Nhất chưởng kinh
Quách Ngọc Bội biên dịch
Nhất Chưởng Kinh còn được gọi là Đạt Ma Nhất Chưởng Kinh (hoặc Đạt Ma Nhất Chưởng Kim, Nhất Chưởng Kim Quang Minh Luân Cục, hay Lục Đạo Thập Nhị Tinh Cung toán số, hay Nhất Chưởng Kinh luận mệnh), chính là tác phẩm của Thiền sư Nhất Hành đời Đường. Nhưng tương truyền là do Bồ Đề Đạt Ma đem vào Trung Quốc từ thời Lương Vũ Đế.
Nhất Hành thiền sư, tên tục là Trương Toại. Ngài sinh năm thứ nhất đời Đường Cao Tông (năm 883 Công Nguyên), người huyện Lạc tỉnh Hà Nam, là nhà Thiên Văn Học, nhà Lý Số Học,… đồng thời là một trong những người đầu tiên sáng lập Phật Giáo Mật Tông Trung Quốc (QNB chú: Hai chữ “Trung Quốc” ở đây nên hiểu là lãnh thổ của nước Trung Quốc vào thời nhà Đường, khi đó chưa xâm lấn Tây Tạng). Đương thời, Hoàng Đế từng bái tăng Nhất Hành làm Quốc Sư, do đó mà cũng có thể biết được học thức và uy vọng của ngài. Nhất Hành không muốn làm quan, chỉ muốn chuyên làm hòa thượng cho nên Hoàng Đế không truy cứu nữa. Thời gian ngài lập thuyết và trước tác các tác phẩm chuyên về Phật sự.
Nhất Chưởng Kinh tuy là nhằm xác định dục tính trí tuệ thiện ác của người xuất gia, nhưng mà về sau được trải qua những tổng kết và phát triển của các thế hệ môn đồ, đã hình thành nên quy mô như ngày nay. Bởi vì nó là tuyệt đối bí truyền trong dân gian, cho nên nó có một chút chậm phát triển về tốc độ cũng như lan truyền, nhưng mà sức sống của môn này vẫn vô cùng thịnh vượng. Ở trong nước (TQ) cũng như Đài, Cảng và nhiều địa phương khác đều có người vận dụng, nhưng mà đều bí mật không bày tỏ cho người khác biết, làm cho người ta chẳng thể biết được làm thế nào mà nó lại đạt được kết quả đúng như vậy, đó chính là nguyên nhân mà khiến cho nó liên tục mang sắc thái tràn đầy thần bí.
Nhất Chưởng Kinh không giống với Tử Bình, Tử Vi, các môn yêu cầu sắp xếp Bát Tự hoặc Mệnh bàn mới có thể tiến hành giải đoán. Nhất Chưởng Kinh chỉ yêu cầu đương số nói chính xác Năm Tháng Ngày Giờ sinh theo Âm Lịch của mình, thì những tình hình của người ta như thế nào sẽ thông qua trong lòng bàn tay chỉ cần vài giây là biết được.
Nhất Chưởng Kinh lấy 12 sao Thiên Quý, Thiên Ách, Thiên Quyền, Thiên Phá, Thiên Gian, Thiên Văn, Thiên Phúc, Thiên Dịch, Thiên Cô, Thiên Nhận, Thiên Nghệ, Thiên Thọ, ở trên 12 cung luân chuyển Năm Tháng Ngày Giờ. Theo đó 12 hạng mục để mà phán đoán cát hung của Phụ Mẫu, Tổ Nghiệp, Huynh Đệ, Phu Thê và Tử Tức của mỗi cá nhân. Nói cách khác, chính là mệnh vận thiếu niên, trung niên, lão niên của mỗi cá nhân. Đương nhiên cát hung của mỗi người đều là do sự tạo thành “Thiện nghiệp”, “Ác nghiệp” của chính bản thân họ từ trong quá khứ cho tới hiện tại.
Môn này không chép Thiên Can, chỉ cần lấy Địa Chi ở trong bàn tay, mà biết được tốt xấu, ưu phiền, hối lận, được mất,… của người ta rõ ràng như ban ngày, chính là cái bí mật độ thế chẳng truyền ra ngoài vậy. Mong rằng người nào có duyên biết được nó thì hãy trân trọng. Ngàn vạn lần không được truyền cho người xấu, nếu không thì hậu quả thực khó lường.
Phép khởi cung của Nhất Chưởng Kinh
1. Phép khởi Năm Tháng Ngày Giờ
Tị – Thiên Văn……….Ngọ – Thiên Phúc…….Mùi – Thiên Dịch……..Thân – Thiên Cô
Thìn – Thiên Gian…………………………………………………………………………………..Dậu – Thiên Nhận
Mão – Thiên Phá…………………………………………………………………………………..Tuất – Thiên Nghệ
Dần – Thiên Quyền….Sửu – Thiên Ách…….Tý – Thiên Quý………..Hợi – Thiên Thọ
Phàm đoán Mệnh thì lấy tả chưởng (bàn tay trái) luân chuyển 12 cung, lấy trên cung Năm mà khởi Tháng, trên Tháng khởi Ngày, trên Ngày khởi Giờ, xem rơi vào cung nào, rồi tổng hợp 4 cung Năm Tháng Ngày Giờ đó để đoán tốt xấu thì tất sẽ biết được hay mất, tươi tốt hay khô héo, sang quý hay nghèo hèn, cùng cực hay hanh thông của một đời người (nhất sinh đắc thất vinh khô cùng thông quý tiện) sẽ hiển hiện trước mắt vậy.
Phàm khởi số, Nam thuận Nữ nghịch, tức là trên cung năm sinh khởi tháng Giêng rồi đếm lần lượt từng cung tới tháng sinh thì dừng lại (nếu người sinh tháng Nhuận, lấy 15 ngày đầu tháng coi như là tháng trước, còn 15 ngày cuối tháng coi như là tháng sau), tiếp theo trên cung tháng sinh đó khởi ngày mồng Một rồi đếm lần lượt từng cung tới ngày sinh thì dừng lại, rồi trên cung ngày sinh khởi giờ Tý mà đếm lần lượt từng cung cho tới giờ sinh thì dừng lại.
Sách ghi chú: Nhất Chưởng Kinh với Tử Vi có cùng một dạng, không lấy Lập Xuân làm Tháng Giêng, điểm này không giống với Tử Bình. (QNB chú: liên quan tới vấn đề này tôi sẽ bình chú ở mục an Mệnh cung bên dưới).
Dưới đây lấy chưởng pháp ví dụ cho 2 mệnh nam nữ:
Như người Nam sinh ra vào năm 2001 tháng 2 ngày 4 lúc 12 giờ (năm đó là Lập Xuân), đổi về Âm Lịch thì được năm Tị, tháng Giêng, ngày 12, giờ Ngọ.
Đầu tiên dùng ngón tay cái bấm vào cung Tị (cung Thiên Văn), từ cung Tị khởi tháng Giêng thì người sinh tháng Giêng lại ở ngay tại cung Tị luôn (cung Thiên Văn), tiếp đó tại cung Tị khởi ngày mồng Một đếm thuận lần lượt tới ngày 12 thì đến cung Thìn (cung Thiên Gian), rồi lại từ cung Thìn khởi giờ Tý đếm thuận lần lượt tới giờ Ngọ thì đến cung Tuất (cung Thiên Nghệ).
Như vậy, 4 cung của người đó đã xuất hiện là:
Năm, Tháng, tại cung Tị – Thiên Văn cung
Ngày tại cung Thìn – Thiên Gian cung
Giờ tại cung Tuất – Thiên Nghệ cung.
Như người nữ sinh vào năm 1970 tháng 10 ngày 23 lúc 20 giờ, đổi về Âm Lịch là năm Tuất, tháng 9, ngày 24, giờ Tuất.
Đầu tiên, đem ngón cái bấm vào cung Tuất đại diện cho Địa Chi năm sinh (cung Thiên Nghệ), tại cung Tuất khởi tháng Giêng, đếm nghịch tới tháng 9 tại cung Dần (cung Thiên Quyền), tiếp đó từ cung Dần khởi ngày mồng Một đếm nghịch tới ngày 24 thì đến cung Mão (cung Thiên Phá), tiếp đó từ cung Mão khởi giờ Tý đếm nghịch cho tới giờ sinh là giờ Tuất thì đến cung Tị (cung Thiên Văn).
Như vậy 4 cung của người nữ ấy đã xuất hiện là:
Năm tại cung Tuất – Thiên Nghệ cung
Tháng tại cung Dần – Thiên Quyền cung
Ngày tại cung Mão – Thiên Phá cung
Giờ tại cung Tị – Thiên Văn cung
Lấy 2 chưởng này làm ví dụ, ngoài ra cứ theo đó mà suy ra.
2. Phép khởi Đại Vận
Đại Vận theo trong bàn tay, trên năm khởi tháng, Nam thuận Nữ nghịch, luân chuyển đếm tới tháng sinh khởi vận. Tại cung chứa tháng sinh khởi Vận thứ nhất, cung kế tiếp là Vận thứ hai, mỗi Vận quản 10 năm.
Thí dụ như, người sinh vào giờ Thìn ngày mồng 8 tháng 3 năm Tý, liền theo cung Tý (cung Thiên Quý) mà khởi tháng Giêng, đếm tới tháng 3 thì rơi vào cung Dần (cung Thiên Quyền), Dần là Vận thứ nhất (1-10 tuổi), Mão (cung Thiên Phá) là vận thứ hai (11-20 tuổi), ngoài ra cứ theo đó mà suy.
Ở trên Đại Vận lại phân chia nữa, mỗi một năm đi một vận, như tại Đại Vận thứ nhất trên cung Dần, 1 tuổi tại Dần, 2 tuổi tại Mão, 3 tuổi tại Thìn,… 10 thì quay lại cung Dần. Tại Đại Vận thứ hai trên cung Mão, 11 tuổi tại Mão, 12 tuổi tại Thìn,… 20 tuổi lại quay trở về trên cung Mão.
Ngoài ra cứ theo đó mà suy.
QNB chú: Ở thí dụ này không nói rõ, nhưng ta hiểu rằng đương số là Nam giới nên mới tính Đại Vận đi thuận như vậy.
Đối với Nữ thì đi nghịch, vậy từ trên cung Tý (cung Thiên Quý) mà khởi tháng Giêng, đếm tới tháng 3 thì rơi vào cung Tuất (cung Thiên Nghệ), Tuất là Vận thứ nhất, Dậu (cung Thiên Nhận) là Vận thứ hai vậy, ngoài ra cứ thế mà suy.
Tại Đại Vận lại phân chia tiếp, mỗi năm đi một vận, như Đại Vận thứ nhất trên cung Tuất, 1 tuổi tại Tuất, 2 tuổi tại Dậu, 3 tuổi tại Thân,… 10 tuổi lại quay về Tuất. Tại Đại Vận thứ hai trên cung Dậu, 11 tuổi tại Dậu, 12 tuổi tại Thân,… 20 tuổi lại quay về cung Dậu.
Ngoài ra cứ theo đó mà suy.
Mỗi năm như thế, từng vận từng năm luân chuyển.
3. Phép khởi Tiểu Vận
Tiểu Vận theo trong bàn tay, trên năm khởi tháng, trên tháng khởi ngày, Nam thuận Nữ nghịch, luân chuyển đếm tới ngày sinh khởi Vận. Cung của ngày sinh là vận năm thứ nhất, cung tiếp theo là vận năm thứ hai.
Thí dụ như, người sinh vào giờ Thìn ngày 8 tháng 3 năm Tý, liền từ cung Tý (cung Thiên Quý) khởi tháng Giêng, đếm tới tháng 3 thì đến cung Dần (cung Thiên Quyền), trên cung Dần khởi đếm tới ngày mồng 4 (*), cuối cùng rơi vào cung Tị.
Nữ thì đi nghịch, tức theo cung Tý (cung Thiên Quý) khởi tháng Giêng, đếm tới tháng 3 thì rơi vào cung Tuất (cung Thiên Nghệ), theo Tuất khởi đếm đến ngày mồng 4 (**) thì rơi vào cung Mùi, tại Mùi (cung Thiên Dịch) là một tuổi, còn 2 tuổi thì tại Ngọ (cung Thiên Phúc), tại Tị (cung Thiên Văn) là 3 tuổi), ngoài ra cứ theo đó mà suy.
Trên đây mỗi Vận chủ 1 năm.
QNB chú: (*) & (**) theo như dữ liệu của ví dụ cung cấp thì đương số sinh ngày mồng 8, nhưng khi tính thì lại tính đến ngày mồng 4, như vậy là thí dụ này viết nhầm lẫn trong khi đếm ngày sinh. Phía trên tôi dịch nguyên văn, độc giả lưu ý vậy.
Tổng Kết:
Nam Nữ trên tháng khởi Đại Vận, mỗi Vận quản 10 năm.
Nam Nữ trên ngày khởi Tiểu Vận, mỗi Vận quản 1 năm.
4. Phép khởi Mệnh cung
Tại Thập Nhị cung thì phép an cung Mệnh so với Tử Bình là khác biệt. Đem cung của giờ sinh, Nam thuận Nữ nghịch, đếm tới Mão thì dừng, tức thì an cung Mệnh vậy.
Như thí dụ phía trên mà Nam mệnh sinh vào giờ Ngọ ở trên cung Thiên Nghệ, theo cung Thiên Nghệ mà khởi Ngọ rồi đếm tới Mão thì rơi vào cung Mùi, an Mệnh cung vào Mùi (cung Thiên Dịch).
Như thí dụ Nữ mệnh sinh giờ Tuất ở trên cung Mão, theo cung Mão khởi giờ Tuất rồi đếm nghịch đến Mão thì rơi vào cung Hợi (cung Thiên Thọ) (QNB chú: chỗ này tác giả sách này cũng tính nhầm, lẽ ra từ cung Mão mà khởi Tuất rồi đếm nghịch chiều đến Địa Chi Mão thì sẽ rơi vào cung Tuất mới đúng).
QNB bình chú thêm:
Việc khởi Mệnh cung bằng phép đếm từ Địa Chi giờ tới Mão thì ngừng lại để an Mệnh là giống như phép an Mệnh của môn Thất Chính Tứ Dư (Quả Lão Tinh Tông) và môn Đạo Tạng Tử Vi Đẩu Số (Thuật Thiên Cơ, Thập Bát Phi Tinh). Các chi phái của các môn ấy đều đa phần sử dụng Tháng xác định bằng Tiết Khí thái dương lịch là chính, đối với môn Thập Bát Phi Tinh thì có nhiều phái chỉ sử dụng Tháng xác định bằng Sóc Vọng thái âm lịch. Vì thế các học giả cần lưu ý cân nhắc để khi vận dụng trong môn Nhất Chưởng Kinh này như thế nào cho phù hợp với quan niệm và lý luận về lịch pháp đối với thuật số của bản thân mình.
Nhất Chưởng tuyệt học
Tôi nói qua về phép khởi Nhất Chưởng Kinh của một phái đã trình bày với tôi:
Cũng là Dương nam thuận, Âm nữ nghịch, Âm nam nghịch, Dương nữ thuận. Trên năm khởi tháng, trên tháng khởi ngày, trên ngày khởi giờ, trên giờ khởi Mệnh cung, gặp tháng nhuận thì 15 ngày đầu tháng coi như là tháng trước, 15 ngày cuối tháng thì coi như là tháng sau.
Khởi một ví dụ thực tế cho quý vị xem: năm âm lịch Tị tháng 5 ngày 17 giờ Dậu, Nam.
Người này là Âm Nam, nên nghịch khởi, được trên năm là Thiên Văn, trên tháng là Thiên Ách, trên ngày là Thiên Nhận, trên giờ là Thiên Quý, lập Mệnh là Thiên Phúc.
Từ Mệnh cung Thiên Phúc, khởi thuận Tài Bạch, Huynh đệ, Điền Trạch, Tử Tức, Nô Bộc, Thê Thiếp, Tật Ách, Thiên Di, Quan Lộc, Phúc Đức, tổng cộng 12 cung.
Từ trên tháng khởi Đại Vận, đi nghịch, mỗi 7 năm là một Vận tùy Thiên Ách khởi
Từ trên ngày khởi xuất Tiểu Vận, Thái Tuế tọa Mùi là Thiên Dịch, Tiểu Vận tùy trụ ngày trên Thiên Thiên Nhận khởi.
Lưu niên thần sát thập nhị cung là Thái Tuế, Thái Dương, Thanh Long, Thái Âm, Quan Phù, Tiểu Hao, Tang Môn, Chu Tước, Bạch Hổ, Quý Nhân, Điếu Khách, Bệnh Phù, từ chỗ Thái Tuế tọa Mùi, sở dĩ nhật trụ tọa Nhận, thuận khởi lưu niên mỗi một năm khởi vận, Nhận là Thanh Long, cho nên cùng cùng Thanh Long chiếu hạn, sang năm sau Thái Tuế tại Cô, Tiểu Hạn liền tới Thiên Nghệ, năm chuyển qua 1 cung, đương nhiên khởi vận và khởi cung ở chỗ này có rất nhiều bí quyết, không được cái bí quyết có thể nói là chẳng có bằng chứng về cát hung, Tứ Trụ, Mệnh Cung, Đại Vận, Lưu Niên, Nguyệt Kiến, mọi thứ đều có quan hệ Hình Xung Khắc hại của Địa Chi, có thể nói là chính xác phi thường, chân truyền Nhất Chưởng Kinh như thế, nếu như không được bí quyết ấy, chỉ dựa vào phép khởi bên trên, tôi cho rằng xem như khởi Mệnh ấy là cát hung không có bằng cứ. Nhất Chưởng Kinh có thể dùng để cầu con cái, có thể dùng trong thuật trạch cát, có thể dùng để chiêm khóa (bấm độn), nếu như chỉ vẻn vẹn không dùng ngoài những tính toán bát tự thì cũng quá ít công dụng. Nên biết rằng Nhất Hành thiền sư chính là Quốc Sư, có thể coi là người phi thường, đồng thời Mệnh bàn Nhất Chưởng Kinh chân chính khởi xuất là rất giống với Tử Vi Đẩu Số. Cũng có Thiên Địa Nhân tam bàn, cho nên mới nói, không thể xem thường được, quý vị toán khởi mệnh phỏng theo Tứ Trụ cũng không phù hợp.
QNB chú: Cái cách mà tác giả chú thêm ngay bên trên đây, với 12 cung chức Mệnh -> Tài -> Bào -> Điền… về thứ tự là hoàn toàn giống với 12 cung chức của môn Thập Bát Phi Tinh (thuật Thiên Cơ của Đạo Tạng), chỉ có điều là ngược chiều nhau mà thôi. Nhưng cũng có rất nhiều người dùng môn Nhất Chưởng Kinh này với việc an 12 cung chức theo thứ tự bên trên Nghịch chiều, giống như môn Thập Bát Phi Tinh và Thất Chính Tứ Dư.
Thập nhị tinh luận Mệnh
Phật đạo – Thiên Quý tinh, tức là giờ Tý. Bấm chưởng kinh (dọc trên bàn tay) thì chỗ của nó trên tay trái là nằm ở ngay bên dưới ngón vô danh (ngón đeo nhẫn, áp út).
Thời thần lạc tại thiên quý tinh,
Nhất sinh thanh quý sự hòa đồng,
Chí khí bất phàm nhân xuất loại,
An nhiên tự tại tính minh thông.
(Canh giờ rơi vào Thiên Quý tinh
Trọn đời thanh quý việc hòa bình
Chí khí phi phàm tài xuất chúng
An nhiên tự tại tính thông minh)
Sao này chủ người thanh cao, có đức, có thể biến việc lớn thành nhỏ, tai họa không xâm hại được. Nếu như được thêm các sao Thiên Quyền Lộc Mã trợ giúp thì thì vinh hoa phú quý. Nếu như phạm nặng (trùng lặp nhiều) thì chủ khóc lóc thảm thiết, là kẻ nuốt lời, thuộc dạng trung- hạ- tiểu-nhân, chỉ là mệnh bán cát. Nếu gặp Cô, Ách, Phá, Nhận chiếu Mệnh thì là người chuyên can gián ở triều đình, tuy gặp Quý nhưng mà không được toàn cát vậy.
Quỷ đạo – Thiên Ách tinh, tức là giờ Sửu. Bấm chưởng kinh, chỗ của nó trên bàn tay trái là ở vị trí ngay bên dưới của ngón giữa.
Thời tại ách trung nhân hỗn độn,
Tinh tinh tác sự hựu si ngốc,
Thử nhân đái tật phương duyên thọ,
Hoàn tu lao lục tác sinh nhai.
(Giờ ở trong Ách người đần độn
Lim dim làm việc lại si ngốc
Người này có tật thì thêm thọ
Còn phải vất vả để sinh nhai)
Sao này tại Mệnh chủ nhân có tật, nếu gặp Phá, Nhận phạm xung (hay trùng lặp nhiều) thì tai nạn bệnh tật sẽ nặng, nếu gặp Quyền Quý tinh thì chủ nhân bệnh nhẹ và được coi là trung- thượng-mệnh vậy. Nếu gặp các sao Cô, Dịch, Gian thì chủ làm việc trì lệnh, cuộc đời lao lực, định rằng chủ long đong lìa nhà xa tổ, chính là trung- hạ-mệnh vậy.
Nhân đạo – Thiên Quyền tinh, tức là giờ Dần. Bấm chưởng kinh thì chỗ của nó trên bàn tay trái ở ngay bên dưới của ngón tay trỏ.
Thời thần lạc tại thiên quyền tinh,
Tính cách thao trì chí khí hùng,
Tác sự sai trì nhân dã hỉ,
Nhất hô bách nặc hữu uy phong.
(Canh giờ rơi vào Thiên Quyền tinh
Tính cách năng động, chí khí hùng
Làm việc cẩn trọng người cũng hợp
Gọi trăm người dạ, có oai phong).
Sao này tại Mệnh, chủ nhân thông minh, tuấn tú, phóng khoáng, tấm lòng có quyền có thế, nhiều mưu trí lắm tài năng, nếu gặp các sao Quý, Phúc, Văn, Thọ tương trợ thì người người khâm phục tôn kính, có quyền mà không quyền là trung mệnh, nếu như gặp phải Ách, Phá, Cô, Dịch tại Mệnh thì làm việc lao lực, tài bạch chẳng tụ, lăng xăng vô ích, cái cần thì không đến, cái đến thì không cần, là trung-mệnh phiêu lãng vậy.
Súc đạo – Thiên Phá tinh, tức là giờ Mão. Bấm chưởng kinh, chỗ của nó trên tay trái là đốt thứ nhất (tính từ lòng bàn tay lên) của ngón tay trỏ.
Thời thần lạc tại thiên phá cung,
Đôi kim tích ngọc dã thành không,
Dạ miên toán kế đồ gia phú,
Sao đại thùy tri hữu chú trùng.
(Canh giờ rơi vào Thiên Phá cung
Ngọc vàng chồng chất cũng thành không
Đêm ngủ tính kế hòng giàu có
Úp túi mới hay mọt đục thủng)
Sao này chủ tài bạch hư không, tổ nghiệp hao tán, nếu được các sao Quyền, Quý tương trợ thì cũng là trung-mệnh, nếu như gặp Dịch, Nhận, Cô, Ách mà phạm nặng (trùng lặp nhiều) thì làm việc gian nan, trùng trùng phá bại, là hạ-mệnh phiêu lãng đông tây vậy.
Tu-La (A Tu La) đạo – Thiên Gian tinh, tức là giờ Thìn. Bấm chưởng kinh thì chỗ của nó trên tay tráu là ở đốt thứ hai (tính từ lòng bàn tay lên) của ngón trỏ.
Đại như thương hải tế như mao,
Phật khẩu xà tâm lưỡng diện đao,
Gian giảo ngoan mưu tàng độc tính,
Ý đa phiên phúc tối nan điều.
(Lớn như biển xanh, mảnh như tơ
Miệng Phật tâm xà, dao hai lưỡi
Gian giảo ác mưu tàng độc tính
Ý nhiều tráo trở rất khó giải)
Sao này chiếu Mệnh, chủ nhân trọn đời lao lực, vất vả bôn ba, chỉ đằng đông mà nói đằng tây, cơ biến khó lường. Nếu được Thiên Quý, Thiên Phúc tương trợ thì tài bạch giàu có, cũng là thượng-mệnh. Nếu gặp Thiên Quyền, Thiên Nhận thì tất là người gian quyền tàn nhẫn, lời nói thì hay mà hành động thì không trong sạch, tính cố chấp, có mưu hung, chẳng có lòng bao dung, tham sân quá lớn. Nếu gặp Cô, Phá, Ách, Dịch, định rằng là người keo kiệt tham lam ghen tị, chính là hạ-mệnh vậy.
Tiên đạo – Thiên Văn tinh, tức là giờ Tị. Bấm chưởng kinh thì chỗ của nó trên bàn tay trái là ở đốt trên cùng của ngón trỏ.
Mệnh ngộ thiên văn tú khí thanh,
Thông minh trí tuệ ý tinh tinh,
Nam tài nữ tú thân thanh cát,
Mãn phúc văn chương cẩm tú thành.
(Mệnh gặp Thiên Văn khí thanh tú
Khôn ngoan trí tuệ ý thông minh
Nam tài nữ đẹp thân trong sạch
Đầy bụng văn chương gấm vóc thành).
Sao này chiếu Mệnh, chủ nhân thông minh lanh lợi, học thức hơn người, làm việc tốt đẹp, nếu gặp Thiên Quý, Thiên Phúc, Thiên Nghệ tương trợ thì định rằng chủ người thành công đỗ đạt (ngao đầu độc chiếm, hổ bảng đăng danh) kề bên thềm vàng điện ngọc. Nếu gặp Thiên Quyền, Thiên Nhận thì văn võ đa tài, chính là thượng-mệnh. Nếu như gặp Phá, Ách, Cô, Dịch cùng phạm nặng (trùng lặp nhiều) thì học nhiều mà thành công chẳng được là bao, không phải kẻ chuyên viết văn làm sách mà là người vân du biển hồ, chính là hạ-mệnh của thuật sĩ, của người làm nghề thủ công vậy.
Phật đạo – Thiên Phúc tinh, tức là giờ Ngọ, Bấm chưởng kinh thì chỗ của nó trên tay trái là ở đốt trên cùng của ngón giữa.
Mệnh phùng thiên phúc thị sinh thời,
Định nhiên thương khố hữu doanh dư,
Khoan hồng đại lượng căn cơ ổn,
Tài bạch quang hoa bách phúc tề.
(Mệnh gặp Thiên Phúc là giờ sinh
Định rằng kho đụn có dồi dào
Khoan hồng đại lượng, căn cơ vững
Tài bạch rực rỡ, phúc tụ nhiều)
Sao này chiếu Mệnh, chủ nhân được hưởng phúc thanh nhàn, tính tình tự tại, độ lượng khoang hồng, căn cơ vững chắc, lại được thêm Quyền, Nhận tương trợ thì là mệnh giàu có, cơm áo sung túc, kho đụn dồi dào. Nếu gặp Dịch, Cô, Gian, Phá tinh thì tất chủ tham lam bủn xỉn ghen ghét đố kị, là hạ-mệnh cơm áo gian nan vậy.
Quỷ đạo – Thiên Dịch tinh, tức là giờ Mùi. Bấm chưởng kinh, chỗ của nó trên tay trái là ở đốt trên cùng của ngón vô danh (ngón đeo nhẫn, áp út).
Nhân đạo nhược phùng thiên dịch tinh,
Bàn di ly tổ bất tằng đình,
Thân tâm bất đắc phiến thì tĩnh,
Tẩu biến thiên nhai thị vị trữ.
(Người ta nếu gặp sao Thiên Dịch
Dời nhà xa tổ chẳng thể dừng
Thân tâm chẳng được giờ nào tịnh
Đi khắp chân trời vẫn chưa yên).
Sao này chiếu Mệnh, chủ nhân mang mệnh ly hương biệt tỉnh, tình cốt nhục nhiều lao lực, thân tâm tự thành tự lập. Nếu gặp 5 sao Phúc, Quyền, Quý, Nhận, Thọ thì chủ làm quan cung cấp xe, ngựa, nhờ đó mà mệnh được hiển vinh. Nếu như gặp các sao Cô, Phá, Ách thì như gió thổi lá cây trôi nổi trên sóng nước, tâm vượn ý ngựa (tâm viên ý mã – ý nói linh động chẳng được tĩnh), là hạ-mệnh ra ngoài vân du trên giang hồ vậy. Nếu phạm nặng (trùng lặp nhiều) mà Nhận, Ách tương xung thì tất là dạng những kẻ bị lưu đày mà thôi.
Nhân đạo – Thiên Cô tinh, tức là giờ Thân. Bấm chưởng kinh, chỗ của nó nó trên tay trái là ở đốt trên cùng của ngón út.
Thời thần nhược phùng thử thiên cô,
Lục thân huynh đệ hữu như vô,
Không tác không môn thanh tĩnh khách,
Tổng hữu thê nhi tình phân sơ.
(Canh giờ nếu gặp sao Thiên Cô
Lục thân huynh đệ có như không
Chẳng ở cửa Không, thanh tĩnh khách
Thì tình cũng tách biệt vợ con)
Sao này chiếu Mệnh, chủ trọn đời cô độc, nam nhân mà gặp thì lục thân vô tình, nữ nhân mà gặp thì khắc con hại chồng, người mà phạm nặng (trùng lặp nhiều) sao Thiên Cô thì phản chuyển thành không cô độc, tất sẽ là nửa đời nửa đạo, nếu được các sao Quyền, Phúc, Quý, Thọ tương trợ thì chính là thượng-mệnh vậy, nhưng cũng không tránh được thiếu niên có hình khắc. Nếu như gặp các sao Phá, Dịch, Gian, Ách, Nhận thì tất sẽ là hạ-mệnh phiêu lưu mây nước. Phàm là tuyển chọn nguyên cớ xuất gia của mệnh người nào đó thì chủ yếu xem sao Thiên Cô làm chủ.
Súc đạo – Thiên Nhận tinh, tức là giờ Dậu. Bấm chưởng kinh thì chỗ của nó trên tay trái là ở đốt thứ hai của ngón tay út.
Thiên nhận vi nhân tính đại cương,
Thị phi chung nhật yếu tranh cường,
Trì đao lộng phủ hình tâm trọng,
Hảo tự tướng quân nhập chiến trường.
(Người mang Thiên Nhận, tính cứng rắn
Thị phi cả ngày cần tranh thắng
Cầm đao vung búa tâm hình khắc
Hợp với tướng quân ở chiến trường)
Sao này chiếu Mệnh, chủ nhân tính cách cả đời rất cương mãnh, táo bạo tự hành động, tự cho mình đúng mà không quan tâm cảm xúc của người khác, chẳng được hưởng khí nhàn, thói quen nóng tính vượt qua các sự việc, nếu được các sao Quyền, Quý, Phúc thì sẽ là người lễ nghĩa không dung tục tầm thường, đủ mà chế hóa cường bạo, chính là thượng-mệnh vậy. Nếu như gặp Cô, Phá, Gian, Ách, thì to gan lớn mật, hình thể tàn tật, khó tránh khỏi cái chết không toàn thây, là hạ-mệnh vậy. Nếu ác tinh ít mà cát tinh nhiều thì cũng là trung-mệnh, còn phạm nặng thì tất chủ tàn tật.
Tu La đạo – Thiên Nghệ tinh, tức là giờ Tuất. Bấm chưởng kinh thì chỗ của nó trên tay trái là ở đốt dưới cùng của ngón út.
Thiên nghệ sinh nhân tính tối linh,
Tương nam tác bắc sính đa năng,
Húy vi kiến linh ky quan xảo,
Đáo xử hòa đồng tác sự cần.
(Người mang Thiên Nghệ tính rất khéo
Đem nam làm bắc trổ đa tài
Gọi là Kiến Linh mưu kế khéo
Nơi nơi hòa đồng, làm việc chăm).
Sao này chiếu Mệnh, chủ nhân là người đa trí đa năng, khéo léo lanh lợi, gần quý nhân, nếu phạm nặng (trùng lặp nhiều) thì chủ tư chất đần độn, lại biếng nhác ngoan cố, học nhiều mà thành ít, chỉ ngang vai ảnh hưởng với chúng thợ thuyền mà thôi. Nếu được các sao Thiên Quyền, Quý, Phúc, Văn, Thọ đầy đủ thì cương nhu tương tế, tuy là nghệ thuật cũng có thể thành danh. Nếu là Thiên Cô, Thiên Văn, thì có thể làm tăng đạo xuất tục, chính là trung-mệnh. Nếu gặp Phá, Ách, thì nghề nghiệp chẳng có thành tựu, rốt cuộc là hạ-mệnh.
Tiên đạo – Thiên Thọ tinh, tức là giờ Hợi. Bấm chưởng kinh thì chỗ của nó trên tay trái là ở bên dưới của ngón tay út.
Phu thê sinh thời mệnh tối trường,
Thượng cung hạ kính tính ôn lương,
Nhất văn thiên ngộ tâm từ thiện,
Hỉ nộ trung gian hữu chủ trương.
(Giờ sinh “phu thê”, mệnh thọ trường
Trên cung dưới kính, tính ôn lương
Nghe một hiểu ngàn, tâm từ thiện
Trong lúc giận mừng có chủ trương)
QNB chú: hai từ “phu thê” 夫妻 ở trong câu đầu tiên của bài này tôi cho là có sự nhầm lẫn, bởi vì đang nói về Tiên đạo – Thiên Thọ tinh ở cung Hợi, mà cung Hợi thì tương ứng với cung Song Ngư chứ không phải là cung Song Tử (tương ứng với cung Thân, cung này còn gọi là “cung Dâm” vì hình dáng nó như Phu Thê vợ chồng). Độc giả lưu ý vậy.
Sao này chiếu Mệnh, chủ nhân trường thọ khỏe mạnh, trí tuệ thông minh, làm việc ôn hòa lương thiện có tâm cứu người, không làm tổn thương người khác, nhiều khi làm ơn mà mắc oán, làm việc thật thà, người người khâm phục kính trọng, bình sinh an ổn, có trước có sau, mừng hay giận đều có chủ định kiềm chế được mà không để lộ ra. Nếu được Thiên Quyền, Phúc, Quý, Nhận tinh tương trợ thì tất chủ khoan hồng đại lượng, phúc thọ kéo dài, nếu phạm nặng (trùng lặp nhiều) thì có thọ mà không được phúc, phạm Thiên Cô, Thiên Ách thì chính là trung-mệnh vậy.
Tổng luận về 12 sao
Nói rõ về phép xem Mệnh, cần phải tra xét cung hạn số là đầu tiên.
Nam thì e ngại Cô, Dịch hung tinh, có Thiên Phúc Thiên Quý thì không đáng ngại nữa.
Nữ thì e ngại các sao Phá, Nhận, Ách, có Thiên Quyền trợ giúp thì vượng phu ích tử, có Thiên Văn, Thiên Nghệ thì tính khéo, có Thiên Phúc Thiên Quý Thiên Thọ thì mệnh vững vàng có thực lực, có Thiên Văn mà phạm nặng (trùng lặp nhiều) thì lại chủ bần tiện dâm ô, bôi xấu tổ tông, hành vận mà gặp 2 lần trùng thì mệnh hạn rất tối, Nguyệt phận (trong tháng) mà gặp Cô, Phá, Ách thì tháng đó cũng chủ hung tai.
Người nam mệnh mà 2 lần trùng Thiên Quý thì quý mà chẳng quý, người mà 2 lần trùng Thiên Quyền thì tiệt chẳng có quyền.
Thiên Văn trùng thì nam nữ dâm lạm.
Nữ mệnh mà Thiên Quý trùng, cuối cùng có thể gặp quý, nếu thấy 4 lần trùng thì khắc con mà cơm áo được giàu sang.
Thiên Phúc trùng thì y lộc tự nhiên.
Thiên Ách tại ngày giờ trùng thì phẩn chuyển thành chẳng gặp tai ách bệnh tật. Gặp tam Ách trùng thì chẳng những không bị ách mà còn có y lộc dư dả.
Mệnh hạn cùng có Thiên Quyền tinh, hư thực mà hình thê khắc tử.
Người tứ Ách tinh chủ có 2 con, y lộc có thừa.
Người Mệnh có 2 Quyền tinh, trang trọng chính đại. Mệnh có 3 Quyền tinh, tất chủ uy quyền.
Người có 2 Thiên Phá tinh, y lộc phản chuyển thành ổn định vững chắc. Có 3 Phá tinh thì phá bại, là hạ-mệnh. Có 4 Phá tinh thì chả có y lộc và kém thọ.
Người gặp trùng Thiên Gian tinh, phản chuyển thành chẳng gian mà chính đại. Có 3 Gian tinh thì lại là người xảo quyệt hạ lưu. Có 4 Gian tinh thì chủ bị lưu đày phá bại.
Người có Văn Tinh trùng thì phú quý, có 3 Văn Tinh thì ít y lộc nhiều văn học, có 4 Văn tinh thì khắc vợ và mắt có tật.
Người có 2 Phúc tinh thì khắc vợ mà trước được sang qúy, có 3 Phúc tinh thì được thọ nhưng vô phúc, có 4 Phúc tinh thì áo cơm dồi dào.
Người có 2 Thiên Dịch tinh thì phản chuyển thành chủ nữ quý, có 3 Dịch thì chủ hạ tiện, có 4 Dịch thì được nô nộc đắc lực.
Người có 2 Cô tinh thì có con cháu, có 3 Cô tinh thì nữ khắc chồng, nam khắc con, có 4 Cô tinh thì vợ tham mà nghèo.
Người có 2 Nhận tinh thì lại chủ từ thiện, có 3 Nhận tinh chính là quý nhân có quyền quý, có 4 Nhận tinh thì quyền quý nhưng yểu thọ.
Người có 2 Nghệ tinh thì hình thê khắc tử, có 3 Nghệ tinh thì hôn muội tối tăm, có 4 Nghệ tinh thì lận đận chẳng thành.
Người có 2 Thọ tinh thì tính ngu đần, có 3 Thọ tinh thì xuất gia mà thọ cao, có 4 Thọ tinh thì lìa nhà xa tổ, nghèo mà thiện.
Quý Dịch nhị trùng đa lao lục,
Phá bại phùng Văn tất yểu vong,
Quyền nhược kiến Cô đa hình khắc.
(Quý, Dịch mà 2 lần trùng lặp thì đa phần là lao lực
Phá bại gặp Văn thì sẽ yểu vong
Quyền mà gặp Cô thì lắm hình khắc)
Nhị trùng thiên thọ giả niên tuy cao nhi phá bại chiêu phi,
Thiếu niên trùng gian giả tính khan tham nhi thọ diệc bất vĩnh.
(Người mà Thiên Thọ trùng 2 lần thì tuổi càng cao sẽ phá bại chiêu chuốc thị phi
Kẻ thiếu niên gặp Thiên Gian trùng thì tính keo kiệt tham lam mà thọ cũng chẳng dài)
Nghệ nhược phùng gian, hình thương phá bại.
Nhận nhược kiến ách, tật bệnh bần cùng.
(Thiên Nghệ nếu gặp Thiên Gian thì hình thương phá bại
Thiên Nhận nếu gặp Thiên Ách thì bệnh tật bần cùng).
Sinh thì phùng nhị ách, tảo tuế hung vong.
Tứ trụ hữu tam cô, trung niên phá bại.
(Giờ sinh gặp 2 Ách thì tuổi trẻ sẽ chết hung
Tứ trụ có 3 Cô thì trung niên phá bại).
Nhận ách đồng cung, tổn tự kỷ nhi thương thủ túc,
Quý thọ quyền sinh niên nguyệt, tất phong tổ nghiệp nhi hiển môn lư.
Phá nhận cô ách hội vu nhất thì, nan vi phu thê tử tức.
(Nhận, Ách, đồng cung tự tổn mình lại hình thương anh em
Quý, Thọ, Quyền ở năm tháng sinh tất sẽ là tổ nghiệp to lớn lên, cửa nhà thêm rạng rỡ.
Phá, Nhận, Cô, Ách hội cùng lúc thì khó có vợ chồng con cái).
Thập nhị tinh chi lý, vu tư bị hĩ luận,
Nhất sinh chi mệnh, thục hữu nghi yên,
Trí giả tường thẩm, nhi tế thôi chi,
Tự khả cứu họa phúc vu tiền tri dã.
(Cái lý của 12 sao có luận đầy đủ nơi đây
Mệnh của 1 đời, ai người có nghi ngờ nữa
Kẻ trí giả xem xét cho tường, mà đoán cho tinh
Tự có thể nghiên cứu được việc tiên tri về họa phúc).
Bài quyết đoán mệnh cát hung của Nhất Chưởng Kinh
Phàm khán mệnh tu tế tường, nam phúc tất phú, nữ quý phản tiện.
Tứ trụ hữu nhị tam trùng cát tinh giả, tài nguyên hữu ích, gia đạo tất xương.
Nhược tứ trụ giai cát tinh giả tất đại phú đại quý nhân dã.
Tứ trụ hữu hung tinh nhị tam trùng giả, bôn ba lao lục, tân khổ hạ lưu.
Nhược tứ trụ giai hung tinh, như gian, phá, dịch, nhận giả, đại tắc tỷ lưu khất thảo.
Nhược hoặc tiền sinh khán kinh tác thiện giả, trị thử hung tinh bất quá bần cùng nhẫn khí thôn thanh khổ nhi dĩ.
(Phàm xem mệnh cần tỉ mỉ cặn kẽ, nam gặp Phúc thì giàu, nữ gặp Quý thì tiện
Người mà Tứ Trụ có 2 3 lần trùng cát tinh, tài nguyên tăng tiến, gia đạo hưng thịnh
Nếu Tứ Trụ đều có cát tinh tất sẽ giàu to, là người đại quý vậy.
Tứ Trụ có 2 3 lần trùng hung tinh thì bôn ba lao lực, cay đắng hạ lưu.
Nếu Tứ Trụ toàn hung tinh như Gian, Phá, Dịch, Nhận thì lưu lạc ăn mày.
Nếu người nào đó từng làm việc thiện, gặp các sao hung ấy chẳng qua chỉ bần cùng bấm bụng chịu khổ mà thôi).
Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất là dương
Sửu, Mão, Tị, Mùi, Dậu, Hợi là âm.
Tứ Trụ dương thì trước khắc cha, còn toàn âm thì đầu tiên khắc mẹ.
Nam phạ cô, dịch, phá, ách chư tinh, hữu phúc, quý nhị tinh bất phương.
Phụ phạ cô, dịch, phá, ách chư tinh, hữu phúc, thọ, quyền tinh vô ngại.
(Nam ngại các sao Cô, Dịch, Phá, Ách, có các sao Phúc, Quý thì không ngại
Nữ ngại các sao Cô, Dịch, Phá, Ách, có các sao Phúc, Thọ, Quyền thì không ngại)
Nữ mệnh thiên quý phùng thiên dịch,
Hoa tiền nguyệt hạ hội giai kỳ.
Nữ mệnh cô ách phùng thiên dịch,
Đường tiền sử hoán dữ sương cư.
(Nữ mệnh Thiên Quý gặp Thiên Dịch
Dưới trăng trước hoa gặp tươi đẹp
Nữ mệnh Cô, Ách gặp Thiên Dịch
Trước nhà hô hoán và góa bụa)
Nhược trị thiên văn nhẫn khí thôn thanh
Dữ dịch sư ni kỹ giả phục hà nghi.
(Nếu gặp thêm Thiên Văn thì bấm bụng chịu đựng,
Cùng với Dịch thì làm ni sư kỹ nữ chẳng còn nghi ngờ gì).
Đãn phàm cung tinh mạc phạm trùng,
Trùng quý bất quý, trùng phúc vô phúc, trùng nghệ vi nhân mộng độn.
Trùng văn tuy học vô thành, song ách hạn tuế hung vong, túng trưởng thành biến ngu ngoan.
(Hễ là cung tinh thì chớ phạm trùng
Trùng Quý chẳng quý, trùng Phúc vô phúc, trùng Nghệ là người đần độn.
Trùng Văn tuy học mà chẳng thành, hai Ách hạn năm hung vong, dẫu có trưởng thành cũng ng* d*t).
Trùng phá bất vi phá, trùng cô khả xuất gia,
Trùng dịch bất lao lục, trùng gian bất gian, trùng nhận bất nhận.
(Trùng Phá thì không bị phá tán, trùng Cô thì có thể xuất gia
Trùng Dịch thì không bị vất vả, trùng Gian thì không gian xảo, trùng Nhận sẽ không chém giết).
Tam cô ấu khả xuất gia, nhược bất xuất gia tắc tất chủ trung niên bại tẫn, khắc tử thương thê,
Tam cô nhược trị nhất phúc hoặc trung quý hoặc nhất thọ hoặc nhất văn, vi tăng đạo tất thành chính quả; túng tại gia diệc phi phàm tục.
(Tam Cô thì thuở bé có thể xuất gia, nếu chẳng xuất gia thì tất đến trung niên bại hết, khắc con hại vợ,
Tam Cô nếu gặp 1 Phúc hoặc Quý hoặc Thọ hoặc Văn thì làm tăng đạo sẽ thành chính quả, dẫu có tại gia thì cũng không phải là dạng phàm tục).
Phàm hình khắc trùng, Dịch nhược tam trùng, nhất sinh lao lục.
(Hễ là hình khắc trùng/nặng, như Dịch nếu trùng 3 lần thì cả đời lao lực).
Ách phùng tam vị, ấu hoặc thân vong, bất vong hậu phản cận quý, tất hữu trư tật, tổ nghiệp cải ly, khan lận bất túc, phi lương thiện bối.
(Ách gặp tam vị, thiếu niên có thể vong thân, nếu chẳng chết thì sau này phản chuyển thành gần người quý, tất sẽ có tật, hoán rời tổ nghiệp, keo kiệt chẳng vừa, chẳng được lương thiện.
Tam gian giả, vi nhân gian trá, ky thâm mưu viễn; nhược hữu cát tinh lai trợ phản vi chí thành tín thực chi nhân.
(Người có 3 Gian là người gian trá, mưu kế thâm sâu, nếu có cát tinh đến trợ giúp thì phản chuyển thành người rất thành tín chân thực).
Tam phá giả, vi nhân tính táo, tổ nghiệp nan thủ, tự thành tự lập, lục thân huynh đệ vô kháo, tài bạch dị tán, sự thượng hư hoa.
(Người có 3 Phá là người tính khô khan, khó giữ tổ nghiệp, tự thành tự lập, lục thân huynh đệ chẳng nương nhờ, tài bạch dễ tiêu tan, sự việc thường hư hoa chẳng thực).
Tam quyền nhược trị giả, mỗi sự bất thụ nhân khi, tâm cao chí đại, phú quý hữu quyền.
(Người có 3 Quyền, vào việc chẳng chịu để người khác lấn áp, tâm cao chí lớn, phú quý quyền hành).
Tam quý nhược phùng giả, tất nhiên đại quý, cao hiền tôn kính, tiểu nhân bất túc.
(Người có 3 Quý, tất nhiên đại quý, cao hiền tôn kính, tiểu nhân không dám tới).
Tam văn giả, trí tuệ thông minh, hữu cương hữu nhu, thiện kế thừa tổ nghiệp, trường bảo phú quý.
(Người có 3 Văn, trí tuệ thông minh, có cương có nhu, giỏi kế thừa tổ nghiệp giữ gìn phú quý lâu dài).
Tam phúc chi nhân, tất nhiên đại phú.
(Người có 3 Phúc thì giàu to)
Tam dịch chi nhân, tổ nghiệp bất chiêu, tâm tính bất thường, thiên di canh cải vô định.
(Người có 3 Dịch thì không chiêu được tổ nghiệp, tâm tính bất thường, chuyên canh cải, đổi thay không ổn định).
Tam nhận chi nhân, vi sự hữu phương, tín hành thành thực, tổ nghiệp mậu thịnh.
(Người có 3 nhận, làm việc có phương pháp, tín nghĩa thành thực, tổ nghiệp tươi tốt thịnh vượng).
Tam nghệ chi tinh, vi nhân linh lỵ, gia đạo phong doanh.
(Người có 3 Nghệ là người lanh lợi, gia đạo đầy đủ giàu có)
Tam thọ nhược phùng, vi nhân hảo thiện, nghiễm hành phương tiện, trường thọ chi mệnh; nhược thị phúc hoặc quý lai trợ, nãi phúc thọ song toàn chi nhân dã.
(Nếu gặp 3 Thọ thì là người hiền lành, có sự thuận lợi rộng, được trường thọ, nếu như có Phúc hoặc Quý đến trợ giúp thì chính là người được Phúc Thọ song toàn vậy).
Luận 12 tháng sinh
Chỉ cần bạn biết được nguyệt phận (tháng) âm lịch mà mình sinh ra thì đối chiếu với những tính chất sở thuộc nguyệt phận bên dưới đây, sẽ có thể biết được mệnh vận. Giản dị vô cùng.
Thơ về người sinh tháng Giêng
Đoan nhiên tương nhi thị tiền duyên,
Bình sinh khoái nhạc phúc miên miên,
Quý nhân tiếp dẫn tăng cát khánh,
Hòa hợp đoàn viên quá bách niên.
(Thẳng ngay tướng trẻ là tiền duyên
Suốt đời khoái lạc phúc triền miên
Quý nhân tiếp dẫn thêm may mắn
Hòa hợp đoàn viên quá bách niên).
Người sinh tháng Giêng, thuận lợi đường quan được gần người quyền quý, việc lớn thành nhỏ, là mệnh tỉ mỉ cẩn thận, thường chiêu được tài nguyên bốn phương, vợ con hòa hợp không khắc phá.
Thơ người sinh tháng Hai
Thiên sinh tính thiện tự gia tri,
Nhất sinh y lộc tự phong phì,
Tiền túc gia tư đa phú quý,
Cao nhân hoan hỉ tiểu nhân khi.
(Trời sinh tính thiện tự mình hay
Một đời y lộc sung túc thay
Tiền đủ của dư nhiều phú quý
Cao nhân mừng rỡ tiểu nhân ghen)
Người sinh tháng Hai, là mệnh của người tâm tính ôn hòa, tâm không độc hại, thông minh đa trí, với lục thân ít duyên, trung hạn phát đại phú quý.
Thơ người sinh tháng Ba
Vi nhân tâm trực tự khoan hoài,
Bình sinh chiêu đắc tứ phương tài,
Trung hạn vinh hoa thì phát phúc,
Do như khô mộc ngộ xuân lai.
(Là người ngay thẳng tự khoan dung
Cuộc đời được của khắp mọi vùng
Trung vận vinh hoa thời phát phúc
Tựa cảnh cây khô lúc Xuân phùng).
Người sinh tháng Ba, là mệnh của người tâm tính khoan hồng độ lượng, bất cứ việc gì cũng có thể nhẫn nại, hạn thuở đầu thì bình thường, đến trung hạn thì phát phúc, cuối hạn thì được vinh hoa phú quý.
Thơ người sinh tháng Tư
Nhất sinh mệnh hạn thắng nhất niên,
Bất tu sân hận khổ ưu tiên,
Cánh đắc trì trai phương tiện phúc,
Phu thê hòa hợp vĩnh đoàn viên.
(Một đời Mệnh Hạn đẹp một năm
Chẳng cần sân hận khổ ưu phiền
Giữ giới ăn kiêng thì được phúc
Vợ chồng hòa hợp mãi đoàn viên)
Người sinh tháng Tư, tâm tính không ổn định, tên tuổi động 4 phương, thích kết giao bằng hữu, không giữ tổ nghiệp, tự lập nếp nhà, hạn thuở ban đầu thì bình thường, đến cuối hạn thì đại phát phú quý.
Thơ người sinh tháng Năm
Xuất nhập thường thường ngộ hoành tài,
Quý nhân tiếp dẫn tiếu nhan khai,
Điền viên sự nghiệp đa hưng vượng,
Phú quý vinh hoa thứ đệ lai.
(Ra vào thường gặp được tiền tài
Quý nhân tiếp dẫn nở nụ cười
Ruộng vườn sự nghiệp nhiều hưng vượng
Phú quý vinh hoa lần lượt đến)
Người sinh tháng Năm, là mệnh của người ôn hòa lương thiện, tâm tính lanh lợi, có quyền thế uy phong, làm việc chính trực, được quý nhân tiếp dẫn, vợ chồng nửa đường đứt gánh.
Thơ người sinh tháng Sáu
Bình sinh y lộc tự nhiên xương,
Vi nhân hạo đạt hảo văn chương,
Ưu du khoái nhạc gia hào phú,
Phu thê hài lão bách niên trường.
(Cuộc đời y lộc tự vinh xương
Là người thông đạt giỏi văn chương
An nhàn hạnh phúc nhà giàu có
Chồng vợ hài hòa trăm năm trường)
Người sinh tháng Sáu, tính khéo lanh lợi, là người hiển đạt nơi xa, thân mang nghề ra đi mà không giữ tổ nghiệp, thuở ban đầu của hạn thì có tiền tài, trung hạn được cát lợi, cuối hạn thì phú quý, cơ mưu rất sâu xa, chính là mệnh tốt vậy.
Thơ người sinh tháng Bảy
Nhất thế vi nhân bất tất ưu,
An nhiên vô sự quải tâm đầu,
Gia nghiệp điền viên nghi tự lập,
Phương tri phúc lộc mệnh trung cầu.
(Một đời làm người chẳng ưu tư
An nhiên không phải bận tâm gì
Gia nghiệp ruộng vườn đều tự lập
Nên biết phúc lộc có trong mệnh)
Người sinh tháng Bảy, là người từ thiện, làm việc tử tế hòa ái, sơ hạn thì bình thường, trung hạn và cuối hạn thì được phú quý vinh hoa.
Thơ người sinh tháng Tám
Vi nhân đoan chính mạo đường đường,
Tâm địa thông minh tính thiện lương,
Tác sự đa năng tâm đạt lý,
Tha niên vận đáo phúc miên trường.
(Là người đoan chính nét đường đường
Tâm địa thông minh tính thiện lương
Làm việc đa tài lòng đạt lý
Năm ấy vận đến phúc miên trường)
Người sinh tháng Tám, ánh mắt thông minh, có cái nhìn thấu tình đạt lý, chính trực vô tư, có nghệ có tài, là mệnh của văn chương được gần quý nhân, nếu rời nhà xa tổ thì đại quý.
Thơ người sinh tháng Chín
Mãi mại sinh nhân sự sự cường,
Doanh mưu động tác chí hiên ngang,
Nhược năng tu thiện đa tác phúc,
Quản thủ y tư tích mãn tương.
(Sinh ra buôn bán mọi chuyện thông
Mưu trí kinh doanh thỏa tang bồng
Nếu thường tu thiện được nhiều phúc
Nắm giữ tiền tài tích lũy nhiều)
Người sinh tháng Chín, là mệnh của người tính cứng rắn, chiêu thị phi, có uy quyền và được gần người quyền quý, nhân duyên tương khắc, muộn có vợ con.
Thơ người sinh tháng Mười
Thập nguyệt sinh nhân khánh cát tinh,
Tai ương vĩnh thối bất tương xâm,
Trì trai thiện niệm hành phương tiện,
Y lộc phong doanh tự xưng tâm.
(Người sinh tháng Mười sao may mắn
Tai ương chẳng thể tới tương xâm
Ăn chay niệm thiện thì thuận lợi
Y lộc dồi dào tự xứng tâm).
Người sinh tháng Mười, là mệnh của người có tấm lòng của biển lớn, chẳng lười chẳng chăm, trước khó sau dễ, y lộc đầy đủ tấm thân, trước có nữ sau có nam, xuất gia thì khó làm bậc thầy của các đồ đệ, tại gia cũng khó có con cái, vợ chồng có nhiều hình khắc.
Thơ người sinh tháng Một (11)
Tảo niên độc lập tự thành gia,
Y lộc thiên nhiên tự khả khoa,
Cốt nhục đệ huynh vô ỷ kháo,
Tương giao bằng hữu phản tương tri.
(Tuổi trẻ độc lập tự thành gia
Y lộc tự nhiên khuếch trương ra
Anh em cốt nhục không nương tựa
Kết giao bằng hữu phản lẫn nhau).
Người sinh tháng Một (11) là mệnh của người có quyền, tính nóng, lanh lợi, được gần quý nhân, lòng nhiều mưu kế sâu, thân có ám tật, hạn thuở ban đầu thì bình thường, trung hạn và cuối hạn thì được phú quý vậy.
Thơ người sinh tháng Chạp (12)
Sơ hạn cần lao thụ khổ tân,
Tự thành tự lập bất cầu nhân,
Tâm trực khẩu khoái nan tàng độc,
Cốt nhục đoàn viên quá kỷ xuân.
(Đầu hạn cần cù chịu đắng cay
Tự thành tự lập chẳng nhờ ai
Lòng ngay mau miệng không tàng độc
Cốt nhục đoàn viên qua mấy xuân).
Người sinh tháng Chạp, là mệnh của người trăm sự lao khổ, lòng ngay thẳng, mau mồm mau miệng, cũng chủ có ám tật, phụ mẫu huynh đệ vợ con y lộc tự nhiên, được tài lộc của bốn phương, là mệnh bán cát.
(QNB chú: còn các phép phối sao để luận sẽ dịch sau, hiểu được môn này và các môn tiền thân của TVĐS sẽ rất có ích để hiểu sâu về cấu trúc thiết lập nên môn Tử Vi Đẩu Số).
(Nguồn: sưu tầm)