Chương 29: Suy Đoán Về Sóng Gió Của Hôn Nhân

Về cơ bản chỉ cần Tam phương của cung Mệnh và cung Phu Thê không có các Sát Kị tinh hội nhập, là chủ vợ chồng hòa hợp tính tình, ăn ở thuận hòa. Nếu có quá nhiều sát tinh hội nhập, hoặc Kị tinh xung đến, đều chủ về vợ chồng vô duyên, nhiều tranh cãi, hôn nhân muộn. Đây chỉ là từ tính chất các sao để phán đoán thôi. Cũng không thể diễn tả diễn biến trạng thái động của vận trình cuộc sống. Tinh tú chỉ đại biểu hiện tượng ở trạng thái tĩnh, không nhất định sẽ sinh ra lành dữ. Thí dụ có người gả cho Đại ca giang hồ, trông thì có vẻ như là không hạnh phúc, nhưng Đại ca về nhà đối với vợ nói gì nghe nấy, rất dễ bảo. Người trong cuộc cũng chẳng cảm thấy không hạnh phúc, đây là trạng thái hiện tượng tĩnh. Phải chờ lúc sau khi các Hung Kị tinh bị kích động mới sinh biến hóa cát hung, như đánh nhau bị giết, hoặc làm việc phi pháp bị tóm vào kho thì đối với người trong cuộc mới phát sinh ra hiệu ứng cát hung.

“Vận đồ” của Người chính là trạng thái động, sẽ tùy theo sự biến hóa của Thời gian, Không gian, mà thay đổi. Nhiều người lúc mới kết hôn, 2 vợ chồng ân ái ngọt ngào làm người khác hâm mộ. Trải qua thời gian dài vì sự nghiệp thay đổi, vấn đề dạy dỗ con cái, vấn đề mẹ chồng nàng dâu, người bị bệnh liệt giường, thậm chí bị người thứ ba hấp dẫn lầm đường lạc lối,… mới khiến cho tình cảm vợ chồng xuất hiện vết rạn vỡ, đưa đến ly hôn.

Nguyên nhân tạo thành hôn nhân sóng gió có nhiều không kể xiết, thực tế thì không thể chỉ dựa vào 2 cung Mệnh và Phu Thê là có thể nhìn nhận ra huyền cơ biến động của hôn nhân. Nhất định phải thấy được rõ các nhân tố ở đằng sau mà có khả năng tạo thành khủng khoảng hôn nhân, mới có thể nắm được chính xác sự tương quan giữa các cung vị mà phán đoán cát hung. Vì vậy, các sách bán trên phố (như cuốn nguyệt san của Trương lão sư) các báo cáo phân tích về việc vợ chồng ly dị mà đã đưa vào những nhân tố tương quan là số liệu tham khảo rất tốt.

Nếu là xem hôn nhân, đương nhiên phải xem [cung Phu Thê là cung cơ bản], còn những cung khác như Tài Bạch, Quan Lộc cũng sẽ tạo thành sự biến hóa của mối quan hệ vợ chồng đối đãi. Nếu là vấn đề mẹ chồng, thì cung Huynh Đệ chính là [cung Phụ Mẫu của cung Phu Thê] cũng chính là cung vị đại biểu cha mẹ chồng hoặc cha mẹ vợ của người đã kết hôn. Cho nên cũng cần đưa vào để cân nhắc chứ không phải chỉ nhìn mỗi cung Phu Thê mà thôi. Đây là điều cơ bản cần biết, đây cũng là điểm mà nhiều học giả nghiên cứu Đẩu Số còn thường sơ suất không lưu ý.

Tứ hóa tinh chính là trung gian suy đoán sự biến hóa trạng thái động của vận đồ, lấy các Tính chất sao làm nguyên gốc, rồi lấy Hóa khí làm chứng nghiệm. Cho nên quá trình toán mệnh của Đẩu Số cần đem các nhân tố như Tính chất Sao, Cung vị, Tứ hóa, Đại hạn, Lưu niên, Cung vị trùng điệp, để bao quát từ ngoài vào trong, rồi tổng hợp để mà cân nhắc, thì mới có thể nắm giữ huyền cơ của sự biến hóa số mạng. Chương này sẽ nói rõ mối quan hệ giữa cung vị Tứ Hóa của Mệnh, Hạn và sự biến hóa của hôn nhân. Nếu nắm được cách vận dụng Tứ Hóa tinh, thì mới có thể biết rõ sự biến đổi trong hôn nhân.

Chúng ta đều biết, nói về một sự kiện thì cần gồm có 5 yếu tố Người, Sự việc, Thời gian, Nơi chốn, Sự vật thì mới được coi là hoàn chỉnh.

Trong lá số, Tinh Tú, Cung Vị, Thiên Can, Địa Chi, Hóa tinh đã bao hàm 5 yếu tố chủ chốt. Nhưng làm thế nào để tìm ra được mối quan hệ của [Người, Sự việc, Thời gian, Nơi chốn, Sự vật] và “Tinh Tú, Cung Vị, Thiên Can, Địa Chi, Hóa tinh”. Không dành ra mấy năm khổ tâm nghiên cứu thì không cách nào hiểu được mối quan hệ giữa chúng. Đơn giản mà nói, các nhân tố ảnh hưởng mấu chốt ở trong sự biến hóa của chúng là ở chỗ Tứ Hóa. Thông qua sự Khởi phi và Lạc nhập của Tứ Hóa hình thành mối quan hệ nương tựa giữa 2 cung vị, sau đó lại từ trong quan hệ này mà diễn giải rõ ra sự bao hàm 5 yếu tố [Người, Sự việc, Thời gian, Nơi chốn, Sự vật].

Có thể nắm được mối quan hệ tương ứng về đường bay của Tứ Hóa ở trong lá số thì mới có thể sử dụng Tử Vi Đẩu Số suy đoán sự biến hóa của Mệnh và Vận.

Căn cứ vào thống kê trong những nhân tố ảnh hưởng hôn nhân, những người chiếm tỷ lệ khá lớn có: Vấn đề về mẹ chồng, Đại gia đình sống chung với nhau, Sự nghiệp lên xuống, Giáo dục con cái, Bạn bè hỗn tạp, Ngoại tình, Quanh năm đau ốm, thói hư tật xấu (như đánh bạc, bạo lực, say rượu). Những yếu tố này đều không phải là chỉ riêng mình cung Phu Thê có thể bao quát hết. Cho nên phải thông qua các cung vị đối ứng với cung Phu Thê để tạo thành mối quan hệ kết hợp nào đó thì mới có thể biết được loại nhân tố nào ảnh hưởng tới hôn nhân.

Đầu tiên sẽ giải thích các tác dụng của Tứ Hóa tinh, trước hết là theo các ý nghĩa cơ bản sơ khởi của các sao Tứ Hóa. Rốt cuộc thì Tứ Hóa tinh ở trong cuộc sống hôn nhân cần phải giải thích như thế nào?

Có thể đơn giản mà nói như sau:

Hóa Lộc: đại biểu cho có tình ý với nhau, có duyên phận sâu đậm với nhau, tình nghĩa tươi tốt tràn trề.

Hóa Quyền: đại biểu cho việc có thành tựu, có tài cán, nhưng ngang ngược, ưa quản chế, tranh chấp, thăng tiến.

Hóa Khoa: đại biểu cho quý nhân, sự nhã nhặn lịch sự, sự ung dung thong thả, sự thanh tú xinh đẹp.

Hóa Kị: đại biểu cho những sự lo lắng, tranh chấp, vô duyên bạc phận, mắc nợ, muộn cưới, chôn giấu.

Trong đó Hóa Kị cũng không hoàn toàn chỉ có xui xẻo, Hóa Lộc cũng không haonf toàn chỉ có tốt đẹp. Định nghĩa cát hung của chúng không thể bằng dăm ba lời giải thích đã rõ ràng, cần phải cùng với cung vị kết hợp mới đưa ra được sự lành dữ của chúng.

Thiên Can là chỉ Thiên can Tứ Hóa, gồm có Thiên can năm sinh, Thiên can 12 cung, Thiên can cung Đại hạn, Thiên can cung Lưu Niên,… những thứ Thiên can này sẽ phi xuất Tứ Hóa phân bố ở trên lá số. Căn cứ mối quan hệ của cung vị nơi Khởi phi và nơi Lạc nhập mà có khác biệt giữa [Hoá xuất] và [Hóa Nhập]. [Hóa Nhập] ý nghĩa là đến, là lấy được, đoạt được. [Hóa Xuất] ý nghĩa là không cam lòng, mất đi mà trong lòng không muốn. [Tự Hóa] ý nghĩa là không biết nắm cơ hội, uổng công vô ích.

Cái gì gọi là [Hóa Nhập], [Hóa Xuất], [Tự Hóa]? Từ đây trở đi sẽ đem những danh từ này mà định nghĩa một chút. Trước tiên là nói về định nghĩa của [Nhập].

Thí dụ như mệnh bàn A bên dưới, cung Mệnh can Tân khiến cho Cự Môn hóa “Lộc nhập” cung Phu Thê. Đối với cung Mệnh của ta mà nói chính là hóa Lộc “Lộc xuất” cấp cho vợ chồng, tức là ta sẽ nỗ lực yêu thương quan tâm đến vợ chồng của mình. Còn đối với cung Phu Thê mà nói, chính là từ cung Mệnh ta hóa Lộc cấp cho họ, là trạng thái của “Lộc Nhập”, cũng tức là người vợ chồng có thể nhận được sự quan tâm yêu mến của ta. Bởi vì từ cung Mệnh khởi phi, đại biểu Hóa của ta cấp cho người phối ngẫu.

Nhưng người phối ngẫu có nhận được hay không? Khi nhận được sự quan tâm yêu mến của ta thì có chấp thuận hay không? Thì cần xem tình huống phân bố Tứ Hóa của cung Phu Thê. Có sự Tự Hóa hay không? Như đồ hình trên, cung Phu Thê tại Sửu có Thiên Can là Tân khiến cho Văn Xương hóa Kị ở cung Phu Thê (loại tình huống này được gọi là Văn Xương tự hóa Kị). Tự hóa Kị mang ý nghĩa là “Trôi đi, mất đi”, và cũng mang ý nghĩa mối quan hệ vợ chồng có trạng thái “Phát tán”, chứng tỏ người phối ngẫu không không hề tiếp nhận tình cảm, đối với những sự quan tâm yêu thương của ta đều hờ hững thờ ơ. Dĩ nhiên là muốn giải thích chính xác thêm ra là loại hình thái nào thì cần phải từ từ tổ hợp tinh tú để mà phân tích. Ở ví dụ này, cung Phu Thê có các sao [Thiên Đồng, Cự Môn, Văn Xương]. Thiên Đồng là nhẫn nhịn điều hòa, Cự Môn là ám tinh chủ miệng lưỡi, Văn Xương chủ văn thư học thức, do đó mà tổ hợp 3 sao này hợp lại có ý nghĩa “Sự hiểu lầm, miệng lưỡi thị phi”, có thể giải thích là vì giao tiếp không tốt hoặc không biết cách bày tỏ nê khiến cho thiện ý quan tâm đối phương bị hiểu lầm mà khiến cho mối quan hệ giữa hai người phủ lên một màn sương mù.

Lại như cung Mệnh ta hóa Lộc nhập cung Phu Thê, rồi cung Phu Thê lại hóa Lộc nhập cung Mệnh ta, loại này là hiện tượng “Lộc lai Lộc khứ” (Lộc đến Lộc đi) chứng tỏ ý tứ là quan tâm chăm sóc qua lại lẫn nhau. Hóa Quyền vốn có ý nghĩa tôn trọng nhau và tương kính như tân. Hóa Khoa thì là yêu ở trong lòng mà khó mở miệng nói ra. Sau đó lại phối hợp với các tinh tú trong cung có thiện tính hay ác tính, thì biết được ngay hôn nhân là tốt hay xấu.

Thứ nhất, chúng ta bắt đầu nói từ Tứ Hóa năm sinh nhập vào cung Phu Thê:

Hóa Lộc: Rất có duyên với người khác giới, tình duyên cả hai phía đều sâu đậm quyến luyến lẫn nhau, cho nên cưới khá sớm nhưng không nhất định là dạng tảo hôn.

Hóa Quyền: Đối phương là người có tài cán, trên sự nghiệp là người cầm quyền hoặc tự sáng lập sự nghiệp, hoặc quen biết lúc mà đối phương đã có danh vọng tương đối khá trong xã hội hoặc đã có nền tảng sự nghiệp.

Hóa Khoa: Tướng mạo và dáng vóc của người phối ngẫu cân xứng đều đặn, hào hoa phong nhã, làm việc khoan thai, rơi vào nguy nan thì gặp lực lượng hóa dữ thành lành, thuộc về nhóm người trí thức (Xương Khúc hóa Khoa thì càng thêm chính xác).

Hóa Kị: Quan tâm quá mức hoặc không quan tâm đến người phối ngẫu, dẫn đến việc ở chung không hợp, lại cũng chủ thiếu nợ, cho nên sẽ vì đối phương mà phải bỏ ra nhiều công sức, hoặc như đối phương mang bệnh kinh niên hoặc sự nghiệp trường kỳ bất thuận, cho nên phải một mình gánh trách nhiệm gia đình về lâu về dài, chính vì thế nên kết hôn muộn.

Trên đây là những giải thích về Tứ Hóa theo Thiên can năm sinh nhập vào cung Phu Thê. Chúng lại có thể cùng với Tứ Hóa theo Can cung Mệnh và Can cung Phu Thê tương tác với nhau mà phát sinh ra những tác động khác nhau. Tới lúc ấy, thì lại cần phải giải thích khác đi về hiện tượng sau khi có tác dụng tương hỗ.

Như ở lá số B thì Thiên can năm sinh hóa Kị nhập phu thê, chứng tỏ là sẽ quan tâm đến người phối ngẫu hoặc sẽ vì đối phương mà bỏ ra tâm huyết, nhưng mà việc thị phi cãi vã là không tránh khỏi. Hiện tại Can cung Mệnh hóa Lộc nhập cung Phu Thê chứng tỏ ta rất yêu thương người phối ngẫu. Chẳng qua là cùng với Hóa Kị năm sinh đụng độ lẫn nhau, biến thành Song Kị. Tượng của thí dụ này chính là Thái Âm hóa Lộc và Thái Dương hóa Kị tác động lẫn nhau. Không phải cùng là từ 1 sao thì sẽ không sinh ra hiệu lực song Kị. Hai lực lượng Hóa Lộc và Hóa kỵ cùng tồn tại sẽ trở thành chuyện tình cảm không ổn định. Bởi vì Hóa Kị năm sinh còn có ý nghĩa là thiếu hụt, trong khi cung Phu Thê là [sao Thái Dương hóa Kị đồng cung với Thái Âm], nếu là nữ mệnh thì do sao Thái Dương hóa Kị biểu thị ý nghĩa có sự khiếm khuyết về chồng. Không phải là mang ý nghĩa rằng người chồng có điều kiện hơi kém, mà là mang ý nghĩa sẽ kết hôn trễ hoặc không kết hôn. Nếu như là nam mệnh, khí thế của người vợ sẽ hơn hẳn, người chồng thường phải nịnh nọt ý kiến của vợ, tính chiếm hữu của người vợ rất mạnh mẽ, khiến cho cư xử vợ chồng mất cân bằng, vì vậy ăn ở với nhau không hòa thuận, sinh ra tranh chấp hoặc oán giận lẫn nhau.

Nếu Thiên can cung Mệnh hóa Quyền nhập cung Phu Thê mà cùng với Hóa Kị năm sinh tương tác lẫn nhau, do là ta hóa Quyền cấp cho phối ngẫu, ta mà to tiếng thì phối ngẫu sẽ còn to tiếng hơn. Có thể dẫn ra thí dụ cho rõ là, đối phương bất chấp lý lẽ còn mình thì cũng kiên trì ý kiến bản thân, không có ai chịu nhường ai.

Nếu là Hóa Khoa thì nói như thế nào? Chính là sẽ biết ngồi xuống để nói rõ phải trái, cho nên cung Phu Thê mừng nhất là có Khoa tinh tọa thủ.

Luận về các sao Tứ Hóa, quan trọng hàng đầu là sao Hóa Kị, cường độ lực của Hóa Kị thì lấy Xung là hung nhất, còn hung lực của Tọa thì kém hơn. Cho nên khi gặp tình huống Hóa Kị xung, thì hai vợ chồng đều cần phải hết sức cẩn thận để điều chỉnh ứng xử cho phù hợp. Phàm là các cung lục thân Hóa Kị đến Xung, tức là chủ về sự vô duyên giữa ta với cái cung lục thân của ta mà bị Hóa Kị đến xung. Cái được gọi là “lục thân”, tức là chỉ 6 cung gồm Mệnh cung, Huynh Đệ, Phu Thê, Tử Tức, Phụ Mẫu, Nô Bộc.

Tỷ như trong mệnh bàn C* thì Thiên can cung Phu Thê hóa Kị nhập cung Thiên Di của ta. Đối với cung Mệnh của ta mà nói, chính là tạo thành góc độ “Xung” của tình thế mà cung Phu Thê hóa Kị đến “xung” cung Mệnh của ta (“xung” lại chính là ý nghĩa của “Hóa xuất”) tức là có ý rằng “Thoát ly; Chia rẽ”. Có thể giải thích theo ý nghĩa rộng ra là vợ chồng vô duyên. Lấy cung Mệnh gốc mà nói, thì chính là vợ chồng gần nhau ít mà xa cách thì nhiều, hoặc là ám chỉ không cách nào giữ được yên ấm ở trong nhà.

Nếu như, cung Mệnh hóa Kị nhập vào cung Quan Lộc (còn gọi là cung Sự Nghiệp) xung cung Phu Thê. Đối với cung Mệnh ta mà nói, hóa Kị nhập cung Quan Lộc chính là ta quan tâm sự nghiệp, còn đối với cung Phu Thê mà nói, do ta hết lòng vì sự nghiệp mà lạnh nhạt với đối phương. Cho nên kiểu vô duyên này cũng không phải là mang ý nghĩa sinh ly tử biệt, mà mang ý nghĩa gần nhau ít và xa cách nhiều, đối phương phần lớn là thích ứng với loại sinh hoạt kiểu đó. Nhưng nếu là cung Phu Thê của Đại Hạn, của Lưu Niên đều hình thành cục thế “xung” dạng này thì cần phải đặc biệt lưu ý, bởi vì vợ chồng nhất định sẽ sinh ra trạng thái “Chia lìa”.

Nếu như Khoa tinh và Kị tinh đồng cung, thì hung lực của Kị tinh sẽ bị Khoa tinh hóa giải. Cho nên có cái thuyết pháp “Khoa Kị không kị”, do đó cung Phu Thê có Kị tinh tọa thủ thì rất mừng có Khoa tinh đến để giải cứu vì có thể vượt qua cửa ải khó. Nếu như cung Phu Thê có Khoa tinh tọa thủ, và có Kị tinh xung đến thì Khoa tinh của cung Phu Thê đó cũng có năng lực hóa giải Kị xung, nhưng thời gian hiệu lực một khi đã qua đi thì cát lực của Khoa tinh sẽ tiêu mất. Nếu như có thể nắm được phạm vi hàm chứa hiệu lực tốt đẹp của Khoa tinh để mà điều hòa thích hợp cuộc sống vợ chồng, thì cũng có thể cứu vãn nguy cơ hôn nhân. Tương tự, Hóa Khoa và Hóa Kị là không phải do cùng 1 sao hóa thành, thì ý nghĩa phiền toái dây dưa, là chẳng có cách nào hóa giải hung tính của Hóa Kị.

Rốt cuộc sao Hóa Khoa có thời gian hiệu dụng là bao lâu? Trước hết cần phải biết sao Hóa Khoa đó là từ Mệnh gốc, Đại Hạn hay Lưu Niên hóa thành. Nếu là từ Can năm sinh hóa thành thì thì hữu hiệu cả một đời, nếu từ Can cung Mệnh gốc hóa thành thì có thời gian hữu hiệu là 1 năm, nếu được hóa thành từ Đại Hạn thì thời gian hiệu lực là 1 tháng. (QNB chú: Đoạn này dịch nguyên văn, độc giả cần lưu ý.)

Sau khi Khoa tinh hết hiệu lực giải cứu mà vẫn chưa thoát ra khỏi phạm vi ảnh hưởng của Kị xung, thì uy lực của “Kị xung” vẫn có cơ hội tái xuất hiện, cái cơ hội của dấu hiệu này có 2 loại khả năng:

1, khi có nhiều sát tinh tọa thủ ở trong cung Lưu Niên.

2, Kị tinh xung hoặc tọa ở Lưu Niên.

Trên đây đều là các khả năng phát sinh biến động hôn nhân.

Những giải thích trước đây, thích hợp với việc suy đoán Đại Hạn và Lưu Niên, nhưng mà lại còn có 1 loại tình huống cũng rất nghiêm trọng, tham khảo lá số D bên dưới:

*[cung Phu Thê của Đại Hạn] can Ất khiến Thái Âm hóa Kị ở cung Quan Lộc gốc, xung tới cung Phu Thê gốc, gọi là « đồng loại tương xung ».

* Chú ý, cung Phu Thê gốc bị xung tới sẽ dẫn động tính chất các sao tích tụ gây ra họa, cho nên gọi là xung động, bởi vì bị xung đến nên sinh ra biến động, nhưng không nhất định là mang ý nghĩa phá hoại.

* Cái này là mấu chốt khác biệt khi giải thích về « Hóa Khí » và « Tại Số ».

Đại Hạn đã bước vào cung Phu Thê gốc ở Tị, còn [cung Phu Thê của Đại Hạn] chạy đến chỗ cung Tài Bạch gốc ở Mão. Thêm nữa, Thiên can [cung Phu Thê của Đại Hạn] là Ất khiến Thái Âm hóa Kị nhập [cung Quan Lộc gốc] xung [cung Phu Thê gốc] ở Tị cũng chính là [cung Mệnh của Đại Hạn], đây chính là một loại tình huống cực kỳ hung ác.

Trong môn Đẩu Số toán mệnh học, tối kỵ là “đồng loại tương xung”, một khi có loại tình huống này xuất hiện sẽ không tránh khỏi xảy ra chuyện nuối tiếc. Thí dụ như: Người làm kinh doanh, có xuất hiện tình huống mà [cung Quan Lộc của Đại Hạn] xung [cung Quan Lộc gốc] thì phần lớn là sập tiệm, đóng cửa. Có thể liên tưởng, việc xuất hiện tính huống [cung Phu Thê của Đại Hạn] xung [cung Phu Thê gốc] thì quan hệ hôn nhân có khả năng là tan vỡ, nếu có Khoa tinh cứu giải thì có thể bảo toàn, nhưng sự kiện không vui vẫn sẽ sảy đến. Quan hệ vợ chồng thì giữ được nhưng so với trước kia thì liệu có được “thật lòng đối đãi” hay không? Rất khó nói. Cho nên Khoa tinh lại có ý nghĩa trì hoãn, khi đi qua một cái Đại Hạn khác, nếu vận hạn xấu thì cũng có thể chia lìa.

Những sự kiện không vui đã nói ở trên bao gồm: Ngoại tình, đồng tính luyến ái, bệnh tật, tai nạn xe cộ, mất tiền, thất nghiệp, mất tích, tử vong. Dựa theo tính chất sao ở chỗ bị xung và đặc tính của cung vị sở tại để mà biết nặng hay nhẹ, nếu có thể dự báo mà biết trước để phòng tránh thì có thể giảm bớt sự nghiêm trọng.

Xem tới đây, cũng không cần phải lấy lá số của mình bày ra xem rồi kinh hoàng lo sợ khi mà thấy tình huống “đồng loại tương xung” như kể trên. Bởi vì suy xét những biến động của hôn nhân là phải tìm ra các yếu tố tăng giảm lên xuống trong mối quan hệ đối đãi của 2 phía vợ chồng. Nếu mà các cung vị tương quan trên lá số của cả 2 vợ chồng đều có tình trạng như vậy thì mới nghiêm trọng. Nếu mà chỉ có một người xuất hiện tình trạng ấy thì có thể hình thái xuất hiện sẽ nhẹ nhàng hơn như là: phá tài, thất nghiệp, đấu khẩu, gần ít mà xa thì nhiều. Cho nên, trong khi luận đoán cát hung của hôn nhân thì cần phải đem lá số của cả hai người mới có thể kết luận chính xác được.

Có rất nhiều yếu tố tạo thành hiện tượng cùng Lá Số Tử Vi nhưng không hề giống nhau về kết quả sự kiện. Làm thế nào để vượt qua cái thử thách này thì mới là phương hướng nỗ lực của người học Mệnh Lý. Chứng tỏ là cái bàn tay vô hình điều khiển vận hành trong bóng tối kia, cũng đã để lại cho con người khá nhiều sự chọn lựa mà có thể tự mình chọn lấy, linh động mà phát huy, “Thiện” và “Ác” của số phận là hoàn toàn do mình tự lựa chọn.

Nhất định phải lý giải sự hình thành những yếu tố gây trắc trở cho hôn nhân, lại từ trên mệnh bàn tìm ra xem ở trong cung vị nào hàm chứa những yếu tố ấy. Sau đó dùng Tứ Hóa của Can cung để xem xem là có xung tới Mệnh gốc hoặc Phu Thê gốc hay không, nếu có thì nhân tố được đại biểu bởi cái cung vị ấy, chính là nguyên nhân ảnh hưởng đến hôn nhân. Sau đó lại suy xét tính chất các sao để hiển lộ ra “hình ảnh sự việc”, như vậy là có thể tìm ra được “Nguyên nhân” và “Sự kiện”.

Bây giờ xin mời xem ví dụ đoán mệnh với Mệnh bàn E:

1, cung Quan Lộc gốc có Hóa Kị năm sinh tọa thủ, lại Tự hóa Kị, hình thành Song Kị xung tới Phu Thê gốc.

2, cung Phu Thê gốc (Cự Môn) bị Quan Lộc gốc Tự hóa Kị xung tới thì mang ý nghĩa bị biến động.

3, [cung Phu Thê của Đại Hạn] hóa Kị xung [cung Mệnh của Đại Hạn], khiến cho trở thành cả cung Phu Thê gốc lẫn cung Phu Thê của hạn đều có xung động, cho nên nhất định sẽ có biến động.

4, khi Lưu Niên 33t đi vào cung Phu Thê gốc (ở Tuất) bị 2 Kị của cung Quan Lộc gốc xung tới. Trong khi [cung Phu Thê của Lưu Niên] khiến Thái Dương hóa Kị xung [cung Phu Thê của Đại Hạn], năm Tuất này suýt ly hôn, nhưng do [cung Phu Thê của Lưu Niên] có Hóa Khoa tọa thủ nên trì hoãn được 1 năm.

Trình tự các bước luận mệnh:

Đầu tiên cần xem tổ hợp sao tọa thủ ở trong các cung vị tương quan của cung Mệnh gốc và trạng thái phân bố của Tứ Hóa theo Can cung bay đến để mà định ra cách cục Tiên thiên.

1, Tính chất sao ở cung Mệnh: cung Mệnh gốc có các sao Thiên Lương Thiên Hình tọa thủ cho nên vốn đã có xu hướng nghiêng cô độc, trong phú văn của tiên hiền có nóiThiên Cơ Thiên Lương hội Thiên Hình, tảo hữu hình nhi vãn kiến cô” (nghĩa là: Cơ Lương hội hợp Thiên Hình, trẻ thì hình khắc già thì cô đơn). Hơn nữa, tam phương hội nhập các sát tinh Kiếp, Không, Hỏa, Linh càng làm tăng khuynh hướng cô độc, tạo thành nguyên nhân cô độc rất nhiều nhưng toàn là đều thuộc về những hiện tượng như Vợ con ly tán, Anh em vô tình, Bạn bè vô nghĩa.

Cung Phu Thê có Cự Môn tọa, chủ về vợ con thuở thiếu thời lắm tai nhiều nạn, tới lúc trưởng thành thì vừa cần cù vừa giỏi giang, chủ nắm giữ mọi việc lớn nhỏ trong nhà khiến cho đương số rảnh rỗi. Nhưng mà cũng vì bản thân rảnh rỗi mà đi tương trợ bạn bè và lạnh nhạt với vợ cho nên mới sinh ra tranh cãi. Do rất phù hợp với những công việc chủ về mồm miệng như Giáo dục, Công tác chuyên môn, nên đem tính chất mồm miệng thị phi của sao Cự Môn để phát huy trong sự nghiệp, thì có thể giảm bớt chuyện vợ chồng tranh cãi. Nhưng tam phương hội nhập có các sát tinh Thiên Không, Địa Kiếp, Hỏa Tinh cho nên ăn ở với nhau rất không hòa thuận.

Sau đó là xem những ảnh hưởng của Tứ Hóa.

2, Tứ Hóa của Lá số gốc:

Hóa Kị năm sinh rơi vào cung Quan Lộc, mà cung Quan Lộc là đối cung của cung Phu Thê, lúc này hung tính của Hóa Kị năm sinh sẽ ảnh hưởng đến cung Phu Thê, được gọi là “xung Phu Thê”. Như vậy, Kị tinh ở Quan Lộc có ý nghĩa gì đây? Nó đại biểu cho người này rất coi trọng sự nghiệp, đem tâm tư đặt vào công việc mà xao lãng gia đình. Tuy rằng như vậy, nhưng mà về mặt gặt hái được thành quả trong sự nghiệp cũng không phải là rất lý tưởng, khiến cho một nửa kia sẽ càng tăng thêm sầu oán.

Cung Mệnh can Mậu khiến Thái Âm hóa Quyền và Thiên Cơ hóa Kị xung Phúc Đức. Mà cung Phúc Đức lại là [cung Quan Lộc của cung Phu Thê] – lấy cung Phu Thê làm cung Mệnh thì cung Phúc Đức chính là cung vị [Quan Lộc của cung Phu Thê] (lập Thái Cực). Mà cung Quan Lộc vốn đại biểu cho hành vi, bị Hóa Quyền và Hóa Kị xung tới, trước đây đã nói qua về Quyền Kị đồng cung có ý nghĩa xung khắc không hợp, nay cung Mệnh hóa Quyền Kị tới xung đến Phúc Đức của ta, thì đương nhiên mối quan hệ đối đãi của vợ chồng sẽ nhất định không tốt.

Cung Phu Thê can Bính khiến Thiên Đồng hóa Lộc tại cung Quan Lộc, vừa vặn gặp Kị tinh của năm sinh, cho nên tạo thành song Kị xung ngược về cung Phu Thê, hôn nhân trắc trở là khó tránh khỏi.

3, Tứ Hóa của Lá số Đại Hạn:

Đại Hạn (26-35 tuổi) trên cung Mậu Dần, là can Mậu của cung Mệnh gốc hóa Thiên Cơ thành Kị xung tới [cung Mệnh của Đại Hạn], cho nên hạn này sẽ có bạo phát trong vấn đề đối đãi vợ chồng. Lại nói về [cung Phu Thê của Đại Hạn] ở cung Mậu Tý, cũng làm Thái Âm hóa Quyền và Thiên Cơ hóa Kị xung [cung Mệnh của Đại Hạn]. Cho nên có thể xác định chắc chắn Đại Hạn này sẽ sảy ra chuyện. Lại thấy [cung Phu Thê của Đại Hạn] trùng điệp với cung Mệnh gốc, tính chất sao biểu hiện là cô độc, đem hai điều này đối chiếu nhau đã hiện rõ dấu hiệu vậy.

4, Lưu Niên:

Bây giờ muốn tìm ra năm nào sẽ phát sinh sóng gió? Vốn [cung Thiên Di của Đại Hạn] chính là cung Tài Bạch gốc, có Khoa tinh của năm sinh, cho nên lực lượng của Kị tinh phải ở ngoài phạm vi ảnh hưởng của Khoa tinh thì mới sẽ phát huy tác động. Như đương số trong khoảng 26-32 tuổi thì không ứng vấn đề. Nhưng khi 33 tuổi thì [cung Mệnh của Lưu Niên] ở tại cung Bính Tuất, cung [Phu Thê của Lưu Niên] ở cung Giáp Thân. Can Giáp khiến Thái Dương hóa Kị xung tới [cung Phu Thê của Đại Hạn], khớp với điều kiện “đồng loại tương xung”. Nhưng [cung Phu Thê của Lưu Niên] vẫn có Hóa Khoa của năm sinh bảo vệ, cho nên năm này sẽ trì hoãn lại. Chờ tới năm 34 tuổi, [cung Phu Thê của Lưu Niên] ở cung Ất Dậu, lực lượng của Hóa Khoa năm sinh đã không có hiệu lực bảo vệ cung Phu Thê, mà lại có can Ất khiến cho Thái Âm hóa Kị xung [cung Mệnh của Đại Hạn]. Cho nên rốt cuộc năm 34 tuổi ấy chia tay, mặc dù Tử Vi tự Hóa Khoa, nhưng Lưu Nguyệt vừa đi qua, thì Khoa tinh hết hiệu lực bảo vệ. Dĩ nhiên, Tự hóa Khoa chính là mang ý nghĩa phát tán tản ra, nên lực lượng Hóa Khoa này là yếu.

Đương số này chính là vì chuyện đứa con trai độc nhất qua đời mà chia tay, quý vị độc giả có thể nhìn cung Tử Tức của người này, cung Tử Tức gốc ở cung Ất Dậu, can Ất khiến Thái Âm hóa Kị xung [cung Mệnh của Đại Hạn], còn [cung Tử Tức của Đại Hạn] ở cung Đinh Hợi, can Đinh khiến Cự Môn hóa Kị nhập cung Phu Thê gốc, đến lúc Lưu Niên tiến vào cung Tuất gặp phải Kị tinh được hóa đến từ [cung Tử Tức của Đại Hạn]. Trong khi

[cung Phu Thê của Lưu Niên]

ở cung Thân lại cũng có hóa Kị tới từ cung Tử Tức gốc. Vì vậy, đương nhiên là do có chuyện liên quan đến con cái mà khiến cho tình cảm vợ chồng chuyển biến xấu đi mà dẫn tới ly hôn.

Phải tìm ra một năm Lưu Niên nào đó sẽ xảy ra chuyện chính là trình tự suy luận rất quan trọng. Tin rằng có rất nhiều bạn đọc đã từng thử thông qua lá số để suy đoán xem tương lai sẽ phát sinh sự kiện gì, nhưng lại chưa nắm được chính xác thời gian phát sinh. Đoạn tường thuật trên mọi người có thể dùng làm nguyên tắc trọng yếu của sự suy đoán thời gian ứng nghiệm. Còn các quy tắc khác để suy đoán thời gian ứng nghiệm thì người viết nếu có thời gian sẽ đem bộ sưu tập các ví dụ thực tế chỉnh lý lại và đưa ra. Dùng phương thức nghiên cứu ví dụ thực tế càng có thể nắm được mạch lạc sự biến hóa trên lá số, làm theo như vậy sẽ đưa đến càng nhiều ý tưởng và phát hiện thú vị.

Trên một lá số chỉ có các ký hiệu của 28 Tinh tú, 12 Cung vị, Thiên can, Địa chi mà thôi. Muốn từ bên trong 1 mối quan hệ vô Nhân vô Quả ấy để mà suy đoán ra những quan hệ hữu Nhân hữu Quả của sự kiện thì đâu có phải là chuyện dễ dàng. Từ ví dụ này có thể thấy, cung Phu Thê gốc dù xấu thì vẫn có thể có cơ hội kết hôn, chỉ cần tới lúc gia nhập từng tầng lớp Tứ Hóa gốc, Đại Hạn, Lưu Niên thôi thúc biến hóa khiến sẽ sinh ra hiệu ứng. Cho nên sự thay đổi động thái của đời sống hôn nhân chính là từ Tứ Hóa hiển lộ những đặc trưng của chúng.

Ví dụ F: Lại từ mệnh bàn F để nói rõ nguyên tắc suy đoán của Tứ Hóa cung Phu Thê gốc, cung Phu Thê của Đại Hạn:

* cung Phu Thê gốc cũng khiến Thiên Cơ hóa Kị nhập [cung Phu Thê của Đại Hạn]. Từ các sao tọa thủ trong cung Phu Thê gốc có Thái Dương, Quyền, Kình, Kiếp, đã thấy là thường có hôn nhân không tốt đẹp.

* [cung Phu Thê của Đại Hạn] khiến Thiên Đồng hóa Kị xung [cung Mệnh của Đại Hạn]. Tổ hợp sao tọa thủ ở [cung Phu Thê của Đại Hạn] có Thiên Cơ, Diêu, Thiên Không, lại hội chiếu từ Tam hợp phương về có Đà La, Hỏa Tinh, đều là các sát tinh cho nên vợ chồng xung đột.

* Từ cung Phu Thê gốc có Quyền lại mang can Mậu khiến Thiên Cơ hóa Kị nhập cung Mệnh gốc, rồi cung Mệnh gốc lại nhân can Canh khiến Thái Dương hóa Lộc nhập cung Phu Thê gốc. Đây là dạng Ngã cung hóa Lộc cấp cho Tha cung, mà Tha cung lại từ chối và cấp ngược lại Hóa Kị cho Ngã cung. Chính là mối quan hệ đối đãi không công bằng. Đối phương có Hóa Quyền có ý định áp bức, cho nên là bị chồng bạo hành mà dẫn đến việc ly hôn.

1, Tính chất tổ hợp sao:

Cung Mệnh gốc có các sao Thiên Cơ, Thiên Diêu, nữ mệnh xinh đẹp và rất có duyên với người khác giới, vốn có khí chất văn nghệ. Đáng tiếc tam phương hội nhập về Thiên Không có Hỏa Tinh và Đà La đều là các sát tinh, dễ có những tư tưởng cực đoan. Thiên Không, Địa Kiếp vốn cách nghĩ là chủ hư ảo không thực tế, người có những sao này nhập mệnh thì cách nghĩ hay tư tưởng thường sẽ không ăn khớp với xã hội hiện thực.

Cung Phu Thê gốc có Thái Dương hóa Quyền tọa thủ cùng Kình Dương, Địa Kiếp, chủ về chồng có cá tính mạnh, không tránh được cãi vã. Trong đó Địa Kiếp, Thiên Không cũng có sự phá hoại rất mạnh đối với tình cảm, thường có sự ngăn trở tình cảm rất khó hiểu. Kình Dương chủ cương cường, trên phương diện theo đuổi tình cảm, đương số là người độc lập tự chủ, theo đó sẽ không hỏi ý kiến người khác, chỉ cần thấy hợp mắt thì cho dù đối phương là kẻ mang tiếng xấu, nàng ta cũng bất chấp bạn bè và người nhà cản trở ra sao, vẫn cùng đối phương ở chung. Nhưng một khi phát hiện đối phương không phải là dạng lý tưởng trong mắt hoặc không cách nào sống chung, nàng ta sẽ lập tức trở mặt chia tay (đây chính là ý nghĩa cung Phu Thê có hóa Quyền tọa thủ). Còn may là ở đây có Thái Dương đồng cung Hóa Quyền, nên chí ít thì đối tượng nàng ta chọn còn có địa vị trong xã hội.

2, Tứ Hóa gốc:

Can Tân của năm sinh hóa Quyền nhập vào Phu cung, chủ về chồng trên phương diện sự nghiệp có biểu hiện tốt, nhưng mà kiểu Thái Dương của giờ Tuất, lúc ấy đã là 7-8 giờ tối rồi nên về cơ bản thì ánh sáng của Thái Dương cũng chẳng còn gì, mờ mịt không sáng. Bởi vậy, cát lực của nó cũng chẳng rõ ràng, có thể thấy rõ hơn về (đối phương) là người khá bá đạo, tư tưởng chiếm hữu rất mạnh, thường tranh cãi vô lý.

Cung Mệnh gốc có can Canh hóa Lộc nhập cung Phu Thê gốc, biểu thị cô này yêu thương chồng. Cung Phu Thê gốc có can Mậu khiến Thiên Cơ hóa Kị nhập cung Mệnh gốc, không được giống như tình hình mà ta (Ngã) hóa Lộc cấp cho nó (Tha). Ý là ta đối với anh ta tốt, nhưng anh ta trách rằng ta lải nhải lắm chuyện, lộ ra vẻ xem thường sự quan tâm hoặc đối với tình cảm có khao khát về sự hoàn hảo thái quá. Thường rơi vào tình cảnh quan tâm lo lắng đơn phương, mà không được đối phương hồi báo. Do đó, thường chạy theo cái tình cảm trong niềm hy vọng mà không thoát ra được cái trói buộc ở thực tại, tự gây đau khổ và làm tổn thương chính bản thân mình. Lại thêm sao Thiên Không tọa Mệnh cho nên cách suy nghĩ càng thêm hư ảo, không thực tế.

Tượng của phương thức phi Hóa kiểu “cung Mệnh hóa Lộc nhập cung Phu Thê mà cung Phu Thê lại hóa Kị phản nhập lại cung Mệnh” như thế này, chứng tỏ sự quấy rầy lẫn nhau, sống đến bạc đầu vẫn còn tranh cãi, khó mà có nhân duyên tốt đẹp.

3, Tứ Hóa của Đại Hạn:

Đại Hạn (25-34 tuổi) trên cung Canh Dần, thì [cung Phu Thê của Đại Hạn] ở cung Canh Tý khiến Thiên Đồng hóa Kị xung [cung Mệnh của Đại Hạn]. Trong khi [cung Mệnh của Đại Hạn] cũng là can Canh khiến cho Thiên Đồng tự hóa Kị xung [cung Mệnh của Đại Hạn], mà cung này lại chính là cung Phúc Đức gốc, cho nên chứng tỏ quan hệ đối xử giữa vợ chồng ở Đại Hạn này nhất định là không tốt đẹp. Bởi vì từ cung Phu Thê hóa Kị đến xung, nên người chồng là khắc tinh của mình.

Lại xem xét từ những sao tọa thủ ở trong [cung Phu Thê của Đại Hạn] có thể thấy Thiên Diêu ở đây ứng với cái câu “Nếu rơi vào hạn, không cần mai mối, tự mình thành hôn”. Lại gia thêm sát tinh Thiên Không, thì sẽ do đó mà từ chuyện tình cảm có phát sinh những việc bất lợi. Trong mục Chư tinh vấn đáp TVĐS Toàn Thư chẳng phải là đã từng nói tới “Hội hợp ác tinh, phá gia bại sản, vì sắc đẹp mà phạm hình phạt”đó ư? Nhưng mà Thiên can [cung Phu Thê của Đại Hạn] là Canh khiến cho Thái Âm hóa Khoa chiếu tới cung Phu Thê gốc, cho nên từ năm 24 tuổi về trước là còn có thể chịu đựng được sự ngược đãi của đối phương, chờ sau khi cát lực của Khoa tinh biến mất, những trở ngại của gia đình sẽ liền bộc lộ ra.

4, Lưu Niên:

Năm Bính Dần, lúc 25 tuổi thì [cung Phu Thê của Lưu Niên] và [cung Phức Đức của Lưu Niên] đều bị Kị tinh xung phá. Cho nên năm này sau khi bị chồng ngược đãi, đã không chịu được nữa làm đơn tới tòa án để ly dị, vì chuyện này người chồng còn bị cấm xuất cảnh. Sau đó bỏ cả bảo lãnh để mà lẩn trốn, từ đó về sau người chồng này vốn là 1 nam diễn viên chính đã không còn tham gia diễn xuất ở nền điện ảnh của Đài Loan nữa. Các vị có trông thấy Thiên Hình ở [cung Thiên Di của Đại Hạn] không? Đây chính là tinh tú mấu chốt của sự kiện vì mối quan hệ vợ chồng om sòm nên dẫn tới quan tụng thị phi. Liệu những môn Mệnh lý học khác có thể từ trên mệnh bàn để nhìn ra những triệu chứng rõ ràng như vậy không?

Hình ảnh của hiện tượng “Lộc khứ Kị lai” (Lộc đi Kị đến) được hiện ra thông qua cung Mệnh gốc và cung Phu Thê gốc, lại còn thêm Hóa Quyền năm sinh tọa thủ ở cung Phu Thê gốc, cho nên đối với chuyện tình cảm là có ý nghĩa “tự mình chủ trương, tự mình nắm giữ, tùy ý mình”. Cộng thêm cung Mệnh gốc có Thiên Không tọa thủ thì rất dễ sinh ra tình trạng tình yêu đơn phương hoặc đối với chuyện tình cảm thì không có được sự thực tế. Sẽ không so tính nhân phẩm đạo đức đối tượng ra làm sao, chỉ cần cảm thấy mình ưng mắt là liền quyết định ở cùng nhau, thiếu lý trí phân tích về các sinh hoạt khi sống chung. Cho nên rất dễ gặp phải hôn nhân trắc trở, vì vậy thích hợp với việc kết hôn muộn, hoặc là đợi khi tâm trí chín muồi hơn nữa thì kết hôn sẽ khá cát lợi.

Hậu chú:

Ví dụ F chính là lá số của tiểu thư họ Đới một ngôi sao điện ảnh, kết hôn cùng diễn viên Hương Cảng, không lâu sau liền ly dị, lúc ấy tạo thành một scandal lớn. Sau đó, ở Đài Loan lại tái kết hôn và lại ly dị, rồi tái giá với một bác sĩ người Nhật Bản. Năm Dân Quốc thứ 81 (1992) lúc người chồng cũ ở Đài Loan chạy tới Nhật, giết người chồng Nhật Bản của nàng, lại tạo thành một scandal lớn tại Nhật Bản. Ký giả truyền thông Nhật Bản truy tìm được nhiều bút tích ghi chép về những cuộc hôn nhân muôn màu muôn vẻ của nàng, còn gán cho nàng cái biệt danh gọi là “Ma Nữ”. Tác giả căn cứ định nghĩa của “Lộc lai Kị” kết luận hôn nhân của cô ấy tuyệt đối không hề tốt đẹp, quả thực ứng nghiệm. Quy luật của Tử Vi Đẩu Số đúng là có chuyện như vậy, cũng có thể nghiệm chứng câu nói “Tứ Hóa chính là Dụng Thần của Tử Vi Đẩu Số”.

 

Ở trên là đưa ra các ví dụ thuộc về các vấn đề bạo lực hôn nhân hoặc nuôi dạy con cái, nhưng căn cứ trên thực tế thống kê thì việc ngoại tình mới là tình trạng thường thấy nhất gây ra sóng gió cho hôn nhân. Cho nên tại đây cũng đưa ra vài ví dụ để xem qua một chút về vấn đề ngoại tình thông qua mệnh bàn để suy đoán như thế nào.

Suy đoán vấn đề ngoại tình

Muốn suy đoán vấn đề ngoại tình, trước tiên cần xác định xem vấn đề ngoại tình tương quan với các cung vị nào, thì mới có thể có chỗ căn cứ vào mà suy luận. Nếu như không thể lựa ra được những cung vị tương quan với vấn đề ngoại tình từ trên 12 cung của lá số, thì làm sao có thể suy đoán được việc ngoại tình chứ. Đây chính là vấn đề Lập Hướng, ở biển rộng mênh mông có la bàn lập hướng thì ở trong Tử Vi Đẩu Số việc giải lá số cũng phải lập hướng thì mới không bị lạc đường. Mà cái việc Lập Hướng của Tử Vi Đẩu Số chính là có sự liên quan mật thiết với những yếu tố tương quan đến việc phát sinh ra sự kiện ở trong thực tế. Lấy vấn đề ngoại tình mà nói, thì cung Phu Thê phát sinh liên can đến bạn bè, cho nên suy đoán việc ngoại tình thì trước hết coi trọng cung Nô Bộc và cung Phu Thê. Đương nhiên đối tượng ngoại tình còn có khác biệt về những loại đối tượng đã kết hôn và chưa kết hôn, bạn đọc cũng có thể theo loại này để mà suy rộng ra những cung vị tương quan đối ứng với chúng. Còn vấn đề bị bạn bè bán đứng thì những cung vị tương quan hiển lộ ra ở cung Nô Bộc và cung Quan Lộc, v.v… Quý vị cũng có thể phỏng theo đây, đem những vấn đề thực tế mình thường thấy để tìm ra các cung vị tương quan ở trên lá số Tử Vi, làm bằng cứ Lập Hướng trong quá trình luận đoán lá số.

Cho nên việc luận đoán lá số không thể chỉ nhìn 1 cung vị có nguyên cớ chính là điểm này. Chỉ có thể thông qua Tứ Hóa mới có thể liên kết cặp cung vị mà sinh ra sự liên đới nào đó tới nhau. Trong lúc luận giải lá số Tử Vi mới có thể căn cứ sự liên đới đó để mà phân định xem cát hung và lực ảnh hưởng mạnh yếu giữa cặp cung ấy. Cho nên việc quan trọn đầu tiên khi vận dụng Phi tinh Tứ Hóa luận đoán lá số lại chính là phân tích thật kỹ những nhân tố tương quan của sự kiện phát sinh trong sinh hoạt hàng ngày và mối quan hệ đối ứng giữa các cung vị tương quan trên lá số. Bây giờ liền đưa ra một số ví dụ ngoại tình để phân tích xem.

Ví dụ G: Ngoại tình

Lá số gốc:

Mệnh ở cung Mậu Thân có Thái Dương và Cự Môn hóa Kị tọa thủ, chính là cách Cự Nhật đồng cung. Ở cung Thân thì Thái Dương đã gần tới hoàng hôn, ánh sáng suy giảm vô lực, chủ về những người trước chuyên cần sau thì lười biếng. Cự Môn là ám tinh chủ miệng lưỡi thị phi, cho nên đương số có năng lực nói hay phân tích mạnh. Nhưng chính là Cự Môn hóa Kị cho nên sẽ có xu hướng phát triển thói xấu tính tiêu cực, thường vì lời nói mà mang tai họa dẫn tới thị phi, như những kiểu ngấm ngầm bới móc ngườu ta, thường đắc tội với người khác vì lời lẽ không khéo léo, liên tục lải nhải luyên thuyên. Loại cách cục này nên rất phù hợp theo những nghề mà phải liên tục nói năng, đem cái tính chất tiêu cực của việc nói nhiều mà tiêu hao bớt đi ở nơi làm việc, mới có khả năng giảm bớt thị phi trong gia đình.

Cung Phu Thê gốc:

Cung Phu Thê gốc tọa thủ các sao Thiên Đồng, Thái Âm gia thêm sát tinh có thể nói là cách “mã đầu đới tiễn”, cho nên đối tượng kết hôn thuộc về bên quân cảnh, thuyền viên, phi cơ viên, đại ca xã hội đen,… bởi vì tính chất công việc thường xuyên đi ra bên ngoài, hiếm khi được ở nhà (điều kiện P). Lại có thêm Lộc, Quyền của năm sinh xâm nhập đồng cung, có ý nghĩa đa tình, cảm tình dào dạt quá mức. Cho nên cung Phu Thê gốc đã có tiềm ẩn dấu hiệu đa phu rồi.

Cung Nô Bộc gốc:

Lại xem cung Nô Bộc gốc ở cung Quý Sửu, như trước đã nói Tứ Hóa là dùng để xâu chuỗi trung gian môi giới của các mối quan hệ tương hỗ giữa các cung vị khác nhau. Ngoại tình chính là có mối quan hệ giữa cung Nô Bộc và cung Phu Thê.

Còn mối quan hệ gữa hai cung vị, thì phải dựa vào Can cung Nô Bộc là Quý để mà phi Tứ Hóa như sau:

Phá Quân hóa Lộc nhập cung Tật Ách gốc.

Cự Môn hóa Quyền nhập cung Mệnh gốc.

Thái Âm hóa Khoa nhập cung Phu Thê gốc.

Tham Lang hóa Kị nhập cung Huynh Đệ gốc.

Ái chà, như vậy là cung Nô Bộc gốc và cung Phu Thê gốc kết hợp lại rồi, có một ngôi Thái Âm hóa Khoa nhập cung Phu Thê gốc, nhưng Hóa Khoa chẳng phải là vốn có tác dụng quý nhân hoặc gặp dữ hóa lành hay sao?

Đây là do mê muội vì không hiểu tính chất Tứ Hóa, cho rằng Lộc – Khoa – Quyền đều là hiện ra cát tường và Kị thì toàn là chủ hung khắc, đó là quan niệm không chính xác. Về hàm nghĩa của Tứ Hóa, xin mời tham khảo các chương tiết liên quan đã từng thuyết minh. Tại đây thì mời bạn đọc lật tới “Hàm nghĩa của Hóa tinh theo 10 Thiên Can”. Đã chú rõ Thái Âm can Quý hóa Khoa có mang tính chất đào hoa, rất rõ ràng, giữa cô nàng và bạn bè sẽ phát sinh vấn đề đào hoa.

Lại đem những dấu hiệu hiển lộ giữa 2 cung vị là cung Phu Thê và cung Nô Bộc kết hợp lại để mà xem. Đương số này hẳn là sẽ phát sinh vấn đề ngoại tình. Đây là từ Mệnh bàn gốc mà phân tích ra những đặc tính của mệnh cách, sau đó cần phải luận đoán vận thế, đó chính là thời gian phát sinh.

Đại Hạn và Lưu Niên:

Khi đi tới Đại Hạn ở cung Canh Tuất thì [cung Phu Thê của Đại Hạn] ở cung Mậu Thân có các sao Thái Dương, Cự Môn hóa Kị, mà can Mậu thì phát xạ Tứ Hóa:

Tham Lang hóa Lộc nhập Huynh Đệ (là [cung Huynh Đệ của Đại Hạn]. QNB chú: chỗ này sách có nhầm lẫn, đúng ra là Tham Lang hóa Lộc ở [cung Tử Tức của Đại Hạn])

Thái Âm hóa Quyền nhập Phu Thê (là [cung Tài Bạch của Đại Hạn])

Hữu Bật hóa Khoa nhập Nô Bộc (là [cung Điền Trạch của Đại Hạn])

Thiên Cơ hóa Kị nhập Phúc Đức (là [cung Phụ Mẫu của Đại Hạn])

Trong đó, Thái Âm hóa Quyền nhập cung Phu Thê gốc đại biểu cho năng lực tự chủ của cá nhân đối với thế giới tình cảm được tăng cường. Hữu Bật hóa Khoa nhập cung Nô Bộc gốc cũng chứng tỏ ở Đại Hạn này giữa nàng ta và bạn bè có phát sinh một vài liên hệ. Lại thêm Thiên Cơ hóa Kị nhập cung Phúc Đức gốc, vừa khéo cung Phúc Đức gốc lại là [cung Mệnh của Đại Hạn]. Cung Phúc Đức vốn chủ trạng thái tinh thần, bị Hóa Kị của [cung Phu Thê của Đại Hạn] nhập tới dẫn động nên có sự không ổn định, hàm ý là sự quấy nhiễu. Giải thích theo nghĩa rộng là tình cảm phức tạp rối ren. Cộng thêm hiện tượng [cung Mệnh của Đại Hạn] lại hóa Thiên Đồng thành Kị nhập vào cung Phu Thê gốc. Đem mối quan hệ giữa hai điều này này liên kết lại với nhau, cung Phu Thê gốc vì chịu hung tính của Thiên Cơ hóa Kị; còn [cung Phu Thê của Đại Hạn] có Cự Môn hóa Kị năm sinh tọa thủ cũng đã có ý nghĩa chuyện tình cảm “ám muội không rõ ràng”.

Lại xem [cung Nô Bộc của Đại Hạn] ở cung Quý Mão, can cung là Quý khiến cho Thái Âm hóa Khoa nhập vào cung Phu Thê gốc. Như vậy, chỉ cần tới năm Lưu Niên lại hóa một ngôi Khoa tinh nữa đi vào đó thì sẽ hiển lộ ra sự kiện. Đương số bất hạnh này ở năm Nhâm Tuất vẫn ở trong Đại Hạn cung Canh Tuất, 3 tầng năng lượng đào hoa từ can Quý hóa Thái Âm thành Khoa tinh cộng dồn vào người. Làm sao có thể chịu nổi cảnh phòng không lẻ bóng? Còn thêm [cung Phu Thê của Đại Hạn] can Mậu hóa Thiên Cơ thành Kị tinh vừa khéo nhập vào [cung Mệnh của Lưu Niên] năm Tuất 26 tuổi. Tác động Tứ Hóa tổng hợp từ cung Nô Bộc và cung Phu Thê, có thể quy nạp lại mà đưa ra sự kiện “Ngoại Tình”. Kết quả là vào năm Nhâm Tuất vượt rào đi theo tình lang.

Nếu mà nói điều kiện tiền đề P không thành lập, thì liệu có xảy ra kết quả ngoại tình hay không? Câu trả lời là không nhất định, nếu như anh chồng thường xuyên ở nhà, để cho cái tâm hồn cô quạnh có nơi nương tựa, thì sẽ không phát sinh kết quả vượt rào. Nếu anh chồng có ở nhà, thì chỉ là mối quan hệ của vợ chồng khá lạnh nhạt mà thôi. Nếu không thì ở Đài Loan chí ít cũng phải có đến 34 cô mà có chung lá số với cô này, không lẽ cũng đều “vượt rào” cả ư? Trên thực tế không hề có chuyện đó, bởi vì đối tượng kết hôn (không gian) là khác nhau.

Có thể thấy được mục đích của bói toán, không chỉ là ở việc suy luận kết quả như thế nào, mà còn chỉ dẫn không gian phát triển theo hướng có lợi, tránh được các kết cục bất hạnh. Nếu như trên mệnh cách có gieo hung tượng thì phải mau hóng tạo ra hoàn cảnh cát lợi và bồi dưỡng nội hàm cao thượng, thì mới có thể tránh được hung tượng. Cho nên nói cải vận thì cần phải “Tâm – Vật hợp nhất”, thông qua sự cải biến chuyển hóa của tâm cảnh (cõi lòng) và hoàn cảnh mới có thể hóa giải hung ách.

Quan niệm Tứ Hóa phi Tinh của người viết và quan điểm của mọi người có thể khác nhau nhiều. Tôi cho rằng, giải thích cát hung của 3 ngôi Hóa cát và của Kị tinh, thì cần phải căn cứ theo vấn đề (góc độ xem mệnh, tức là vấn đề Lập Hướng) mới phân chia được cát hung. Chứ không phải là từ trên ý nghĩa con chữ của Tứ Hóa để phân chia cat hung. Đây là quan niệm vô cùng trọng yếu, như ví dụ luận mệnh này, cung Phu Thê tọa Hóa Quyền, Hóa Lộc chẳng phải rất tốt sao? Không! Đây tuyệt đối là kết cấu Tứ Hóa không tốt, cung Tài Bạch mà có kết cấu đó thì dĩ nhiên rất tốt, bởi vì tài nguyên nhiều mà. Nhưng đối với cung Phu Thê mà có cái kết cấu ấy thì lại biểu thị đa phu đa thê. Thời xưa nam mệnh có thể tam thê tứ thiếp, thời hiện đại thì lại là tội vi phạm luật hôn nhân, cũng không thể có nhiều người phối ngẫu. Nữ mệnh lại càng khỏi phải nói, có người đàn ông nào mà lại chịu được cảnh “đầu đội mũ xanh” cơ chứ? (nghĩa là vợ theo trai, hoặc người bảo kê cho kỹ viện hồi xưa thì đầu đội mũ xanh hoặc chít khăn xanh trên đầu. Lệ của thời cổ đại để mọi người phân biệt giai cấp). Cho nên, trong vấn đề này không thể lấy Quyền Lộc mà luận là cát được.

Lại nói cung Nô Bộc hóa Khoa nhập cung Phu Thê đại biểu giữa 2 cung vị đã có tác động liên kết ở một mức độ nào đó. Mức độ liên kết mạnh hay yếu là thuộc về cấp độ “Hóa Khoa”. Bởi vì Thái âm hóa Khoa của can Quý có tác dụng đào hoa, cho nên sau khi xem kỹ “tổ hợp sao tọa thủ, các Hóa tinh” của cung Phu Thê gốc và tác động liên kết Tứ Hóa giữa “cung Phu Thê – cung Nô Bộc” thì liền có thể biết được là đã có gieo tượng ngoại tình rồi.

 

Ví dụ H: Ngoại Tình

Bây giờ tôi lại đưa ra một ví dụ luận mệnh nữa (ví dụ H) các bạn đọc suy luận xem rốt cuộc cô ta xảy ra chuyện gì? Vào lúc nào? (tác giả chú: là về vấn đề tình cảm).

Nhìn cẩn trọng một chút thì lá số này cùng lá số trước tương tự, chẳng qua là chỉ có các Chính Tinh đổi chỗ cho nhau, các cung nhân sự ở vị trí khác nhau mà thôi.

1, Cung Mệnh gốc và cung Phu Thê gốc:

Từ trên mệnh bàn, Lộc tồn độc thủ tại cung Mệnh, ở trong mục Chư Tinh Vấn Đáp có nói: “Nếu độc thủ tại Mệnh mà không có cát hóa, chính là kẻ keo kiệt ủn xỉn mà thôi, gặp cát tinh thì hiện ra quyền lực của nó, ngộ ác tinh thì hỏng mất tín hiệu của nó, rất sợ lạc hãm ở chô Không Vong do không còn là phúc, có thêm các sát tinh Hỏa Linh Không Kiếp tụ tập thì chỉ làm nghề thủ công mới được yên thân”. Vừa khéo ở cung Thiên Di có Hỏa Tinh hội nhập, chính là thật ứng câu này. Lộc Tồn thiếu đi sao bảo vệ hộ trì để cát hóa mà lại có Hỏa Tinh xung kích, đương nhiên là càng gia tăng bản tính cô khắc.

Tam phương Tứ chính của cung Mệnh gốc đã phù hợp điều kiện này, lại xem tới tổ hợp sao tọa ở cung Phu Thê gốc có Thiên Cơ, Thiên Lương hóa Khoa, Thiên Hình; Ở trong phú văn nói nói “Thiên Cơ, Thiên Lương hội Thiên Hình, tảo hữu hình nhi vãn kiến cô” (nghĩa là: Cơ Lương tụ hội Thiên Hình, trẻ thì hình khắc già thì cô đơn), đối với cung Phu Thê mà nói, đây chính là tổ hợp mang tính cô khắc.

Từ tổ hợp tinh diệu và Tam hợp phương của cung Mệnh gốc và cung Phu Thê gốc, có thể nhận ra mệnh cục của người này chính là kẻ keo kiệt bủn xỉn kiêm cô độc.

Còn như hiện tượng “Hình” và “Cô”, cũng không phải là đem gói gọn trong ý nghĩa của việc hình khắc vợ chồng, mà nó còn bao gồm nhiều hàm nghĩa:

– Phương pháp tu luyện nào đó, sẽ lãnh đạm đối phương trở thành sống quá bụa.

– Vì phạm pháp mà bị truy nã, quanh năm lẩn trốn ở ngoài, khó được xum họp.

– Cá tính không hợp, đối với nhau như kẻ thù.

– Bị tai nạn bất ngờ, chức năng vận động của thân thể kém hoặc quanh năm bệnh tật.

– Bỏ nhà ra đi.

Đều phù hợp với ý nghĩa của “Hình”, “Khắc”.

2, Cung Nô Bộc gốc:

Lại xem cung Nô Bộc gốc ở tại cung Ất Hợi, can Ất khiến Tứ Hóa:

Thiên Cơ hóa Lộc nhập cung Phu Thê gốc.

Thiên Lương hóa Quyền nhập cung Phu Thê gốc.

Tử Vi hóa Khoa nhập cung Huynh Đệ gốc.

Thái Âm hóa Kị nhập cung Thiên Di (tức, xung cung Mệnh gốc).

Trong đó, Thiên Cơ hóa Lộc và Thiên Lương hóa Quyền nhập cung Phu Thê gốc biểu thị cung Phu Thê và Nô Bộc có quan hệ, hơn nữa loại quan hệ này vô cùng mãnh liệt, thuộc dạng cường độ ở mức “Hóa Lộc” và “Hóa Quyền” cũng chính là biểu hiện mệnh cách ngoại tình.

Tới cung Mệnh gốc để mà luận, người này thuộc cách cục cô khắc, nhưng mối quan hệ của cung Nô Bộc và cung Phu Thê lại lộ ra rằng thế giới tình cảm phong phú nhiều sắc thái. Giữa hai điều này có chỗ mẫu thuẫn lẫn nhau, nên cần phải chú ý. Chẳng qua là từ cái ví dụ trước cũng do cung Nô Bộc hóa Khoa phi nhập cung Phu Thê tạo thành việc ngoại tình của người trong cuộc, đương số này cũng phải ứng vào cách cục ngoại tình mới đúng. Đương số này vốn có được gia đình mỹ mãn, chồng là doanh nhân chân chính, cả ngày bận rộn với công việc, lãnh đạm với ái thê. Đương số không cam chịu cảnh tịch mịch nên “hồng hạnh xuất tường”, bỏ nhà ra đi ở chung cùng với người tình, khi người tình chán ngán đã bỏ nàng đi, muốn quay về nhà chồng cũ, nhưng người nhà cùng thân thích chỉ trích nhiều quá, làm cho cô ấy không có mặt mũi nào trở về, đành phải thuê nhà sống một mình, phù hợp với điều kiện “Cô”.

3, Vận trình Đại Hạn:

Rốt cuộc thì làm thế nào để suy đoán vận trình? Lúc đi tới Đại Hạn trên cung Nhâm Thân, thì [cung Phu Thê của Đại Hạn] ở chỗ cung Canh Ngọ có Lộc Tồn tọa thủ, can Canh khiến Thiên Đồng hóa Kị nhập [cung Quan Lộc của Đại Hạn] là dạng “hóa xuất Kị” đại biểu tình trạng ở Đại Hạn này thì tình cảm vợ chồng có sự trôi đi mất.

[cung Nô Bộc của Đại Hạn] ở cung Đinh Sửu, can Đinh khiến Thái Âm hóa Lộc, Thiên Đồng hóa Quyền tại cung Tý chiếu về [cung Phu Thê của Đại Hạn], còn sao Cự Môn hóa Kị xung [cung Mệnh của Đại Hạn]; cũng chứng tỏ rằng [cung Nô Bộc của Đại Hạn] sẽ cùng với Phu Thê của ta sảy ra một ảnh hưởng liên tiếp nào đó. Hơn nữa, bởi vì là Cự Môn hóa Kị xung [cung Mệnh của Đại Hạn], mà sao Cự Môn chủ ám muội bất minh cho nên chính là mối quan hệ sống chung với nhau mà thôi.

Từ kết cấu Hóa Kị phân bố theo [cung Phu Thê của Đại Hạn] và [cung Mệnh của Đại Hạn] trên lá số để mà xét, Đại Hạn ấy sẽ phát sinh vấn đề tình cảm, hình thái của vấn đề tình cảm này đã từ lá số gốc gieo tượng “Ngoại tình” rồi.

4, Vận trình Lưu Niên:

Lúc 28 tuổi, cung Nô Bộc gốc phi xuất Hóa Lộc và Hóa Quyền nhập [cung Mệnh của Lưu Niên], còn [cung Nô Bộc của Đại Hạn] phi xuất Hóa Lộc và Hóa Quyền vào cung Thiên Di gốc chiếu cung Mệnh gốc. Khiến cho khi đi ra bên ngoài rất vui vẻ náo nhiệt, bạn trai quan tâm yêu thương, cho nên nàng đối với người chồng chỉ lo sự nghiệp mà lãnh đạm với mình có sự rạn nứt, tâm lý nhất thời không kiềm được nên ngoại tình. Cho tới hiện giờ ông chồng thật thà thỉnh thoảng vẫn còn giúp đỡ về kinh tế cho cô. Đây chính là duyên cớ của hiện tượng ở cung Phu Thê có sao Thiên Lương hóa Khoa tọa thủ.

Về vấn đề tình cảm mà nói, nếu song phương đều có thể thõa mãn cho nhau về nhu cầu tinh thần cũng như sinh lý thì sao có thể sinh ra vấn đề rạn nứt! Sợ nhất là hai bên đều không hiểu nhau, khiến cho một bên đi chẳng có đường trở về. Cho nên tôi liên tục nhấn mạnh rằng muốn duy trì tình cảm hài hòa, hai bên cần thẳng thắn trao đổi để hiểu nhau, thì có thể tránh được bất hạnh. Mệnh tuy là do trời định, nhưng Vận là do bản thân mình nắm giữ. Sự thuận nghịch thất thường của Vận trình, cần phải nhìn kỹ lại bản thân mình như thế nào mà ứng với cảnh ấy!

Tổng kết:

Phân tích sóng gió của chuyện tình cảm thì nhất định cần phải nắm được những yếu tố tạo thành sóng gió hôn nhân ở trong sinh hoạt thực tế. Rồi lại tìm ra trong lá số những cung vị đối ứng với các yếu tố đó để suy đoán. Khi suy đoán thì phân chia các tầng lớp kết của Tứ Hóa từ Lá số gốc đến các Vận trình, cũng như là đối với tổ hợp các sao tọa thủ ở trong các cung vị. Không được coi nhẹ bất kỳ một bước nào. Phải trải qua từng tầng lực ảnh hưởng của Tứ Hóa tăng mạnh lên mới có thể khiến cho sự kiện hiện ra. Nếu như 1 tầng mà không có mối liên hệ tới lực tác dụng của sự cấu thành tổ hợp tinh tú và Tứ Hóa, thì sẽ không có cách nào thôi thúc để mà phát sinh ra sự kiện.

Mấy ví dụ được đưa ra trong chương này để thảo luận thì thường thấy hình thái của hôn nhân gặp sóng gió là: bạo lực gia đình, nuôi dạy con cái, ngoại tình. Từ đó có thể phát hiện, sự bạo lực gia đình có thể từ Tứ Hóa và các tinh tú trong cung Phu Thê hiển hiện ra, việc nuôi dạy con cái đưa đến sóng gió hôn nhân thì cũng có thể từ cung Phu Thê và cung Tử Tức biểu hiện ra dấu hiệu. Nhưng việc ngoại tình thì có rất nhiều loại yếu tố hình thành, nhưng ở trong sự suy luận của Tử Vi Đẩu Số thì chủ yếu nhìn 2 cung vị. Thứ nhất là cung Phu Thê, nếu như trong cung Phu Thê có các sao đào hoa tọa thủ thì có thể có xu hướng ngoại tình. Ở mục Chư Tinh Vấn Đáp có nhắc tới nhiều loại ngoại tình: nhiều vợ (nhiều chồng), nhiều chồng nhiều vợ, không thể xem nhẹ. Thứ hai, cung vị cần chú ý đến chính là cung Nô Bộc, chương này đưa ra các ví dụ ngoại tình đều là từ cung Nô Bộc đưa tới (dĩ nhiên 2 cái ví dụ này thì cung Phu Thê cũng có ảnh hưởng tiền ẩn ngoại tình). Có thể thấy tính liên quan giữa chúng là không thể xem thường, đương nhiên, ngoài việc xem xét 2 cung này thì cũng có khác biệt về chủng loại cung tương quan, nhưng mấy thứ này đều thuộc về ví dụ hiếm thấy. Bạn đọc có thể cất công đi sưu tầm, cũng có thể phỏng theo như chương này mà suy luận, tìm ra quy tắc mạch lạc.

Tóm lại, các cung chủ sự ngoại tình chính là cung Phu Thê và cung Nô Bộc là hai cung chính. Ở trên là các thủ pháp chính để suy đoán hôn nhân sóng gió, trong đó nói đến mấy loại phương thức phi Hóa Kị để bạn đọc coi như là định lý, tự mình áp dụng vào những cung vị khác để suy đoán.

(Dẫn theo trang www.huyenhocvadoisong.com)

Trusted by some of the biggest brands

spaces-logo-white
next-logo-white
hemisferio-logo-white
digitalbox-logo-white
cglobal-logo-white
abstract-logo-white
white-logo-glyph

We’re Waiting To Help You

Get in touch with us today and let’s start transforming your business from the ground up.