Các cách cục của Tham lang trong tử vi
PHIẾM THỦY ĐÀO HOA
Nếu đồng độ với Kình Dương, Đà La thì là người chủ về thích rượu chè, hút sách, cờ bạc, mê hoa luyến sắc, nếu ở cung Hợi, Tý thì gọi là cách Phiếm Thủy Đào Hoa.
Ở cung Hợi, Liêm Trinh Tham Lang đồng độ với Đà La. Ở cung Tý, có 2 trường hợp là Tham Lang độc tọa và Tham Lang đồng độ với Kình Dương (tuổi Nhâm có mệnh an tại Tý cung, Tham Lang giữ mệnh tất có Kình Dương đồng độ). Đối với tuổi Quý, mệnh an tại Hợi cung, có Liêm Trinh, Tham Lang giữ mệnh, tất có Đà La đồng độ, người tuổi Quý nếu có cách Phiếm Thủy Đào Hoa sẽ thê thảm hơn người tuổi Nhâm, do tuổi Quý sao Tham Lang hóa khí thành Kỵ. Như vậy, cách Phiếm thủy Đào Hoa là gì, đó là cách vì ham luyến sắc dục và uống rượu, cờ bạc mà chuốc lấy tai họa. Tình huống cụ thể thế nào cần phải phối chiếu với cung Phúc Đức, Tài Bạch và Tật Ách để xác quyết. Các tình huống này nếu có Tuần Không, Triệt Không đồng độ thì mức độ tai họa được chế giảm đi rất nhiều, nhưng tính phong lưu, hiếu sắc vẫn không thay đổi.
Ngoài Tỵ và Hợi cung ra, khi Tham Lang đồng độ với Kình Dương, Đà La ở các cung khác cũng được xem là Phiếm Thủy Đào Hoa, nhưng mức độ nhẹ hơn Tỵ Hợi rất nhiều.
PHONG LƯU THẢI TRƯỢNG
Khi Tham Lang độc tọa tại Dần cung có Đà La đồng độ (người tuổi Ất) hoặc Thiên Hình đồng cung (không có Thiên Không) thì cũng vì mê hoa luyến sắc mà mang họa. Cách này gọi là Phong Lưu Thái Trượng. Vậy sự khác nhau giữa Phiếm Thủy Đào Hoa và Phong Lưu Thái Trượng như thế nào. Điều này làm cho người nghiên cứu mệnh lý rất thường nhầm lẫn và khó phân biệt. Thật ra, 2 cách này xét về họa thì không khác nhau, nhưng trong tiến trình dẫn dắt đến tai họa có một chút khác nhau. Cách Phong Lưu Thái Trượng bao hàm do luyến sắc có tình cảm, tức là si mê ai đó mà có tình cảm của đương số ở trong đó, dẫn đến cơ nghiệp, sự nghiệp tan tành, giống như vua U Vương mê Bao Tự, Trụ Vương mê Đắc Kỷ vậy. Còn Phiếm Thủy Đào Hoa thì không, tai họa do ăn chơi, tửu sắc, trụy lạc mà ra nhưng trong đó không bao hàm tình cảm của đương số.
CỰC CƯ CHẤN ĐOÀI
Giới nghiên cứu tử vi và các vị hành nghề tử vi hầu như ai cũng cũng thuộc nằm lòng câu phú: “Tử Tham Mão Dậu gia Kiếp Không đa vi thoát tục chi tăng, thập nhân chi mạng cửu nhân tăng”. Như vậy, cách cục tử vi Tham Lang đồng cư Chấn Đoài có gì ghê gớm mà có tồn tại câu phú trên. Tiếp theo chuyên mục của sao Tham Lang, trong phạm vi bài phân tích này tôi muốn gửi đến các bạn đã và đang nghiên cứu mệnh lý tử vi có một cái nhìn chi tiết và sâu sắc hơn về cách cục Tử Tham Mão Dậu (Cực Cư Chấn Đoài).
Sao tử vi khi nhập vào 2 cung Mão Dậu thủ mệnh là ở thế vượng địa, lúc bấy giờ Tham Lang tinh ở thế lợi địa đồng tọa thủ. Tài Bạch cung sẽ tọa ở Tỵ hoặc Hợi có Vũ Khúc, Phá Quân ở thế bình đồng tọa, Liêm Trinh và Thất Sát sẽ đồng nhập Quan Lộc cung tại Sửu hoặc Mùi. Tại Sửu hoặc Mùi Thất Sát điều miếu vượng, Liêm Trinh ở thế lợi. Do tử vi hội hợp với nhóm sao hành động Sát-Phá-Liêm-Tham nên tạo thành cục diện phân tranh giữa 2 thế lực chính và tà, phe nào thắng cần phải xem sự hội hợp của Tứ sát tinh, cát hóa và dâm tinh nhiều hay ít.
Kết cấu này nếu không có gặp tứ sát tinh như Kình Dương-Đà La, Địa Không- Địa Kiếp và Hóa Kỵ xung phá hoặc dâm tinh như Hàm Trì, Mộc Dục, Hồng Loan, Thiên Hỉ, Thiên Dao thì về cơ bản là cách cục khá tốt. Tại sao? Vì sao Tham Lang là sao đa tài đa nghệ, mà tử vi ở Mão Dậu là thế vượng, nên sẽ chế phục được Tham Lang, khiến cho tính đào hoa của Tham Lang không có đất dụng võ, không thể lôi kéo tử vi vào cảnh tình phong lưu hiếu sắc. Mệnh tạo là người có tính tình hào phóng, có cuộc sống khá sung túc và chủ về sống thọ. Tuy nhiên, khi so sánh 2 cung Mão và Dậu, thì kết cấu này ở cung Dậu sẽ có phần cát lợi hơn cung Mão khá nhiều. Vì khi tử vi, Tham Lang ở Dậu, lúc bấy giờ sao Thái Dương sẽ ở thế miếu địa nhập Tử Tức cung ( cung Li), gọi là Nhật Lệ Trung Thiên, sao Thái Âm cùng Thiên Cơ nhập Thân cung, tại Thân cung sao Thái Âm được gọi là Thiên Hoàng, như vậy cả 2 vầng Nhật Nguyệt điều hữu quang chiếu vào Điền Trạch cung tại Tý có Thiên Lương miếu địa độc tọa. Vũ Khúc, Phá Quân ở Tỵ cung, cho dù ở Tỵ hay ở Hợi, thì kết cấu Vũ Khúc-Phá Quân điều có lực khá yếu, khó thành thượng cách. Kết cấu này chủ về có ý tưởng, suy nghĩ, hành động đột phá mà sinh ra tiền tài. Tài vật khi vào thì khá nhiều, nhưng tiêu tán cũng rất lớn, rất khó tích lũy được. Nhưng kết cấu Vũ Khúc-Phá Quân tọa Tỵ có phần cát lợi hơn ở Hợi. Vì sao? Vũ Khúc là Tài Bạch chủ, ngũ hành thuộc ( -Kim). Tỵ là đất của mùa hạ, Vũ Khúc ở đây được Hỏa rèn luyện, nên mặc dù đi cùng Phá Quân là không được cát lợi, nhưng tính kiếm tiền của Vũ Khúc được Hỏa của Tỵ cung nung rèn, nên trong gian lao sẽ có thành tựu. Trong khi Vũ Khúc đến Hợi cung là Kim gặp Thủy, nên kết cấu Vũ Khúc- Phá Quân tại Tỵ cát lợi hơn tại Hợi cung khá nhiều khi chúng ta xét về mặt kiếm tiền.
Nếu không hội tụ tứ sát tinh, thì cách Tử Tham Mão Dậu sẽ khá tốt cho 3 tuổi sau: Giáp, Mậu, Kỷ. Đối với tuổi Giáp, do Liêm Trinh Hóa Lộc, Phá Quân hóa Quyền, Vũ Khúc Hóa Khoa, Thái Dương Hóa Kỵ. Đây là mệnh cách tam kỳ gia hội, phú quý tột bực, trong đó, tuổi Giáp Dần và Giáp Ngọ là đệ nhất cách. Đối với mệnh nam tuổi Giáp, ra ngoài được nhiều người khác phái yêu thích, lấy vợ ở xa quê hương, nhưng khi đi vào giữa đại vận thứ ba, dễ bị phụ nữ ruồng bỏ, lâm vào cảnh thất tình, làm cho ngọc đá điều tan nát.
Đối với người tuổi có hàng thiên can là Mậu, do có Lộc Tồn tại Tỵ, Tham Lang Hóa Lộc, nếu mệnh cung an tại Dậu thì là mệnh cách Song Lộc Triều Viên hay còn có tên gọi khác là Lộc Hợp Uyên Ương, nguồn tiền tài bất tận, nếu không là người giàu sang giữa thiên hạ thì cũng hơn rất nhiều người khác trong xã hội kim tiền hiện nay. Tại sao như vậy? Trong bất cứ xã hội nào, phong kiến hay xã hội hiện đại, thì đồng tiền đi trước luôn được gọi là đồng tiền khôn, người có Tham Lang Hóa Lộc thì sẽ rất lanh lợi, lém lĩnh, bản chất Tham Lang là sao có tài ngoại giao khá tốt. Khi Tham Lang Hóa Lộc là người biết dụng Tài để tạo ra Tài, hoặc dụng Tài để tạo ra Quyền. Nên nếu mệnh cách của người tuổi Mậu có mệnh an tại Dậu đi vào chính giới hay thương mại điều có sự thành tựu lớn. Trong các tuổi có hàng thiên can là Mậu, thì người tuổi Mậu Tý Dương nữ mệnh an tại Dậu hay Mão điều đạt được cách tốt, nhưng mệnh an tại Dậu sẽ đạt được cách tốt của Song Lộc Triều Viên trọn vẹn, thành đạt từ đại vận thứ 3, nếu mệnh an tại cung Mão thì từ đại vận thứ 4 mới phát lên. Nhưng đối với mệnh cách này, khá đa tình, nếu Phúc Đức cung mà hội nhiều sát tinh, thì từ đại vận thứ ba, sẽ đỗ vỡ tình cảm vợ chồng vì chuyện tình nam nữ với người đàn ông khác bên ngoài. Đối với tuổi Mậu Dần, mệnh an tại Dậu, thì Tuần Không vây mệnh và Triệt Không tọa Quan Lộc cung, Hàm Trì chiếu mệnh. Do là người tuổi Dương, nên tác dụng của Tuần Không và Triệt Không khá mạnh. Mệnh cách vẫn hưởng phú quý, ra đời luôn gặp người khác phái yêu thích, để ý theo đuổi nhưng vẫn luôn giữ được sự thanh bạch trong tâm hồn, thường hay suy nghĩ về đạo, tôn giáo, tâm linh, về già thường hay tìm chỗ tu hành, có thể tu tại gia. Người tuổi Mậu Thìn, có mệnh an tại Dậu, do Thiên Không đồng độ với Lộc Tồn tại Tỵ (Thiên Không đóng ở đất tứ sinh Dần, Thân, Tỵ, Hợi là đúng vị Không Vong) nên phá đi Lộc Tồn, khiến cho tiền tài từ sao này sẽ trở thành hư không. Lúc bấy giờ Phúc Đức có Thiên Tướng ngộ Tuần Không, mệnh cung có Hàm Trì tọa thủ. Tuổi Mậu Thìn sẽ gặp nhiều gian lao, vất vả, tiền đến tiền đi, đời sống tinh thần gặp nhiều phiền não, gặp nhiều rắc rối về tình cảm, hôn nhân dễ gẫy đỗ giữa chừng.
Người tuổi Kỷ có Vũ Khúc Hóa Lộc, Tham Lang Hóa Quyền, đây là mệnh cách vừa có tiền vừa có quyền, nếu đi kinh thương cũng rất phát đạt. Trong các tuổi có hàng thiên can là Kỷ, thì tuổi Kỷ Mùi Âm nam sẽ đạt được sự thành công rực rỡ từ việc kinh doanh buôn bán. Nguyên do, tuổi Kỷ Mùi có Thiên Mã tại Tỵ, phối kết với Hóa Lộc tạo thành cách Lộc Mã giao trì. Đối với tuổi Kỷ Hợi thì Thiên Mã ngộ Không Vong, nên không phát huy hoàn toàn cách Lộc Mã giao trì trái lại còn làm cho cuộc đời nhiều thăng trầm, mệt mõi. Tuổi Kỷ Mão nếu mệnh an tại Dậu thì Tuần Không và Triệt Không đồng vây chiếu mệnh cung tại Dậu, nên cuộc đời không có gì đột phá. Tuổi Kỷ Tỵ nếu mệnh an tại Dậu hay Mão điều không hưởng được cách Lộc Mã giao trì ( khi mệnh cung an tại Dậu thì Thiên mã tại Hợi xung chiếu, nhưng mã ở đây ngộ Không Vong, nếu mệnh an tại Mão thì Thiên mã Hóa Lộc tại Hợi, gặp Tuần Không vây chiếu).
Ngoài ra, những người sinh vào tháng 8, tháng 12 có mệnh tọa thủ tại cung Mão, hoặc sinh vào tháng 2, tháng 6 có mệnh an tại Dậu, đều có 2 sao Tả Phù, Hữu Bật hợp chiếu. Đây là mệnh cách Phù Bật Củng Chủ, ra đời lập nghiệp gặp nhiều quý nhân tương trợ, tài nghệ xuất chúng, sự nghiệp có thể thành tựu.
Trên đây là chúng ta vừa xem xét kết cấu tử vi Tham Lang ở mặt tích cực. Bây giờ chúng ta xét đến kết cấu Tử Tham Mão Dậu hội tứ sát tinh và Hóa Kỵ.
Khi tử vi đồng cung với Tham Lang, thì quyền uy của tử vi ít nhiều bị hạn chế đi. Mà hóa khí của Tham Lang là Chính Đào Hoa, tức là bấy giờ vị vua đang sống bên cạnh người đàn bà đầy nhan sắc nhưng có tâm tính phức tạp. Trường hợp này nếu hội thêm Văn Xương, Văn Khúc, Hồng Loan, Hàm Trì, Thiên Dao, Mộc Dục thì trở thành cách cục khá thấp. Bởi vì Văn Khúc, Văn Xương chủ về văn chương, nghệ thuật, nhưng khi gặp Tham Lang thì tính nghệ thuật kia chuyển thành lãng mạn đa tình, lúc bấy giờ vị vuatử vi kia chỉ lo ăn chơi, xa đọa, trác táng, rơi vào vũng lầy của trụy lạc. Nếu như mệnh cung an tại Dậu thì sự tác họa, sa đọa còn tệ hơn cung Mão. Bởi vì Dậu là đất của Đào Hoa, tử vi lúc bấy giờ không thể nào thoát khỏi vùng bại địa của cung Đoài. Trường hợp này nếu như không gặp Thiên Không, Thiên Hình, Tuần Không, Triệt Không tọa thủ đồng cung, chắc chắn sẽ là người vì sắc, vì tình mà đánh mất bản thân mình, nhưng ngược lại nếu gặp Thiên Không, Thiên Hình, Triệt Không, Tuần Không lại là người có tính cách thanh bạch. Đào Hoa chính là Tham Lang tinh, tử vi chính là vua, là chủ tinh của chòm sao Bắc Đẩu, vua bị nhan sắc phụ nữ làm cho si, bi lụy, nên cách này giới mệnh lý gọi là Đào Hoa phạm chủ.
Khi Tử Tham Mão Dậu đồng cung với Địa Không, Địa Kiếp thì lại khác. Bản thân tử vikhi đơn thủ tại Tý hay Ngọ cung giữ mệnh mà gặp Địa Không, Địa Kiếp, Thiên Không, Hoa Cái là người đã có khuynh hướng xuất thế. Xuất thế ở đây phải được hiểu theo nghĩa rộng, tức là người có mệnh cách này có khả năng và đam mê nghiên cứu tinh thông về các môn huyền học, tôn giáo, tâm linh, chứ không phải nhất thiết xuất thế là phải cắt tóc vào chùa làm ni, sư. Vì vậy, khi đồng cung với Tham Lang tại Mão, Dậu, có Địa Không, Địa Kiếp, Hoa Cái, Thiên Không thì khuynh hướng tu hành, xuất gia hoặc nghiên cứu tâm linh, tôn giáo của kết cấu này càng thể hiện rõ nét. Nguyên nhân? Khi sao Tham Lang giữ mệnh, tất tam phương của Tham Lang sẽ là Sát-Phá-Lang, đây là nhóm sao chủ về hành động, biến động, tức là cách cục không thể ngồi yên. Mà khi Tham Lang đồng tọa với tử vi, lại gia thêm Địa Không, Địa Kiếp. Bản thân tử vi khi gặp Không, Kiếp, Song Hao là sẽ bị khó khăn về kinh tế. Do đó, Tử Tham khi gặp Địa Không, Địa Kiếp là do biến động, thay đổi nhưng tiền tại không tụ được, kinh tế theo chiều hướng càng ngày càng suy vi. Thông thường, khi con người ta lâm vào cảnh khó khăn, làm ăn thất bại, thường tìm niềm an ủi tinh thần ở các môn tâm linh, huyền học, tôn giáo. Tức là tìm lối thoát cho tinh thần của mình ở thế giới tâm linh, đạo giáo. Cũng là có khuynh hướng xuất thế, nhưng tùy theo sự hội chiếu của Tử Tham với những sao nào mà lý giải nguyên nhân.
Tình huống 1: tử vi, Tham Lang cùng Địa Kiếp, Địa Không, Song Hao là do làm ăn kinh tế khó khăn, thất bại mà đẩy đương số vào con đường nghiên cứu các môn huyền bí, đạo giáo, thậm chí xuất gia làm tăng, ni. Lúc bấy giờ câu phú “Tử Tham Mão Dậu gia Kiếp Không đa vi thoát tục chi tăng” sẽ phát huy tác dụng mạnh.
Tình huống 2: tử vi, Tham Lang đồng cung với Thiên Không, Hoa Cái, Thiên Hình là ngay khi mới sinh ra đã có khuynh hướng, năng khiếu đặc biệt về tâm linh, tôn giáo. Mệnh tạo này có tính cách thanh bạch, thường nhìn đời hư ảo, xem nhẹ những thứ vô vị của thế tục. Nên nếu mệnh tạo này gặp tình huống xấu hoặc bất mãn một điều gì đó trên đường đời là ngay lập tức sẽ tìm đường đến các môn tâm linh, tôn giáo, nếu tình huống quá nặng thì có thể xuất gia làm ni, sư hoặc tu tại gia. Nếu dấn thân vào nghiên cứu các môn huyền học, tôn giáo, thì loại mệnh tạo này sẽ có thành tựu rất lớn. Tức là sẽ đạt được cái Có trong cái Không có. Đây là mệnh tạo của những nhà Nghiên cứu Huyền học có tiếng tăm, các vị Đại đức, Hòa thượng có tiếng tăm thường hay đi thuyết giảng tôn giáo ở các nơi.
Tình huống 3: tử vi, Tham Lang đồng cung với Địa Không, Địa Kiếp gia hội Hồng Loan, Mộc Dục, Thiên Dao, Hàm Trì, Thiên Hỉ thì loại mệnh tạo này thì quá thê thảm. Do tình cảm nam nữ, tửu sắc, cờ bạc mà dẫn đến phá tán sự nghiệp, danh dự, cuộc đời không còn lối thoát, đường cùng phải tìm sự giải thoát ở thế giới tâm linh, xuất gia làm ni, sư. Lúc bấy giờ câu phú “Tử Tham Mão Dậu gia Kiếp Không đa vi thoát tục chi tăng” sẽ phát huy tác dụng mạnh.
Khi tử vi, Tham Lang đồng cung với Hàm Trì, Thiên Hỉ, Hồng Loan, Mộc Dục, Thiên Dao mà không có Thiên Không, Tuần Không, Triệt Không đồng cung, thì loại mệnh tạo này đích thị là Đào Hoa phạm chủ. Ăn chơi trác táng, phong lưu hiếu sắc, ngoại tìnhhoặc có quan hệ tình cảm thiên về nhục dục với nhiều thành phần khác nhau. Nếu có Hóa Lộc hay Lộc Tồn tọa thủ hay hợp chiếu thì sẽ chế giảm được tính trăng hoa phần nào, nhưng mệnh tạo vẫn là người thiên về lối sống phong lưu, không trân trọng tình cảm.
Trong tình huống tử vi, Tham Lang đồng độ với Hàm Trì, Thiên Hỉ, Hồng Loan, MộcDục, Thiên Dao nếu gia thêm Đà La, Kình Dương thì khỏi cần phải bàn. Lúc bấy giờ đương số sẽ sở hữu đồng thời cả 2 cách “ Đào Hoa phạm chủ và Phiếm Thủy Đào Hoa”, vì phong lưu hiếu sắc, cờ bạc, rượu chè mà gặp tai họa, số sẽ đoản thọ, lúc này Kình Dương sẽ phát huy rất mạnh uy lực của câu phú “Kình Dương Tí Ngọ Mão Dậu, phi yểu chiết nhi hình thương”.
Trường hợp tử vi, Tham Lang đồng độ với Hỏa Tinh, Linh Tinh thì sao? tử vi ở thế miếu và vượng địa, có khả năng chế hóa được sát tinh Linh, Hỏa. Tham Lang khi gặp Hỏa Tinh hay Linh Tinh là thuộc cách phát tài đột ngột, tiền tài đến bất ngờ do đầu cơ hay trúng số, cờ bạc, nhìn chung nguồn tiền tài do Tham Hỏa hay Tham Linh đem đến là tiền tài hoạnh phát. Tuy nhiên, khi tử vi đồng cung với Tham Lang, do Tham Lang đã bị tử vichế ngự một phần, nên tính đột ngột, bất ngờ và khả năng sinh tài sẽ bị giảm đi. Vì vậy, kết cấu tử vi, Tham Lang với Linh Hỏa ở Mão Dậu cũng phát đột ngột, nhưng mức độ phát bị giảm đi nhiều, không còn được như Tham Linh hay Tham Hỏa ở tứ mộ Thìn Tuất Sửu Mùi. Do Dậu cung Linh Hỏa ở thế hãm địa, nếu Tử Tham đi với Linh Hỏa ở Dậu, thì tiền tài sau khi phát sẽ không giữ được lâu bền, tức là sẽ phải mất đi. Khi Tử Tham đi với Linh, Hỏa ở Mão thì sẽ cát lợi hơn Dậu, do Mão là cung ban ngày nên Linh và Hỏa ở thế đắc địa.
(Dẫn theo trang kilotuvi.blogspot.com/)