Thiên Lương Tý Ngọ Cách
Thiên Lương là một sao chủ cứu giải may mắn của nhóm Cơ Nguyệt Đồng Lương, thuộc Nam Đẩu Tinh, chủ nhập mệnh bình thường là người sống thọ, vì đặc tính của sao này là ” Ấm ” , tức che chở vô hình cho mệnh chủ. Vì chủ cứu giải bệnh tật, hoạn nạn nên có câu phú ” Phúc Ấm thủ mệnh, thân bất phạ tai ương” hoặc ” Lương xung tọa thủ kiêm thọ toán”. Hạn đến sao này nếu khi trẻ tuổi sẽ tai qua nạn khỏi, đến già sẽ có cảm giác có người âm thầm phù hộ, che chở cho bản thân. Mệnh, Thân có Thiên Lương tọa thủ đa phần đều là người có tín ngưỡng tâm linh, thích giúp đỡ người khác nên bản thân cũng hay được trợ giúp. Trái với Thất Sát là lấy của người thì Thiên Lương lại lấy của mình cho người. May mắn là sao Thiên Lương còn Phúc là Thiên Đồng. Thiên Lương được Khôi Việt củng chiếu để nhân lên sự may mắn và tính cứu giải của ngôi sao này. Việc cứu giải không phải là tạo ra tai họa trước như các sách từng viết mà việc tạo ra những họa ấy là do các hung sát tinh đảm nhận.
Thiên Lương là một sao chủ thọ nên khi xem lá số thì thường những người nghiên cứu về tử vi như chúng tôi rất có hứng thú với mệnh, thân có sao này tọa thủ, gặp hạn xấu khó đoán sống chết. Thiên Lương có tính cô kỵ cao, tức chủ muốn giải bày tâm sự rất nhiều, nếu gặp cô quả kỵ hình tinh, tính khắc kỵ trở nên cao khiến bản thân hay tự tìm đến sự cô độc, đây là đặc tính chung của Thất Sát và Thiên Lương. Thiên Lương chủ cứu giải nên phần đông mệnh thường làm ngành y học, thầy thuốc, bảo hiểm và các công việc mang tính che chở cho người khác. Mệnh Thiên Lương Tý Ngọ thì bộ CNĐL được đầy đủ với bên ngoài là cách Cự Nhật giống với tinh hệ Thiên Cơ Tý Ngọ. Thiên Lương ở đây đắc ý, sự may mắn ở mức độ rất cao so với các tinh hệ khác nếu không gặp phá cách, còn nếu bị thì còn xấu hơn nhiều lần. Ở đây có bộ sao Âm Dương Lương tức ngày tháng may mắn, nếu có thêm Khôi Việt thì đẹp cho cả cách cục, nếu thêm Linh Hình thì phá cách.
Tinh hệ Thiên Lương cư Ngọ được đánh giá hay thứ hai sau bộ sao Dương Lương Mão Dậu. Gặp Xương Khúc thì lợi cho cả bộ Âm Dương vì ” Âm Dương nhi xương khúc đắc lực”. Thiên Lương là một sao có rất nhiều vị trí đắc ý, mỗi vị trí đều có những đặc điểm tốt riêng, ngay ở nơi bình là Sửu Mùi và Tỵ Hợi cũng không bị chê quá nhiều. Cổ thư quan trọng vị trí đứng là quan điểm sai lầm của một số người, các phụ tá tinh và sát tinh mới có thể định nghĩa cho các sao theo chiều hướng tốt hay xấu. Trong 14 chính tinh thì chỉ có Sát Phá Tham giảm được độ hung nguy của Không Kiếp, nhưng không phải tại mệnh mà ở hạn gặp. Thiên Lương gặp Không Kiếp, chỉ cần thêm một trong tứ sát sẽ dẫn đến những biến hóa cực đoan, có thể nói một cách nôm na là không may mắn. Tùy vào mức độ nặng nhẹ mà có thể không may ở trong công việc, tình cảm và mức độ cao nhất là không may liên quan đến tính mạng.
Thiên Lương ưa Lộc Tồn chủ thích hợp làm nghề thuốc, khi đó Bệnh Phù và Tướng Quân tam hợp chủ thương yêu những người bệnh nhân đến khám, nếu có thêm vài hóa thì sẽ nổi danh và tiền bạc lúc đó sẽ đến nhanh, nhưng hầu như mệnh tạo không quá quan trọng vấn đề này, nếu có Tuần ở cung Tài Bạch thì luận đoán ngược lại. Thiên Lương có phong thái của bậc danh sỹ thời nho, lấy thanh cao và tiết hạnh làm trọng nên phù hợp với sao Thái Tuế, khi đó dễ có đủ bộ Tứ Linh chủ cao quý và Thiên Lương lúc này chính là người thầy. Một tính chất khác của Thiên lương đó là thần bí. mệnh nếu có sao này sẽ có khuynh hướng thích nghiên cứu những sự việc thần bí, những môn học ít được người đương thời ưa thích. Nếu phát triển theo hướng tích cực, thì họ sẽ thích tìm hiểu một số vấn đề không được nhiều người quan tâm.
Tứ Hóa của tuổi Đinh là Nguyệt – Đồng – Cơ – Cự với Lộc – Quyền – Khoa – Kỵ nên việc Cơ Nguyệt Đồng Lương ở nơi đây là đủ bộ tam kỳ, mang những thứ kỳ lạ từ danh vọng, tiền tài, uy quyền cho đương số. Mệnh Thiên Lương cư Ngọ tuổi Đinh sẽ được Lộc Tồn ở Ngọ, tức là Song Lộc và Tam Hóa. Thiếu mất bộ Khôi Việt chủ đứng đầu nên khó đứng đầu. Nếu sinh tháng 9 sẽ được thêm Xương Khúc thành cách “Dương Lương Xương Lộc hội lô truyền đệ nhất danh”. Nếu sinh tháng 10 hoặc tháng 4 bị bộ Không Kiếp, khi đó phải luận đoán ngược lại là những tai họa không thể ngờ được bởi vì một câu ” Không Kiếp là tối hung thần, đóng đâu ở đâu mười phần hiểm nguy”. Bộ sao này tính ác hóa rất mạnh, vì sinh ra từ những rối ren của ngũ hành. Tức ứng hóa từ trục Tỵ Hợi, Tháng Tỵ và Hợi được xem là nơi xuất của bộ sao này. Tháng Tỵ ( tháng 4 ) là nơi bắt đầu của Hỏa khí, tháng Hợi ( tháng 10 ) là nơi bắt đầu của Thủy khí. Bởi vì chòm sao Tử Vi – Thiên Phủ đã đối xứng nhau qua trục Dần Thân. Với hai đế tinh đã đối xứng với nhau ở trục này, không có lý do gì cặp sát tinh mang lại sự chết chóc lại không đối xứng ở trục Tỵ Hợi. Các câu phú ca ngợi Tử Phủ bao nhiêu thì lại ngược lại đáng sợ khi nhắc đến Không Kiếp bấy nhiêu. Tử Vi mang tính Dương Thổ, Thiên Phủ mang Âm Thổ. Thiên Không ( Địa Không ) mang Âm Hỏa và Địa Kiếp mang đặc tính Dương Hỏa. Nếu mệnh có bộ Không Kiếp thì trở thành xấu, hội thêm hung sát tinh có thể dẫn đến tình cảnh hiểm nguy.
(Dẫn theo trang tuvinghiemli.blogspot.com)