Mối quan hệ giữa Mệnh Cục và hạn năm Tứ Hóa
Tứ hóa phân cấp thành: Tứ hóa của Mệnh bàn, Tứ hóa của can cung Đại hạn, Tứ hóa của can cung lưu niên, Tứ hóa, của can cung Lưu nguyệt, Tứ hóa của can cung Lưu nhật, Tứ hóa của can cung Lưu thời… Mệnh bàn Tứ hóa bao gồm Tứ hóa năm sinh và Tứ hóa của 12 can cung trên Mệnh bàn. Từ Mệnh bàn đến Lưu thời, là mối quan hệ từ trên xuống dưới, là mối quan hệ từ Tiên thiên đến Hậu thiên. Từ Đại hạn đến Lưu thời đều gọi là Hành hạn bàn.
看四化的吉凶影响,本级四化首先影响本级十二宫,例如大限四化首先对本大限的吉凶起直接的作用,其次才是对上下级发生影响作用。看大限,以大限四化为主,以命盘四化为辅。看流年,以流年四化为主,以大限四化为辅,以命盘四化为参考
。
Xem ảnh hưởng cát hung của Tứ hóa, bản thân cấp độ của Tứ hóa đầu tiên sẽ ảnh hướng đến bản thân cấp độ đó trên 12 cung, ví dụ như Tứ hóa của Đại hạn đầu tiên sẽ tạo nên tác dụng cát hung trực tiếp trên Đại hạn, tiếp đến mới tạo nên ản hưởng, tác dụng đến “thượng cấp” và “hạ cấp”. Xem Đại hạn, lấy Tứ hóa đại hạn làm chủ, lấy Tứ hóa Mệnh bàn làm bổ trợ. Xem Lưu niên, lấy Tứ hóa Lưu niên làm chủ, lấy Tứ hóa Đai hạn làm bổ trợ, lấy Tứ hóa Mệnh bàn để tham khảo.
原命盘是”体”是”因”,看定数;行限盘是”用”是”果”,看应数(应期)。
Nguyên cục Mệnh bàn là “Thể”, là “Nhân”, dùng để xem xét Định số; Mệnh bàn Hành hạn là “Dụng”, là “Quả”, dùng để xem xét Ưng số (Ứng kì).
河洛紫微斗数有一法则,就是由命、大限、流年、流月、流日、流时,一路往下推,落宫的天干一律以原命盘为准,一成不变(均用原命盘的天干)。这一点与星情法是有区别的,星情法论大限四化时,天干要重排(有些派别不重排)。
Hà Lạc Tử Vi Đẩu Số có một phép tắc, đó là từ Mệnh, Đại hạn, Lưu niên, Lưu nguyệt, Lưu thời, 1 mạch từ trên xuống dưới để dự đoán, Can cung nhất nhất lấy Nguyên cục Mệnh bàn làm “chuẩn”, nhất định không thay đổi (đều dùng Thiên can của của Nguyên cục Mệnh bàn). Điểm này có khác biệt với “tinh tình pháp”, “tinh tình pháp” khi luận Tứ hóa Đại hạn, Thiên can cần an lại (cũng có một số nhanh không cần an lại Thiên can).
河洛派以命盘为”天盘”,大限盘为”地盘”,流年盘为”人盘”。
Hà Lạc phái lấy Mệnh bàn làm Thiên bàn, Đại hạn làm Địa bàn, Lưu niên làm Nhân bàn.
◇”在天成象,在地成形,在人成事”。所以,推命就分为三个不同的阶段。”在天成象”,意思是在天盘只是朦胧的象,就如刚受过精的卵子,只是生命的播种阶段,是为种”因”。”在地成形”,意思是到了地盘,朦胧的象已发展成为有形有状的阶段,就如受精的卵子经过母体的孕育,逐渐成为胎儿,是为”缘”。”在人成事”,意思是事情已经产生,就如孕育成的胎儿瓜瓜落地,已经脱离母体,成为活生生的人,是为结”果”。
“Tại thiên thành tượng, tại địa thành hình, tại nhân thành sự”. Vì thế, đoán mệnh chia thành 3 giai đoạn khác nhau. “Tại thiên thành tượng”, ý là tại Thiên bàn chỉ là “tượng mông lung”, là giống như quả trứng vừa mới nhận được tinh, chỉ là giai đoạn “trồng cấy” sinh mệnh, đó là “NHÂN”. “Tại địa thành hình”, ý là đến Địa bàn, “tượng mông lung” đã phát triển đến giai đoạn có hình trạng, giống như quả trứng nhận được tinh lại đã qua sự “ấp” của mẹ, dần dần trở thành thai nhi, đó là “DUYÊN”. “Tại nhân thành sự”, ý là sự vật, sự việc đã thực sự sản sinh, giống như thai nhi đã được nuôi dưỡng, giờ như quả dưa rơi xuống đất, đã thoát ly khỏi cơ thể người mẹ, trở thành người có sinh mệnh, gọi là kết “QUẢ”.
在这三个阶段中,地盘是至关重要的转折阶段,它承担孕育天盘之象以成形,又负担转化生人盘以成事的承前启后的作用。但结果在人盘,所以最后成与不成得看人
盘。
Trong 3 giai đoạn này, là giai đoạn chuyển tiếp vô cùng quan trọng, nó đảm nhận việc “nuôi dưỡng” Tượng ở Thiên bàn thành Hình, lại có trách nhiệm chuyển hóa tác dụng “kế thừa và phát triển” của Nhân bàn. Nhưng kết quả là ở tại Nhân bàn, vì vậy cuối cùng việc thành hay bất thành đều xem tại Nhân bàn.
一件事的产生,在紫微斗数中亦分为三个阶段,即在本命盘为”天垂象”的酝酿阶段,在大限盘的”成形”孕育阶段,在流年盘为事物产生阶段,即”成事”阶段。大限盘是一个转折的关键阶段,力量最大,管十年祸福,其吉凶已基本定型,就看应于这十年内的哪一年了。所以,推算流年运,应由大限盘的天干四化情况并结合本命盘之象来推断,三环相扣才能顺理成章。同理,在看流月时,应以流年的四化并配合大限之象来推断;看流日应以流月四化并配合流年之象来推断;看流时应以流日四化并配合流月之象来推断(三环相扣法在下节详论)。
Mỗi sự kiện sản sinh, thì Tử Vi Đẩu Số cũng chia làm 3 giai đoạn, tức là tại Bản Mệnh bàn là giai đoạn “lên men” – Thiên thùy Tượng, tại sự “thành hình” của Đại hạn bàn là giai đoạn “nuôi dưỡng”, trong Lưu niên bàn là giai đoạn “sinh trưởng” của sự vật, tức là giai đoạn “thành sự”. Bàn Đại hạn là một giai đoạn then chốt của sự chuyển tiếp, lực lượng vô cùng lớn, quản mười năm họa phúc, cát hung đã cơ bản định hình, chỉ còn xem sự việc sẽ “ứng” vào năm nào trong 10 năm này. Vì vậy, việc dự đoán vận Lưu niên, là tùy vào tình trạng Thiên can Tứ hóa của Đại hạn bàn kết hợp với “Tượng” của Bản Mệnh bàn để dự đoán, 3 giai đoạn này lồng ghép vào nhau mới có thể dự đoán một cách hợp lý, logic. Cùng với lý luận đó, khi xem Lưu nguyệt, nên kết hợp Tứ hóa Lưu niên và Tượng của Đại hạn để dự đoán; xem Lưu nhật thì kết hợp Lưu nguyệt Tứ hóa và Tượng của Lưu niên để dự đoán; xem Lưu thời thì kết hợp Lưu nhật Tứ hóa và Tượng của Lưu nguyệt để dự đoán (sự lồng ghép giữa 3 giai đoạn này sẽ nói rõ ở tiết sau)
我们在推命过程中,如能劝人在垂象成因阶段不要在某时某方做什么事,就可以避免发生不良的后果(无因则无果),这才是功德无量。
Chúng ta trong quá trình đoán mệnh, nếu như có thể khuyên đương số trong giai đoạn “thùy tượng thành nhân” không nên làm một việc gì đó, trong một thời điểm nào đó, thì người đó có thể tránh được việc “tạo ra” một hậu quả không tốt (không có Nhân thì không có Quả), đây mới gọi là công đức vô lượng.
生年四化叫天垂象,是天赋之意。原盘四化入大限盘也叫垂象,是为定数,决定此大限的格局高低、是吉是凶,即此大限内的运气情况,反映的主要是时间关系。
Tứ hóa năm sinh gọi là “Thiên thùy tượng”, là do “thiên phú”. Tứ hóa nguyên bàn nhập Đại hạn bàn cũng gọi là “Thùy tượng”, mang nghĩa “Định số”, quyết định cách cụ của đại hạn là cao hay thấp, là cát hay là hung, tức là tình trạng vận khí trong đại hạn đó, chủ yếu phản ánh quan hệ về thời gian.
生年四化要入本命的三方才有力;大限四化要入本命的三方才有力;流年四化要入大限的三方才有力;流月四化要入流年的三方才有力;流日四化要入流月的三方才有力;流时四化要入流日的三方才有力。这叫”下承上”。
Tứ hóa năm sinh cần nhập Tam phương của Mệnh thì mới có lực; Tứ hóa đại hạn cận nhập Tam phương của Mệnh thì mới có lực; Tứ hóa Lưu niên cần nhập Tam phương của Đại hạn mới có lực; Tứ hóa Lưu nguyệt cần nhập Tam phương của Lưu niên mới có lực; Tứ hóa Lưu nhật cần nhập Tam phương của Lưu nguyệt mới có lực; Tứ hóa Lưu thời cần nhập Tam phương của Lưu nhất mới có lực. Đây gọi là “Hạ thừa Thượng”
大限要得生年三吉会照才好,逢生年忌会照则不利,尤其逢忌冲更不利;流年要得大限三吉会照才好,生年三吉会照亦好,逢大限忌会照则不利,逢大忌冲更不利;流月逢流年三吉会照才好,逢流年忌会照则不利;流日和流时同理。这叫”上应下”。
Đại hạn cần phải có Tam cát hóa (Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa) của năm sinh hội chiếu mới tốt, gặp Hóa kị năm sinh hội chiếu thì bất lợi, đặc biệt Hóa kị năm sinh xung thì càng bất lợi; Lưu niên cần có Tam cát hóa của đại hạn hội chiếu thì mới tốt, có Tam cát hóa của Năm sinh cũng tốt, gặp Hóa kị đại hạn hội chiếu thì bất lợi, gặp Hóa kị đại hạn xung càng bất lợi; Lưu nguyệt gặp Tam hóa cát của Lưu niên hội chiếu thì mới tốt, gặp Hóa kị của Lưu niên hội chiếu thì bất lợi; Lưu nhật và Lưu thời cũng vậy. Đây gọi là “Thượng ứng hạ”.
命盘四化留给大限看,大限四化留给流年看,反过来,命局的定数应于某一限年,就以应数之年飞四化回大限,以大限飞上化回命盘,用这种方法来看吉的大限和流年是增吉还是减吉?凶的大限和流年是增凶还是减凶、有无补救?例如生年化禄之星,行限使之化禄,为增吉;生年化忌之星,行限使之化禄,为变好,可减其凶性,为有补救。生年禄入大限的父疾线,主光明;但大限宫天干使此星再化忌,则为忌带忌,为变坏,主大凶。故生年化禄之星,行限使之化忌则凶。化权科有解忌的作用,上下级逢权忌、科忌都不致大凶,例如大权逢本忌和大忌逢本权,仅主增点阻力或烦恼而已。
Tứ hóa Mệnh bàn để xem Đại hạn, Tứ hóa Đại hạn để xem Lưu niên, ngược lại, Định số của Mệnh cục ứng ở một hạn một năm nào đó, là Năm ứng số phi Tứ hóa quay lại Đại hạn, rồi Đại hạn phi ngược Tứ hóa quay lại Mệnh bàn, dùng phương pháp này để đánh giá Cát của Đại hạn và Lưu niên là tăng cát hay giảm cát? Hung của Đại hạn và Lưu niên là tăng hung hay là giảm hung, có hay không có sự bổ cứu? Ví dụ như Hóa lộc của năm sinh, hành hạn cũng Hóa lộc, là tăng cát; Hóa kị của năm sinh, hành hạn Hóa lộc, là biến đổi tốt, có thể giảm đi tính hung, là có bổ cứu. Hóa lộc năm sinh nhập Đại hạn tuyến Phụ Mẫu – Tật Ách, chủ về “tỏa sáng”; nhưng Thiên can cung Đại hạn lại Hóa kị, khiến cho Hóa kị dẫn động (biến Lộc trở thành Kị), biến thành xấu, chủ đại hung. Cho nên Hóa lộc năm sinh, mà gặp Hành hạn Hóa kị thì thành hung. Hóa quyền Hóa khoa có tác dụng “giải Kị”, thượng hạ cấp gặp Quyền Kị, Khoa Kị đều không thể Đại Hung, ví dụ như Đại hạn Hóa quyền gặp Bản mệnh Hóa kị và Đại hạn Hóa kị gặp Bản mệnh Hóa quyền, chỉ chủ cho việc tăng thêm trở lực và phiền não mà thôi.
大限宫是个中转站,大限宫四化”上应本命,下应流年”,即大限四化入原命盘何宫为”上应本命”,为”应数”,说明这步限运将在什么时间、地点、发生什么事情,事情首先与四化落原盘宫的名称有关,其次才是与横向宫发生关系,故主要反映出空间关系,也就是说这步运限我将会把全部精力投入到原命盘宫所关系到的人事和领域。例如大限化禄入本命的福德官,首先,福德是财源,故表示此限我很关心赚钱;其次,福德为夫妻的事业,也表示我对配偶的事业很关心。又如大限化忌冲本命事业,为用冲体,灾害必重,此大限的事业必有变动。
Cung đại hạn là điểm trung chuyển, Tứ hóa của đại hạn “Trên thì ứng Bản mệnh, dưới thì ứng Lưu niên”, tức là Tứ hóa Đại hạn nhập các cung trên Mệnh bàn là “Trên thì ứng Bản mệnh”, đóng vai trò “Ứng số”, nói rõ tại Hạn vận này xảy ra vào lúc nào, ở đâu, phát sinh sự kiện gì, sự kiện đầu tiên cùng với Danh xưng của cung trên Mệnh bàn mà Tứ hóa (Tứ hóa Đại hạn) nhập vào tạo nên quan hệ, rồi đến mới phát sinh quan hệ với các cung khác, chủ yếu phản ánh mối quan hệ về không gian, cũng là nói bước Vận hạn này ta sẽ mang toàn bộ tinh lực “đầu tư” vào “nhân sự” và “lĩnh vực” của cung có quan hệ trên Mệnh bàn gốc. Ví dụ như Đại hạn Hóa lộc nhập cung Phúc đức (Phúc Đức của bản mệnh), đầu tiên, Phúc đức là nguồn của Tài (Tài bạch), cho nên biểu thị rằng tại Đại hạn này ta rất quan tâm đến tiền bạc; tiếp theo, Phúc đức đóng vai trò Sự nghiệp (Quan lộc) của cung Phu thê, cũng biểu thị rằng ta rất quan tâm đến sự nghiệp của vợ hoặc chồng. Lại như Đại hạn Hóa kị xung Quan lộc của Bản mệnh, đó là “Dụng” xung “Thể”, tai họa tất nhiên sẽ lớn, Sự nghiệp của Đại hạn này tất nhiên sẽ có biến động.
大限是转折点,是事件的成形阶段,只要本大限的事件已经形成,在本大限内的某一年即会发生。事件产生于那一年,则看本限内那一年走到大限同类的四化坐宫(吉事)或对冲宫(凶事)。至于吉凶的程度,则宜参看上面的”化出”和”化入”、”忌出”与”忌入”,以及四化之间的关系。
Đại hạn là điểm chuyển ngoặt, là giai đoạn thành hình của sự kiện, chỉ cần sự kiện của Đại hạn thành hình, thì trong Đại hạn đó sẽ phát sinh sự kiện trong một năm nào đó. Sự kiện sản sinh vào năm nào, thì xem năm nào trong Đại hạn có Tứ hóa đồng loại với cung mà Tứ hóa Đại hạn ở đó (với việc tốt) hoặc đối xung với cung (với việc hung). Đến như mức độ của cát-hung, thì tham khảo “Hóa xuất” và “Hóa nhập”, “Kị xuất” và “Kị nhập”, và mối quan hệ giữa Tứ hóa.
不同级而同类四化之间的关系:同类宫位互忌则不忌,例如大限的财帛宫化忌入本命的财帛宫,流年的财帛宫化忌入大限的财帛宫,本命的财帛化忌入大限的财帛或流年的财帛宫,是为同类互忌,不以凶论。同类宫互冲忌则凶,例如大财化忌冲本财,流财化忌冲大财,大疾化忌冲本疾,流疾化忌冲大疾等,必然有事。大限与流年同类相冲亦凶。例如大限事业化忌在亥宫冲巳宫,当巳宫变为流年事业宫之年,事业便崩溃了。又如,大限财帛化忌冲流年财帛宫,破财之事便发生了。
Quan hệ giữa Tứ hóa không đồng cấp (ví dụ Tứ hóa của Đại hạn và Tứ hóa của Lưu niên là không đồng cấp) nhưng cùng loại, như sau: Cùng loại Cung vị “hỗ kị” thì không “kị”, ví dụ như Tài Bạch cung của Đại hạn Hóa kị nhập cung Tài bạch của Bản mệnh, Tài bạch cung của Lưu niên Hóa kị nhập cung Tài bạch của Đại hạn, Tài bạch cung của Bản mệnh Hóa kị nhập cung Tài bạch của Đại hạn hay Lưu niên, thì là “đồng loại hỗ kị”, không luận là Hung. Đồng loại cung “hỗ xung” Kị thì Hung, ví dụ như Tài bạch Đại hạn Kị xung Tài bạch Bản mệnh, Tài bạch Lưu niên Kị xung Tài bạch Đại hạn, Tật ách Đại hạn Kị xung Tật ách Bản mệnh, Tật ách Lưu niên Kị xung Tật ách Đại hạn…, tất nhiên sẽ có “sự kiện”. Đại hạn và Lưu niện cùng loại tương xung cũng sẽ Hung. Ví dụ như Sự nghiệp Đại hạn (Quan lộc Đại hạn) Hóa kị tại Hợi cung Tị cung, khi Tị cung trở thành Sự nghiệp Lưu niên (trong năm đó), Sự nghiệp bị đổ vỡ. Lại như, Tài bạch Đại hạn Kị xung Tài bạch Lưu niên, sự kiện “phá tài” (mất tiền của) sẽ phát sinh.
大限与流年,流年与流月,流月与流日,流日与流时的关系及论断方法同理,分三级相扣,中级为转折点,具体参看下一节。论流年、月、日、时四化,较重视冲宫,不太重视三合宫。
Đại hạn và Lưu niên, Lưu niên và Lưu nguyệt, Lưu nguyệt và Lưu nhật, Lưu nhật và Lưu thời các cấp luận đoán cũng cùng lí luận trên, chia làm ba cấp liên kết, “Trung cấp” (cấp
ở giữa) là điểm chuyển ngoặt, cụ thể tham khảo tiết sau. Khi bàn về Năm, Tháng, Ngày, Giờ, tương đối xem trọng cung xung chiếu, mà không quá quan trọng cung tam hợp.
第九节河洛四化分析论断的基本方法
看四化的吉凶影响,本级四化首先影响本级十二宫,例如大限四化首先对本大限的吉凶起直接的作用,其次才是对上下级发生影响作用。看大限,以大限四化为主,以命盘四化为辅。看流年,以流年四化为主,以大限四化为辅,以命盘四化为参考
。
Xem ảnh hưởng cát hung của Tứ hóa, bản thân cấp độ của Tứ hóa đầu tiên sẽ ảnh hướng đến bản thân cấp độ đó trên 12 cung, ví dụ như Tứ hóa của Đại hạn đầu tiên sẽ tạo nên tác dụng cát hung trực tiếp trên Đại hạn, tiếp đến mới tạo nên ản hưởng, tác dụng đến “thượng cấp” và “hạ cấp”. Xem Đại hạn, lấy Tứ hóa đại hạn làm chủ, lấy Tứ hóa Mệnh bàn làm bổ trợ. Xem Lưu niên, lấy Tứ hóa Lưu niên làm chủ, lấy Tứ hóa Đai hạn làm bổ trợ, lấy Tứ hóa Mệnh bàn để tham khảo.
原命盘是”体”是”因”,看定数;行限盘是”用”是”果”,看应数(应期)。
Nguyên cục Mệnh bàn là “Thể”, là “Nhân”, dùng để xem xét Định số; Mệnh bàn Hành hạn là “Dụng”, là “Quả”, dùng để xem xét Ưng số (Ứng kì).
河洛紫微斗数有一法则,就是由命、大限、流年、流月、流日、流时,一路往下推,落宫的天干一律以原命盘为准,一成不变(均用原命盘的天干)。这一点与星情法是有区别的,星情法论大限四化时,天干要重排(有些派别不重排)。
Hà Lạc Tử Vi Đẩu Số có một phép tắc, đó là từ Mệnh, Đại hạn, Lưu niên, Lưu nguyệt, Lưu thời, 1 mạch từ trên xuống dưới để dự đoán, Can cung nhất nhất lấy Nguyên cục Mệnh bàn làm “chuẩn”, nhất định không thay đổi (đều dùng Thiên can của của Nguyên cục Mệnh bàn). Điểm này có khác biệt với “tinh tình pháp”, “tinh tình pháp” khi luận Tứ hóa Đại hạn, Thiên can cần an lại (cũng có một số nhanh không cần an lại Thiên can).
河洛派以命盘为”天盘”,大限盘为”地盘”,流年盘为”人盘”。
Hà Lạc phái lấy Mệnh bàn làm Thiên bàn, Đại hạn làm Địa bàn, Lưu niên làm Nhân bàn.
◇”在天成象,在地成形,在人成事”。所以,推命就分为三个不同的阶段。”在天成象”,意思是在天盘只是朦胧的象,就如刚受过精的卵子,只是生命的播种阶段,是为种”因”。”在地成形”,意思是到了地盘,朦胧的象已发展成为有形有状的阶段,就如受精的卵子经过母体的孕育,逐渐成为胎儿,是为”缘”。”在人成事”,意思是事情已经产生,就如孕育成的胎儿瓜瓜落地,已经脱离母体,成为活生生的人,是为结”果”。
“Tại thiên thành tượng, tại địa thành hình, tại nhân thành sự”. Vì thế, đoán mệnh chia thành 3 giai đoạn khác nhau. “Tại thiên thành tượng”, ý là tại Thiên bàn chỉ là “tượng mông lung”, là giống như quả trứng vừa mới nhận được tinh, chỉ là giai đoạn “trồng cấy” sinh mệnh, đó là “NHÂN”. “Tại địa thành hình”, ý là đến Địa bàn, “tượng mông lung” đã phát triển đến giai đoạn có hình trạng, giống như quả trứng nhận được tinh lại đã qua sự “ấp” của mẹ, dần dần trở thành thai nhi, đó là “DUYÊN”. “Tại nhân thành sự”, ý là sự vật, sự việc đã thực sự sản sinh, giống như thai nhi đã được nuôi dưỡng, giờ như quả dưa rơi xuống đất, đã thoát ly khỏi cơ thể người mẹ, trở thành người có sinh mệnh, gọi là kết “QUẢ”.
在这三个阶段中,地盘是至关重要的转折阶段,它承担孕育天盘之象以成形,又负担转化生人盘以成事的承前启后的作用。但结果在人盘,所以最后成与不成得看人
盘。
Trong 3 giai đoạn này, là giai đoạn chuyển tiếp vô cùng quan trọng, nó đảm nhận việc “nuôi dưỡng” Tượng ở Thiên bàn thành Hình, lại có trách nhiệm chuyển hóa tác dụng “kế thừa và phát triển” của Nhân bàn. Nhưng kết quả là ở tại Nhân bàn, vì vậy cuối cùng việc thành hay bất thành đều xem tại Nhân bàn.
一件事的产生,在紫微斗数中亦分为三个阶段,即在本命盘为”天垂象”的酝酿阶段,在大限盘的”成形”孕育阶段,在流年盘为事物产生阶段,即”成事”阶段。大限盘是一个转折的关键阶段,力量最大,管十年祸福,其吉凶已基本定型,就看应于这十年内的哪一年了。所以,推算流年运,应由大限盘的天干四化情况并结合本命盘之象来推断,三环相扣才能顺理成章。同理,在看流月时,应以流年的四化并配合大限之象来推断;看流日应以流月四化并配合流年之象来推断;看流时应以流日四化并配合流月之象来推断(三环相扣法在下节详论)。
Mỗi sự kiện sản sinh, thì Tử Vi Đẩu Số cũng chia làm 3 giai đoạn, tức là tại Bản Mệnh bàn là giai đoạn “lên men” – Thiên thùy Tượng, tại sự “thành hình” của Đại hạn bàn là giai đoạn “nuôi dưỡng”, trong Lưu niên bàn là giai đoạn “sinh trưởng” của sự vật, tức là giai đoạn “thành sự”. Bàn Đại hạn là một giai đoạn then chốt của sự chuyển tiếp, lực lượng vô cùng lớn, quản mười năm họa phúc, cát hung đã cơ bản định hình, chỉ còn xem sự việc sẽ “ứng” vào năm nào trong 10 năm này. Vì vậy, việc dự đoán vận Lưu niên, là tùy vào tình trạng Thiên can Tứ hóa của Đại hạn bàn kết hợp với “Tượng” của Bản Mệnh bàn để dự đoán, 3 giai đoạn này lồng ghép vào nhau mới có thể dự đoán một cách hợp lý, logic. Cùng với lý luận đó, khi xem Lưu nguyệt, nên kết hợp Tứ hóa Lưu niên và Tượng của Đại hạn để dự đoán; xem Lưu nhật thì kết hợp Lưu nguyệt Tứ hóa và Tượng của Lưu niên để dự đoán; xem Lưu thời thì kết hợp Lưu nhật Tứ hóa và Tượng của Lưu nguyệt để dự đoán (sự lồng ghép giữa 3 giai đoạn này sẽ nói rõ ở tiết sau)
我们在推命过程中,如能劝人在垂象成因阶段不要在某时某方做什么事,就可以避免发生不良的后果(无因则无果),这才是功德无量。
Chúng ta trong quá trình đoán mệnh, nếu như có thể khuyên đương số trong giai đoạn “thùy tượng thành nhân” không nên làm một việc gì đó, trong một thời điểm nào đó, thì người đó có thể tránh được việc “tạo ra” một hậu quả không tốt (không có Nhân thì không có Quả), đây mới gọi là công đức vô lượng.
生年四化叫天垂象,是天赋之意。原盘四化入大限盘也叫垂象,是为定数,决定此大限的格局高低、是吉是凶,即此大限内的运气情况,反映的主要是时间关系。
Tứ hóa năm sinh gọi là “Thiên thùy tượng”, là do “thiên phú”. Tứ hóa nguyên bàn nhập Đại hạn bàn cũng gọi là “Thùy tượng”, mang nghĩa “Định số”, quyết định cách cụ của đại hạn là cao hay thấp, là cát hay là hung, tức là tình trạng vận khí trong đại hạn đó, chủ yếu phản ánh quan hệ về thời gian.
生年四化要入本命的三方才有力;大限四化要入本命的三方才有力;流年四化要入大限的三方才有力;流月四化要入流年的三方才有力;流日四化要入流月的三方才有力;流时四化要入流日的三方才有力。这叫”下承上”。
Tứ hóa năm sinh cần nhập Tam phương của Mệnh thì mới có lực; Tứ hóa đại hạn cận nhập Tam phương của Mệnh thì mới có lực; Tứ hóa Lưu niên cần nhập Tam phương của Đại hạn mới có lực; Tứ hóa Lưu nguyệt cần nhập Tam phương của Lưu niên mới có lực; Tứ hóa Lưu nhật cần nhập Tam phương của Lưu nguyệt mới có lực; Tứ hóa Lưu thời cần nhập Tam phương của Lưu nhất mới có lực. Đây gọi là “Hạ thừa Thượng”
大限要得生年三吉会照才好,逢生年忌会照则不利,尤其逢忌冲更不利;流年要得大限三吉会照才好,生年三吉会照亦好,逢大限忌会照则不利,逢大忌冲更不利;流月逢流年三吉会照才好,逢流年忌会照则不利;流日和流时同理。这叫”上应下”。
Đại hạn cần phải có Tam cát hóa (Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa) của năm sinh hội chiếu mới tốt, gặp Hóa kị năm sinh hội chiếu thì bất lợi, đặc biệt Hóa kị năm sinh xung thì càng bất lợi; Lưu niên cần có Tam cát hóa của đại hạn hội chiếu thì mới tốt, có Tam cát hóa của Năm sinh cũng tốt, gặp Hóa kị đại hạn hội chiếu thì bất lợi, gặp Hóa kị đại hạn xung càng bất lợi; Lưu nguyệt gặp Tam hóa cát của Lưu niên hội chiếu thì mới tốt, gặp Hóa kị của Lưu niên hội chiếu thì bất lợi; Lưu nhật và Lưu thời cũng vậy. Đây gọi là “Thượng ứng hạ”.
命盘四化留给大限看,大限四化留给流年看,反过来,命局的定数应于某一限年,就以应数之年飞四化回大限,以大限飞上化回命盘,用这种方法来看吉的大限和流年是增吉还是减吉?凶的大限和流年是增凶还是减凶、有无补救?例如生年化禄之星,行限使之化禄,为增吉;生年化忌之星,行限使之化禄,为变好,可减其凶性,为有补救。生年禄入大限的父疾线,主光明;但大限宫天干使此星再化忌,则为忌带忌,为变坏,主大凶。故生年化禄之星,行限使之化忌则凶。化权科有解忌的作用,上下级逢权忌、科忌都不致大凶,例如大权逢本忌和大忌逢本权,仅主增点阻力或烦恼而已。
Tứ hóa Mệnh bàn để xem Đại hạn, Tứ hóa Đại hạn để xem Lưu niên, ngược lại, Định số của Mệnh cục ứng ở một hạn một năm nào đó, là Năm ứng số phi Tứ hóa quay lại Đại hạn, rồi Đại hạn phi ngược Tứ hóa quay lại Mệnh bàn, dùng phương pháp này để đánh giá Cát của Đại hạn và Lưu niên là tăng cát hay giảm cát? Hung của Đại hạn và Lưu niên là tăng hung hay là giảm hung, có hay không có sự bổ cứu? Ví dụ như Hóa lộc của năm sinh, hành hạn cũng Hóa lộc, là tăng cát; Hóa kị của năm sinh, hành hạn Hóa lộc, là biến đổi tốt, có thể giảm đi tính hung, là có bổ cứu. Hóa lộc năm sinh nhập Đại hạn tuyến Phụ Mẫu – Tật Ách, chủ về “tỏa sáng”; nhưng Thiên can cung Đại hạn lại Hóa kị, khiến cho Hóa kị dẫn động (biến Lộc trở thành Kị), biến thành xấu, chủ đại hung. Cho nên Hóa lộc năm sinh, mà gặp Hành hạn Hóa kị thì thành hung. Hóa quyền Hóa khoa có tác dụng “giải Kị”, thượng hạ cấp gặp Quyền Kị, Khoa Kị đều không thể Đại Hung, ví dụ như Đại hạn Hóa quyền gặp Bản mệnh Hóa kị và Đại hạn Hóa kị gặp Bản mệnh Hóa quyền, chỉ chủ cho việc tăng thêm trở lực và phiền não mà thôi.
大限宫是个中转站,大限宫四化”上应本命,下应流年”,即大限四化入原命盘何宫为”上应本命”,为”应数”,说明这步限运将在什么时间、地点、发生什么事情,事情首先与四化落原盘宫的名称有关,其次才是与横向宫发生关系,故主要反映出空间关系,也就是说这步运限我将会把全部精力投入到原命盘宫所关系到的人事和领域。例如大限化禄入本命的福德官,首先,福德是财源,故表示此限我很关心赚钱;其次,福德为夫妻的事业,也表示我对配偶的事业很关心。又如大限化忌冲本命事业,为用冲体,灾害必重,此大限的事业必有变动。
Cung đại hạn là điểm trung chuyển, Tứ hóa của đại hạn “Trên thì ứng Bản mệnh, dưới thì ứng Lưu niên”, tức là Tứ hóa Đại hạn nhập các cung trên Mệnh bàn là “Trên thì ứng Bản mệnh”, đóng vai trò “Ứng số”, nói rõ tại Hạn vận này xảy ra vào lúc nào, ở đâu, phát sinh sự kiện gì, sự kiện đầu tiên cùng với Danh xưng của cung trên Mệnh bàn mà Tứ hóa (Tứ hóa Đại hạn) nhập vào tạo nên quan hệ, rồi đến mới phát sinh quan hệ với các cung khác, chủ yếu phản ánh mối quan hệ về không gian, cũng là nói bước Vận hạn này ta sẽ mang toàn bộ tinh lực “đầu tư” vào “nhân sự” và “lĩnh vực” của cung có quan hệ trên Mệnh bàn gốc. Ví dụ như Đại hạn Hóa lộc nhập cung Phúc đức (Phúc Đức của bản mệnh), đầu tiên, Phúc đức là nguồn của Tài (Tài bạch), cho nên biểu thị rằng tại Đại hạn này ta rất quan tâm đến tiền bạc; tiếp theo, Phúc đức đóng vai trò Sự nghiệp (Quan lộc) của cung Phu thê, cũng biểu thị rằng ta rất quan tâm đến sự nghiệp của vợ hoặc chồng. Lại như Đại hạn Hóa kị xung Quan lộc của Bản mệnh, đó là “Dụng” xung “Thể”, tai họa tất nhiên sẽ lớn, Sự nghiệp của Đại hạn này tất nhiên sẽ có biến động.
大限是转折点,是事件的成形阶段,只要本大限的事件已经形成,在本大限内的某一年即会发生。事件产生于那一年,则看本限内那一年走到大限同类的四化坐宫(吉事)或对冲宫(凶事)。至于吉凶的程度,则宜参看上面的”化出”和”化入”、”忌出”与”忌入”,以及四化之间的关系。
Đại hạn là điểm chuyển ngoặt, là giai đoạn thành hình của sự kiện, chỉ cần sự kiện của Đại hạn thành hình, thì trong Đại hạn đó sẽ phát sinh sự kiện trong một năm nào đó. Sự kiện sản sinh vào năm nào, thì xem năm nào trong Đại hạn có Tứ hóa đồng loại với cung mà Tứ hóa Đại hạn ở đó (với việc tốt) hoặc đối xung với cung (với việc hung). Đến như mức độ của cát-hung, thì tham khảo “Hóa xuất” và “Hóa nhập”, “Kị xuất” và “Kị nhập”, và mối quan hệ giữa Tứ hóa.
不同级而同类四化之间的关系:同类宫位互忌则不忌,例如大限的财帛宫化忌入本命的财帛宫,流年的财帛宫化忌入大限的财帛宫,本命的财帛化忌入大限的财帛或流年的财帛宫,是为同类互忌,不以凶论。同类宫互冲忌则凶,例如大财化忌冲本财,流财化忌冲大财,大疾化忌冲本疾,流疾化忌冲大疾等,必然有事。大限与流年同类相冲亦凶。例如大限事业化忌在亥宫冲巳宫,当巳宫变为流年事业宫之年,事业便崩溃了。又如,大限财帛化忌冲流年财帛宫,破财之事便发生了。
Quan hệ giữa Tứ hóa không đồng cấp (ví dụ Tứ hóa của Đại hạn và Tứ hóa của Lưu niên là không đồng cấp) nhưng cùng loại, như sau: Cùng loại Cung vị “hỗ kị” thì không “kị”, ví dụ như Tài Bạch cung của Đại hạn Hóa kị nhập cung Tài bạch của Bản mệnh, Tài bạch cung của Lưu niên Hóa kị nhập cung Tài bạch của Đại hạn, Tài bạch cung của Bản mệnh Hóa kị nhập cung Tài bạch của Đại hạn hay Lưu niên, thì là “đồng loại hỗ kị”, không luận là Hung. Đồng loại cung “hỗ xung” Kị thì Hung, ví dụ như Tài bạch Đại hạn Kị xung Tài bạch Bản mệnh, Tài bạch Lưu niên Kị xung Tài bạch Đại hạn, Tật ách Đại hạn Kị xung Tật ách Bản mệnh, Tật ách Lưu niên Kị xung Tật ách Đại hạn…, tất nhiên sẽ có “sự kiện”. Đại hạn và Lưu niện cùng loại tương xung cũng sẽ Hung. Ví dụ như Sự nghiệp Đại hạn (Quan lộc Đại hạn) Hóa kị tại Hợi cung Tị cung, khi Tị cung trở thành Sự nghiệp Lưu niên (trong năm đó), Sự nghiệp bị đổ vỡ. Lại như, Tài bạch Đại hạn Kị xung Tài bạch Lưu niên, sự kiện “phá tài” (mất tiền của) sẽ phát sinh.
大限与流年,流年与流月,流月与流日,流日与流时的关系及论断方法同理,分三级相扣,中级为转折点,具体参看下一节。论流年、月、日、时四化,较重视冲宫,不太重视三合宫。
Đại hạn và Lưu niên, Lưu niên và Lưu nguyệt, Lưu nguyệt và Lưu nhật, Lưu nhật và Lưu thời các cấp luận đoán cũng cùng lí luận trên, chia làm ba cấp liên kết, “Trung cấp” (cấp
ở giữa) là điểm chuyển ngoặt, cụ thể tham khảo tiết sau. Khi bàn về Năm, Tháng, Ngày, Giờ, tương đối xem trọng cung xung chiếu, mà không quá quan trọng cung tam hợp.
第九节河洛四化分析论断的基本方法
(Tử vi đẩu số tinh hoa tập thành – Đại Đức Sơn Nhân