện thần cho đến cùng để biết sự chuyển hoá, thấu xét huyền để nhập vào diệu, thì tâm là ấn, ấn là tâm, ắt sẽ tự mình mà đạt được sự huyền diệu của tâm ấn vậy.) Qua lời lẽ trên, đủ thấy địa vị rất cao của bản kinh này trong nhận thức của giới đạo sĩ và người mộ đạo.
Thực vậy, bản kinh này vốn được các đạo sĩ Trung Quốc trì tụng sáng tối, cũng là bản kinh quan trọng ngang với các bộ kinh phải tụng đọc hàng ngày như Âm Phù Kinh 陰符經 và Thái Thượng Lão Quân Thuyết Thường Thanh Tĩnh Kinh 太上老君說常清靜經.
Tại Việt Nam, bản kinh này xuất hiện trong một đàn cơ ở Thiên Thơ Đài (Phước Hải, tỉnh Bà Rịa). Sau đó bản kinh được in trong quyển Thoát Hoá Thiên Kinh do Đâu Suất Thiên Cung – Thanh Tịnh Đàn của Cao Đài Đại Đạo Tiên Thiên Hư Vô (chưởng pháp: Linh Châu Tử) xuất bản năm 1951 tại Mỹ Tho. Đáng tiếc, trong quyển Thoát Hoá Thiên Kinh không có một thông tin nào cho biết đích xác thời gian ngày giờ bản kinh này được Thiêng Liêng giáng cơ truyền dạy. Để mở đầu cho bản kinh này, nơi trang 17, chúng ta thấy ghi:
«1- Nam mô Tây Thiên Cung Điện, Vô Thượng Diêu Trì Kim Mẫu, Đại Từ Đại Bi, Chí Cực Từ Tôn; 2- Nam mô A Di Đà Phật; 3- Tiếp Dẫn Đạo Nhơn Thế Tôn; 4-Tam Thế Phật Thế Tôn; 5- Nam mô Truyền Kinh Diễn Giáo Nguơn Thỉ Đại Thiên Tôn; 6- Nam mô Thái Ất Cứu Khổ Đại Thiên Tôn; 7- Nam mô Tề Thiên Đại Thánh Đại Thiên Tôn; 8- Nam mô Quan Âm Như Lai; Tam Thanh Giáo Chủ Đại Thiên Tôn; 9- Nam mô Đại Xá Hội Thượng Phật, Bồ Tát Ma Ha Tát; 11- Nam mô Thích Ca Như Lai Thế Tôn; 12- Nam mô Di Lạc Tuyên Quang Phật, Long Hoa Đại Hội Thế Tôn; 13- Vạn Chủng Chơn Tiên, chư Phật chư Thánh, đẳng đẳng Thiên Tôn; 14- Tam Kỳ Phổ Độ Ngô Minh Chiêu Đại Tiên.
Như thị tôn kính, xuất ư đại xá vô thượng. Linh Tiêu điện tiền, Ngọc Hoàng sở chủ, cập chư Đại Thánh, Thiên Vương, Thiên Đế, Đế Thích dữ bá thiên ức vạn chư đại quyền thừa, Bồ Tát Ma Ha Tát dã. đồng xưng tán: Thiện tai ! Thiện tai ! Sắc hạ Hư Vô Chơn Nhứt – Thiên Thơ Đài (Phước Hải, Bà Rịa tỉnh), ban hành ư Nam Diệm Phù Đề Thế Giới. Nhược nhơn thành tâm sở cầu tất ứng, sở nguyện tất thành. Nhữ đẳng chúng sanh cần đương trì tụng, tắc hữu phước thần hựu hộ. Nhi thuyết: Thượng Đế Ngọc Hoàng Tâm Ấn Kinh viết: …»
(Xin dịch thoát: [Bản kinh] phát xuất từ cõi vô thượng, hãy tôn kính vậy. Trước điện Linh Tiêu của Ngọc Hoàng, Ngài và các Đại Thánh, Thiên Vương, Thiên Đế, Đế Thích, cùng với bá thiên ức vạn các vị nắm quyền lớn, tức là Bồ Tát Ma Ha tát, đồng thanh khen ngợi: Tốt thay, tốt thay! Và ban sắc lệnh nơi Thiên Thơ Đài thuộc Hư Vô Chơn Nhứt (tại Phước Hải, tỉnh Bà Rịa) [giáng đàn tả kinh] ban hành nơi cõi Nam Diệm Phù Đề. Nếu con người thành tâm cầu nguyện thì sẽ có linh ứng, việc mong muốn sẽ thành tựu. Tất cả chúng sanh phải chuyên cần trì tụng, như thế các phúc thần sẽ phù hộ cho. Nay [Thiêng Liêng] giảng Thượng Đế Ngọc Hoàng Tâm Ấn Kinh rằng: …)
Tiếp theo đó là bản âm Hán Việt (không có chữ Hán), bản dịch việt văn (văn xuôi), và bản dịch văn vần (thể song thất lục bát). Các bản dịch đều rất tài tình, nguyên văn mỗi câu bốn chữ Hán, bản dịch văn xuôi cũng y vậy. Còn bản dịch ra thơ song thất lục bát rất lưu loát và rặt khẩu ngữ miền Nam. Quả là thần tiên diệu bút. Nhận thấy mối quan hệ đặc biệt của bản kinh này đối với cả Đạo giáo Trung Quốc lẫn Đạo Cao Đài, tôi xin trích lục bản kinh này từ Thoát Hoá Thiên Kinh, bổ sung thêm phần chữ Hán, hiệu đính chính tả quốc ngữ, và chú thích một số từ ngữ. Nguyên văn chữ Hán, tôi tham khảo:
(1) Ninh Chí Tân 寧志新 (chủ biên), Đạo Giáo Thập Tam Kinh 道教十三經, quyển Hạ, Hà Bắc Nhân Dân xuất bản xã 河北人民出版社, 1994, tr.1365-1367.
(2) Internet: http://www.tianyabook.com/zongjiao/daojiao/005.htm
và http://www.newage.net.cn/library/books/daojia/lib/LIB/005.htm
________________________________________
● NGUYÊN VĂN
上藥三品,神與氣精。恍恍惚惚,杳杳冥冥。存無守有,頃刻而成。回風混合,百日功靈。
默朝上帝,一紀飛升。知者易悟,昧者難行。踐履天光,呼吸育清。出玄入牝,若亡若存。
綿綿不絕,固蒂深根。人各有精,精合其神。神合其氣,氣合其真。不得其真,皆是強名。
神能入石,神能飛形。入水不溺,入火不焚。神依形生,精依氣盈。不凋不零,松柏青青。
三品一理,妙不可聽。其聚則有,其散則零。七竅相通,竅竅光明。聖日聖月,照耀金庭。
一得永得,自然身輕。太和充溢,骨散寒瓊。得丹則靈,不得則傾。丹在身中,非白非青。
誦之萬遍,妙理自明。
● PHIÊN ÂM
Thượng dược tam phẩm, thần dữ khí tinh. Hoảng hoảng hốt hốt, yểu yểu minh minh. Tồn vô thủ hữu, khoảnh khắc nhi thành. Hồi phong hỗn hợp, bách nhật công linh. Mặc triều Thượng Đế, nhất kỷ phi thăng. Tri giả dị ngộ, muội giả nan hành. Tiễn lý thiên quang, hô hấp dục thanh. Xuất huyền nhập tẫn, nhược vong nhược tồn. Miên miên bất tuyệt, cố đế thâm căn. Nhân các hữu tinh, tinh hợp kỳ thần. Thần hợp kỳ khí, khí hợp kỳ chân. Bất đắc kỳ chân, giai thị cưỡng danh. Thần năng nhập thạch, thần năng phi hình. Nhập thuỷ bất nịch, nhập hoả bất phần. Thần y hình sinh, tinh y khí doanh. Bất điêu bất linh, tùng bách thanh thanh. Tam phẩm nhất lý, diệu bất khả thính. Kỳ tụ tắc hữu, kỳ tán tắc linh. Thất khiếu tương thông, khiếu khiếu quang minh. Thánh nhật thánh nguyệt, chiếu diệu kim đình. Nhất đắc vĩnh đắc, tự nhiên thân khinh. Thái hoà sung dật, cốt tán hàn quỳnh. Đắc đan tắc linh, bất đắc tắc khuynh. Đan tại thân trung, phi bạch phi thanh. Tụng chi vạn biến, diệu lý tự minh.
● BẢN DỊCH
Ba phẩm thuốc nhứt: Tinh với Khí, Thần.(1) Mơ mơ tưởng tưởng, lặng lặng mờ mờ. Tưởng như không có, giây lát đặng nên. Tụng tuôn như gió, trăm ngày thấy linh. Tưởng thầm Thượng Đế, một kỷ (2) đặng lên. Người trí dễ hiểu, kẻ tối khó làm. Tưởng theo hào quang, thở hít khoẻ ru. Hít mũi thở miệng, như mất như còn. Luôn luôn chẳng dứt, cội chắc rễ sâu. Ai cũng có Tinh, Tinh hiệp với Thần. Thần hiệp với Khí, Khí hiệp vóc thiệt.(3) Chẳng đặng vóc thiệt, đều là nói gượng. Thần hồn chun đá,(4) thần hồn biết bay. Xuống nước chẳng chìm, vô lửa chẳng cháy. Hồn (5) nương xác sống, Tinh nhờ hơi đủ. Chẳng hư chẳng cổi,(6) như tòng như bá. Ba phẩm một lẽ, mầu nghe chẳng cùng. Gom vào thời có, tan ra thời không. Bảy lỗ thông nhau, lỗ nào cũng sáng. Mắt như nhựt nguyệt, chiếu đến Cung Huỳnh.(7) Biết Một thì hiểu, tự nhiên nhẹ mình. Tinh thần sung túc, xương chuyển như ngọc. Đặng thuốc (8) thời linh, chẳng đặng hư hình. Thuốc ở trong mình, chẳng trắng chẳng xanh. Tụng thường muôn bận,(9) lẽ nhiệm (10) hiểu rành.
● BẢN DỊCH VĂN VẦN
Thuốc cao tột: tinh, thần hoá khí,
Chuyển pháp luân phục thỉ huyền hào.(11)
Gìn Không giữ chặt trí cao,
Hạn trong giây phút hiện hào quang ra.
Gió thổi ngọn, điều hoà chơn tức,(12)
Công trăm ngày, chầu chực Thiên Tôn,(13)
Mười hai năm đặng xuất hồn,
Thần thông quảng đại Thiên Môn (14) ra vào.
Người trí thức đạo cao dễ ngộ,
Kẻ tối mê xiêu đổ khó thành.
Muốn về thượng cảnh (15) trời xanh,
Dưỡng nuôi hơi thở, lưu thanh khoẻ Thần.
Ra vào (16) phải cân phân rún mũi,
Sống như không, quên buổi quên giờ.
Cũng như tượng gỗ trơ trơ,
Ngày qua, tháng lại, không ngơ, không tình.
Thân thể vẫn nguơn tinh (17) làm chủ,
Hiệp nguơn thần,(18) khí tụ nên tiên.
Chẳng nên nói rõ diệu huyền,
Gượng lời nói rõ, thâu «diên» (19) làm thần.
Thần qua đá, chẳng dừng không đụng,
Thần bay bay thấu phủng (20) chín trời.
Xuống nước phải rẽ tách khơi,
Vào lửa không nóng, chói ngời Thần Quang,
Thần là rặp, thần hoàn in rặp,(21)
Tinh nương theo khí hấp vo tròn.
Chẳng tiêu, chẳng tán, chẳng mòn,
Như tòng bá lạnh cũng còn tươi xanh.(22)
Ba phẩm thuốc nói rành một lẽ,
Nghe chẳng rồi, đâu tẻ (23) ra nhiều.
Tựu thời ắt có tán tiêu,
Mở thông bảy lỗ (24) thảy đều sáng trưng.
Tợ nhựt nguyệt hai vầng phổ chiếu,
Hiệp qui căn một khiếu trường sanh.
Từ (25) chưa trời đất kết thành,
Chuyển luân biến hoá ngũ hành, lục căn.(26)
Biết thấu rõ mới rằng linh nghiệm,
Chẳng thấu thời rán kiếm đừng hôn.
Kim đơn tàng ẩn nơi lòng,
Không xanh, không trắng, khó đong, khó lường.
Tụng muôn biến mới tường nghĩa vụ,
Lý huyền thâm diệu hữu chớ nghi.
Tụng rồi lòng khá xét suy,
Tâm kinh Ngọc Đế, trẻ ghi cho thường.
***
Chư Tiên xưng tán
THI
Phục nguyên linh chưởng đắc cao thâm,
Thức đắc kim đơn giáo hoá tầm.
Tiên dược diệu huờn hoà chánh khí,
Khí lai dụng ý chuyển thuần âm.(27) CHÚ THÍCH
(1) Trong phép tu nội đan, tinh-khí-thần là ba thứ thuốc (dược vật) thượng hảo hạng được luyện nấu trong lò (lô đỉnh) tức là chính thân thể người tu. Khẩu quyết: «Luyện tinh hoá khí, luyện khí hoá thần, luyện thần hoàn hư, luyện hư hoàn vô.»
(2) một kỷ = 12 năm. Tu luyện 12 năm, kết thánh thai và phi thăng lên cõi trời, tức là thành tiên.
(3) vóc thiệt = hình vóc chân thật (chân thân), tức đệ nhị xác thân (anh nhi hiện hình), phân biệt với phàm thân (xác thân huyết nhục).
(4) chun đá = chui vào đá (nhập thạch).
(5) Hồn = thần hồn = thần.
(6) cổi = già cổi.
(7) Cung Huỳnh = Kim Đình = Huỳnh Đình.
(8) đặng thuốc = có được đan dược (kim đan).
(9) bận = lượt, lần.
(10) lẽ nhiệm= diệu lý
(11) phục thỉ huyền hào = trở lại buổi đầu khi có hào quang huyền diệu.
(12) chơn tức = hơi thở.
(13) Thiên Tôn = Ngọc Hoàng Thượng Đế.
(14) Thiên Môn = cửa nhà trời.
(15) Thượng cảnh = cảnh thượng giới, tức cõi trời.
(16) ra vào = hởi thở ra vào.
(17) nguơn tinh = nguyên tinh.
(18) nguơn thần = nguyên thần.
(19) diên = nghĩa đen là chì (đối với «hống» là thuỷ ngân). Trong phép tu nội đan, diên ám chỉ thận, thận thuộc hành thuỷ (quẻ Khảm); hống ám chỉ tim, tim thuộc hành hoả (quẻ Ly). Thuỷ hoả ký tế (thuỷ hoả cứu giúp nhau), tức là chiết khảm điền ly để trở nên thuần dương, tức thành chân nhân.
(20) phủng = thủng. Thần bay xuyên suốt 9 tầng trời (cửu thiên).
(21) rặp = rập = đồng bộ với, y hệt theo.
(22) tòng bá (cây tùng, cây bách) vốn chịu khí hậu rét lạnh, cây luôn xanh tốt.
(23) tẻ = tách ra, toẻ ra.
(24) bảy lỗ (thất khiếu) trên khuôn mặt = 2 mắt + 2 lỗ mũi + hai lỗ tai + 1 miệng. Ngũ tạng thông với thất khiếu.
(25) từ = kể từ khi.
(26) lục căn = 1-mắt (thị căn), 2-tai (thính căn), 3-mũi (khứu căn), 4-lưỡi (vị căn), 5- thân (xúc căn) , 6- ý (niệm lự căn). Căn = gốc cội, ngụ ý phát sinh, tức là đối cảnh (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp) mà sinh tình.
(27) Hoàn nguyên (trở về với Đại Đạo), nắm được điều thâm sâu cao thượng. Hãy biết muốn được kim đan thì phải tìm [kinh] dạy. Thuốc tiên huyền diệu cùng với khí chân chính (nguyên khí). Khí đến thì dùng ý chí mà chuyển hoá thuần âm trở thành thuần dương.
復源靈掌得高深
識得金丹教化尋
仙藥妙玄和正氣
氣來用意轉純陰
________________________________________
NGUỒN: Thoát Hoá Thiên Kinh, trang 17-21, xuất bản năm 1951 tại Mỹ Tho, do Đâu Suất Thiên Cung – Thanh Tịnh Đàn của Cao Đài Đại Đạo Tiên Thiên Hư Vô (chưởng pháp: Linh Châu Tử).
[ad_2]
Nhịp Cầu Giáo Lý – Lê Anh Minh