Chương 25: Quẻ SƠN HỎA BÍ
64 quẻ dịch lấy từ cuốn “Kinh Dịch – Đạo Của Người Quân Tử” của học giả Nguyễn Hiến Lê.
64 quẻ dịch lấy từ cuốn “Dịch Kinh Đại Toàn” của Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê.
64 quẻ dịch lấy từ cuốn “Bát Tự Hà Lạc – Lược Khảo” của Học Năng.
“Kinh Dịch – Đạo Của Người Quân Tử” của học giả Nguyễn Hiến Lê.
|:|::| Sơn Hỏa Bí (賁 bì)
Quẻ Sơn Hỏa Bí, đồ hình |:|::| còn gọi là quẻ Bí (賁 bi4), là quẻ thứ 22 trong Kinh Dịch.
* Nội quái là ☲ (|:| 離 li2) Ly hay Hỏa (火).
* Ngoại quái là ☶ (::| 艮 gen4) Cấn hay Núi (山).
Giải nghĩa: Sức dã. Quang minh. Trang sức, sửa sang, trang điểm, thấu suốt, rõ ràng. Quang minh thông đạt chi tượng: quang minh, sáng sủa, thấu suốt.
Đám đông, hợp lại với nhau thì phải có trật tự, uy nghi, có văn vẻ, cho nên tiếp theo quẻ Phệ Hạp là quẻ Búi là văn vẻ, rực rỡ, sáng sủa trang sức.
Thoán từ
賁: 亨, 小利, 有攸往.
Bí: hanh, tiểu lợi, hữu du vãng.
Dịch: Trang sức văn vẻ thì hanh thông; làm việc gì mà chỉ nhờ ở trang sức thì lợi bé nhỏ mà thôi.
Giảng: Trên là núi, dưới là lửa; lửa chiếu sáng mọi vật ở trên núi, như vậy làm cho núi đẹp lên, trang sức cho núi.
Còn một cách giảng nữa: trong nội quái (vốn là quẻ đơn Càn) hào 2, âm, vốn ở quẻ đơn Khôn, thay vào hào 2 dương của quẻ đơn Càn, thành quẻ đơn Ly, như vậy là tô điểm cho quẻ đơn Càn. Trong ngoại quái (vốn là quẻ đơn Khôn) hào trên cùng vốn ở quẻ đơn Càn, lại thay hào trên cùng của quẻ đơn khôn, thành quẻ đơn Cấn.
Nói cách khác, vắn tắt mà không sai mấy thì nội quái có một hào âm trang sức cho hai hào dương , còn ngoại quái có một hào dương trang sức cho hai hào âm, vì vậy mà gọi là quẻ Bí: trang sức.
Vật gì cũng vậy: có chất, tinh thần; mà lại thêm văn, hình thức, thì tốt (hanh thông), nhưng nếu chỉ nhờ ở trang sức mà thành công thì lợi ít thôi.
Thoán truyện bàn rộng thêm: âm nhu và dương cương giao với nhau, thay đổi lẫn nhau (tức hào 2 và hào trên cùng như trên mới giảng). Ðó là cái văn vẻ tự nhiên (thiên văn) của trời; còn cái văn vẻ nhân tạo (nhân văn) thì nên hạn chế (quẻ Cấn ở trên có nghĩa là ngăn, hạn chế), vì tuy nó có công giáo hóa thiên hạ, nhưng nhiều quá thì văn thắng chất, xấu.
Đại tượng truyện còn khuyên: Việc chính trị nhỏ thì dùng trang sức được; còn việc quan trọng như phán đoán hình ngục thì đừng nên quả quyết, tô điểm thêm.
Hào từ
1. 初九: 賁其趾, 舍車而徒.
Sơ cửu: Bí kì chỉ, xả xa nhi đồ.
Dịch: Hào 1, dương, Trang sức, trau giồi ngón chân (địa vị thấp) của mình; bỏ cách sung sướng là ngồi xe mà nên đi bộ (chịu khó nhọc).
Giảng: Hào này dương cương, ở cuối cùng nội quái Ly, tức như người có đức sáng suốt mà ở địa vị thấp nhất. Chỉ nên trau giồi phẩm hạnh của mình trong địa vị đó (ví như ngón chân, bộ phận thấp nhất trong thân thể), mà an bần, chịu đi bộ chứ đừng ngồi xe.
2. 六二: 賁其須.
Lục nhị: Bí kì tu.
Dịch: Hào 2, âm: trang sức bộ râu.
Giảng: Chữ tu ở đây nghĩa là râu, cũng như chữ tu : 鬚
Hào này làm chủ nội quái ly, có công dụng trang sức cho quẻ Ly, đặc biết là cho hào 3 dương ở trên nó, cho nên ví nó như bộ râu trang sức cho cái cằm (hào 3). Nó phải phụ vào hào 3 mà hành động. Hào 3 có tốt thì tác động của hào 2 mới tốt, cũng như phải có cài cằm đẹp thì để râu mới thêm đẹp, nếu cằm xấu thì để râu càng thêm khó coi. Nói rộng ra thì bản chất phải tốt, xứng với sự trang sức; chất và văn phải xứng nhau.
3. 九三: 賁如濡如, 永貞吉
Cửu tam: Bí như, nhu như,vĩnh trinh cát.
Dịch: Hào 3, dương: Trang sức mà đằm thắm, hễ giữ vững chính đạo thì tốt.
Giảng: Hào này dương cương, đắc chính, lại ở trên cùng nội quái ly, có cái nghĩa rất văn minh; tượng trưng người có tài trang sức cho hai hào âm ở trên và dưới nó, tính rất đằm thắm với hai hào âm (có người dịch “nhu như” là trang sức một cách nhuần nhã, thấm nhuần). Vì vậy mà nên coi chừng, đừng say mê vì tư tình, mà phải bền giữ chính đạo thì mới tốt, không bị người xâm lấn (mạc chi lăng dã: Tiểu tượng truyện).
4. 六四: 賁如皤如, 白馬翰如, 匪寇, 婚媾.
Lục tứ: Bí như, bà (có người đọc là ba) như, bạch mã hàn như, phỉ khấu, hôn cấu.
Dịch: hào 4 âm: Muốn trang sức cho nhau (nhưng không được) nên chỉ thấy trắng toát. Hào 4 như cưỡi ngựa trắng mà chạy như bay (đuổi kịp hào 1), rốt cuộc cưới nhau được vì kẻ gián cách hai bên (hào 3) không phải kẻ cướp (người xấu).
Giảng: hào 4 âm nhu, ứng với hào 1 dương cương, cả hai đều đắc chính ,tình ý hợp nhau, muốn trang sức cho nhau, nhưng bị hào 3 ở giữa ngăn cách, nên không trang sức cho nhau được, chỉ thấy trắng toát (trắng nghĩa là không có màu, không trang sức). Mặc dầu bị 3 cản trở, 4 vẫn cố đuổi theo 1, rốt cuộc 3 vốn cương chính, không phải là xấu, không muốn làm hại 4 và 1, cặp này kết hôn với nhau được.
5. 六五: 賁于丘園, 束帛戔戔, 吝, 終吉.
Lục ngũ: bí vu khâu viên, thúc bạch tiên tiên, lận, chung cát.
Dịch: Hào 5, âm: Trang sức ở gò vườn, mà dùng tấm lụa nhỏ, mỏng, tuy là bủn xỉn, đáng chê cười đấy, nhưng rốt cuộc được tốt lành.
Giảng: Hào 5, âm nhu, đắc trung, làm chủ quẻ Bí; vì là âm nhu nên có tính quá tằn tiện, lo trang sức cái gì hữu dụng như vườn tược thôi, mà lại chỉ dùng tấm lụa nhỏ, mỏng cho đỡ tốn, cho nên bị cười chê, nhưng như vậy còn hơn là xa hoa, mà biết trọng cái gốc là sự chất phác, cho nên cuối cùng vẫn được tốt lành, có hạnh phúc cho dân (hữu hỉ dã: lời Tiểu tượng truyện.)
6. 上九: 白賁, 无咎.
Thượng cửu: Bạch bí, vô cữu.
Dịch: Hào trên cùng, dương: lấy sự tố phác, như màu trắng (không màu mè gì cả) làm trang sức, không có lỗi.
Giảng: Hào này là thời cuối cùng của quẻ Bí, trang sức, màu mè đã cùng cực rồi; mà vật cực tắc phản, người ta lại trở lại sự chất phác, nên không có lỗi gì cả. Trong văn học sử, chúng ta thấy sau những thời duy mĩ quá mức, người ta lại “phục cổ”, trở lại lối văn bình dị, tự nhiên thời xưa.
***
Đại ý quẻ Bí này là có văn vẻ, có trang sức mới là văn minh, nhưng vẫn nên trọng chất hơn văn, lấy chất làm thể, lấy văn làm dụng, và không nên xa hoa, màu mè quá.
“Dịch Kinh Đại Toàn” của Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê.
22. 山 火 賁 SƠN HỎA BÍ
Bí Tự Quái | 賁 序 卦 |
Hạp giả hợp dã. | 嗑 者 合 也 |
Vật bất khả dĩ cẩu hợp nhi dĩ. | 物 不 可 以 苟 合 而 已 |
Cố thụ chi dĩ Bí. | 故 受 之 以 賁 |
Bí giả sức dã. | 賁 者 飾 也 |
Bí Tự Quái
Phệ Hạp là hợp đã đành,
Hợp, đâu là phải mặc tình nhố nhăng,
Cho nên quẻ Bí theo chân.
Bí là trang sức, vẻ văn rỡ ràng.
Quẻ Bí bàn về văn vẻ của Bản thể, bàn về Thiên văn và Nhân văn. Ta sẽ đem Dịch mà giải Thiên văn, Nhân văn một cách đại cương, vắn tắt.
Thiên văn Trung Hoa (khái niệm). Trên Trời thì Thái Cực, hay Tuyệt Đối Thể trở thành Thiên Hoàng = Thượng đế, ngự ở toà Bắc Thần, làm khu nữu (tâm điểm của vòng tròn) cho muôn vì tinh tú, còn Vòng Dịch, có thể tượng trưng được bằng vòng Nhị Thập Bát tú bên ngoài.
Như vậy chỉ có Bắc Thần là trục, còn cả bầu trời và muôn vì tinh tú đều xoay tròn xung quanh.
Sau khi nói đại khái về Thiên văn, ta quay về quẻ Bí.
Bí là văn vẻ bên ngoài, tinh quang trời (Ly), lẩn sau lớp màn vạn hữu (Cấn), làm cho vạn hữu bừng sáng lên. Có chất tức là có văn, chất càng chói lọi tinh ròng, văn càng sáng sủa đẹp đẽ. Cái vẻ đẹp của Trời Đất, Nhân quần, Vạn Hữu, được phát sinh là do sự giao thoa của đủ mọi hạng, mọi loài:
-Tôn / Ti | -Đại / Tiểu | -Quang / Âm. |
-Minh / Ám | -Chính / Tùy | -Trì / Tốc. |
-Chủ / Tớ | -Hằng / Biến | -Kinh / Vĩ. |
I. Thoán.
Thoán Từ.
賁:亨。 小 利 有 所 往。
Bí. Hanh. Tiểu lợi hữu du vãng.
Dịch. Thoán Từ:
Có văn, có vẻ cũng hay.
Cũng đôi chút lợi, cũng dầy công lao.
Ở trên trời, Văn sinh ra do sự giao thoa giữa các vì tinh thể. Giao thoa đúng cách, đúng điệu thì hay. Giao thoa lỗi phách, lạc cung thì dở.
Ở trong Nhân quần, nhân văn sinh ra là do sự giao thoa, sự hỗ tương ảnh hưởng giữa các tầng lớp con người. Sự giao thoa đúng cách, đúng điệu sẽ sinh ra mọi sự cát tường, sự giao thoa sai hướng, ngược chiều, sẽ sinh ra loạn ly, phân cách. Vì thế Thoán Từ cho rằng: Trông xem Thiên Văn sẽ biết chiều trời, biết trời biến hóa. Nhìn xem nhân văn, sẽ biết liệu chiều điểm xuyết cho Nhân quần ngày một thêm đẹp, thêm tươi. Tuy nhiên, luôn nhớ rằng: cái văn sức bên ngoài chỉ là tùy thuộc (Bí. Hanh. Tiểu lợi hữu du vãng).
Thoán Truyện.
彖 曰: 賁,亨﹔ 柔 來 而 文 剛,故 亨。分 剛 上 而 文 柔,故 小 利 有 攸 往。天 文 也﹔ 文 明 以 止,人 文 也。觀 乎 天 文,以 察 時 變﹔ 觀 乎 人 文,以 化 成 天 下。
Thoán viết:
Bí hanh. Nhu lai nhi văn Cương. Cố hanh. Phân Cương thượng nhi văn Nhu. Cố tiểu lợi hữu du vãng. Thiên văn dã. Văn minh dĩ chỉ. Nhân văn dã. Quan hồ thiên văn. Dĩ sát thời biến. Quan hồ nhân văn. Dĩ hóa thành thiên hạ.
Dịch. Thoán viết:
Có văn vẻ cũng hay, cũng lợi,
Nhu đến thêm phong thái cho Cương.
Cương lên tăng vẻ huy hoàng,
Cho Nhu thêm vẻ rỡ ràng, đẹp tươi,
Âu cũng được thêm đôi chút lợi,
Công trình âu thêm nổi, thêm hay.
Cương, Nhu đắp đổi vần xoay,
Vẻ Trời nhờ đó, đổi thay lần hồi.
Kìa, nền nếp vị ngôi đạo nghĩa,
Ấy chính là văn vẻ con người.
Thiên Văn để biết thời Trời
Nhân Văn để khiến cho đời thêm hay.
Nhân quần chỉ đẹp tươi, khi mà xã hội có trật tự, tôn ti, tùy theo tài đức; khi mà mọi người, trên, dưới hòa hợp theo đúng lý tưởng, nhân nghĩa; khi mà mọi người thỏa thuê vì số phận, vì địa vị của mình
Vạn hữu chỉ thực sự đẹp tươi, khi mà vật chất trở nên công cụ trang điểm cho tinh thần, khi mà vật chất là trang sức bên ngoài, mà tinh thần là thực chất bên trong
Ngược lại, Vạn hữu chỉ đẹp tươi, khi mà tinh thần làm cho vật chất trở nên rạng rỡ. Đã ở trong thế giới tương đối hữu hình, dĩ nhiên Tinh thần và Vật chất, Âm và Dương hỗ tương ảnh hưởng để sinh ra biến thái, cho nên nguyên có Chất cũng không được, mà nguyên có Văn cũng không xong. Cái khéo là đào luyện sao cho trong thì tinh ròng, ngoài thì văn vẻ, trang nhã mới là hoàn hảo. Luận Ngữ nói: Chất thắng văn thời quê mùa, Văn thắng chất thời xã giao bôi bác. Văn chất tương xứng mới là quân tử. (L. N.VI, 11)
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰: 山 下 有 火,賁﹔ 君 子 以 明 庶 政,無 敢 折 獄。
Tượng viết. Sơn hạ hữu hỏa. Bí. Quân tử dĩ minh thứ chính. Vô cảm chiết ngục.
Dịch. Tượng rằng:
Bí là lửa rực ven non,
Hiền nhân trang nhã, nhu khoan với người.
Việc thường nhã nhặn, xong xuôi.
Đến như hình án, âu thời uy nghiêm.
Tượng áp dụng cái văn vẻ, duyên dáng của Trời Đất ấy vào công việc thường xuyên của công bộc quốc gia, và cho rằng trong khi giải quyết các công việc thường nhật, cần phải vui tươi, hòa nhã với người. Khi nào phải xử những hình án nghiêm trọng, mới nên phô trương cái uy thế nghiêm ngặt.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện.
Hào đề cập đến cái văn vẻ, đẹp đẽ thực sự của con người:
1. Hào Sơ Cửu.
初 九 : 賁 其 趾,舍 車 而 徒。
象 曰: 舍 車 而 徒,義 弗 乘 也。
Sơ Cửu. Bí kỳ chỉ. Xả xa nhi đồ.
Tượng viết:
Xả xa nhi đồ. Nghĩa phất thừa dã.
Dịch.
An phận dưới, lập thân tu đức.
Chẳng đi xe, đi đất cũng xong.
Tượng rằng:
Bỏ xe, đi đất vậy thôi,
Xe vô nhân nghĩa, ta thời chẳng đi.
Hào Sơ cho rằng: Cái văn vẻ, đẹp đẽ nhất của con người là theo được nghĩa lý. Cho nên làm trái mà được đi xe, không bằng làm phải mà đi bộ.
2. Hào Lục nhị.
六 二 : 賁 其 須。
象 曰: 賁 其 須,與 上 興 也。
Lục nhị. Bí kỳ tu.
Tượng viết:
Bí kỳ tu. Dữ thượng hưng dã.
Dịch.
Hào hai, râu đẹp vì cằm.
Tượng rằng: râu đẹp vì cằm.
Cố sao theo đúng tinh thần cấp trên.
Hào nhị cho rằng: Cái văn vẻ, đẹp đẽ chân thực của con người, phải phát xuất từ nội tâm, từ thực chất bên trong, từ sự thượng hạ hòa mục, chứ chẳng phải là do những sự giả tạo, phù phiếm bên ngoài. Ví như râu đẹp, nhưng đẹp chính là do khí huyết phương cương bên trong, và do bộ cằm, bộ mặt đẹp đẽ.
3. Hào Cửu tam.
九 三 : 賁 如 濡 如,永 貞 吉。
象 曰: 永 貞 之 吉,終 莫 之 陵 也。
Cửu tam. Bí như nhu như. Vĩnh trinh cát.
Tượng viết:
Vĩnh trinh chi cát. Chung mạc chi lăng dã.
Dịch.
Cửu tam văn vẻ, rỡ ràng.
Mà lòng giữ trọn cương thường, mới hay.
Tượng rằng:
Cương thường trọn vẹn, mới hay.
Cuối cùng, sẽ chẳng bị ai khinh nhờn.
Cái văn vẻ thuần nhã, thanh lịch bên ngoài, luôn luôn phải được bảo đảm bằng sự minh chính bên trong mới tốt.
4. Hào Lục tứ.
六 四 : 賁 如 皤 如,白 馬 翰 如,匪 寇 婚 媾。
象 曰: 六 四,當 位 疑 也。 匪 寇 婚 媾,終 無 尤 也。
Lục tứ. Bí như ba như. Bạch mã hàn như. Phỉ khấu hôn cấu.
Tượng viết:
Lục tứ đáng vị. Nghi dã. Phỉ khấu hôn cấu. Chung vô vưu dã.
Dịch. Hào Lục tứ.
Ngoài văn vẻ, mà trong thuần phác,
Văn vẻ ưa, đạo đức cũng ưa.
Khát khao đức hạnh sớm trưa,
Bạch câu nếu có, băng qua mấy hồi,
Nếu không bị chia phôi, gàng quải,
Đạo và ta sẽ mãi tất giao.
Tượng rằng: Lục tứ đáng ngôi,
Tuy còn nghi hoặc, tới lui chưa dành,
Nếu không gàng quải, yến oanh.
Đạo Trời phối hợp, tốt lành mấy mươi.
Hào tư mô tả nỗi niềm một người có văn vẻ bên ngoài, nhưng không ham chuộng cái văn vẻ ấy, mà lòng chỉ luôn ước mơ về với cái bản thể thuần phác bên trong, muốn lâng lâng thoát được vòng cương toả của ngoại cảnh, cưỡi thần mã về cùng Chí đạo.
5. Hào Lục ngũ.
六 五 : 賁 于 丘 園,束 帛 戔 戔,吝,終 吉。
象 曰: 六 五 之 吉,有 喜 也。
Lục ngũ. Bí vu khâu viên. Thúc bạch tiên tiên. Lận. Chung cát.
Tượng viết:
Lục ngũ chi cát. Hữu hỷ dã,
Dịch.
Hiền nhân trang nhã điền viên,
Vài ba tấm lụa, nhỏ nhen xá nào.
Thật là tiết kiệm, đến điều.
Đơn thuần, rút cuộc có nhiều cát hanh.
Tượng rằng: Kiệm, phúc mới hay,
Là vui cho nước, là may cho đời.
Hào ngũ cho rằng: Càng ở ngôi vị cao quí, lại càng phải tìm lấy cái vẻ đẹp đẽ cao quí của một đời sống thuần phác, giản dị, ưa thực chất, không ưa phù phiếm, cần kiệm chẳng chuộng xa hoa.
6. Hào Thượng Cửu.
上 九 : 白 賁,無 咎。
象 曰: 白 賁 無 咎,上 得 志 也。
Thượng cửu. Bạch bí. Vô cữu.
Tượng viết:
Bạch bí vô cữu. Thượng đắc chí dã.
Dịch.
Rồi ra ngọc trắng, gương trong,
Trắng trong, thấu suốt, mới mong tinh tuyền.
Tượng rằng:
Trắng trong, thấu suốt tinh tuyền,
Người trên vậy đã phỉ nguyền ước mong.
Hào Thượng cửu cho rằng: Cái đẹp đẽ nhất, cái văn vẻ nhất, chính là sự thuần phác của bản thể. Con người mà hiểu được như vậy, mà quay về được với gốc, với nguồn như vậy thực là không ai có thể chê trách được.
ÁP DỤNG QUẺ BÍ VÀO THỜI ĐẠI
Khi tôi soạn tới phần Áp dụng của quẻ Bí, là một quẻ liên quan nhiều ít đến Thiên Văn, thì nước Hoa Kỳ bị sôi động bởi 1 vấn đề Thiên Văn nóng hổi: Đó là: Các Hành Tinh có người hay không? Báo Time ra ngày 19 tháng 8 năm 1996, đã đăng tải rằng, cách đó một tuần, cơ quan Hàng Không NASA, trong một cuộc họp báo truyền thanh tại Washington, đã đem trình bày một cục vẫn thạch, tức là một cục đá rơi từ Hỏa Tinh xuống đất, (cách đây khoảng 13,000 năm), xuống vùng Allan Hills ở Nam Cực. Cục đá này gọi là ALH84001, nặng 4,2 pounds, tức là to bằng 1 củ khoai tây. Các nhà Khoa Học nhìn vào trong đó, thấy có những dấu vết vật lý, hoá học của sự sống. Nghĩa là thấy dấu vết của những con vi trùng tí hon, sống cách đây khoảng 4 tỉ năm. Báo Science trong tuần này, cũng đứng ra đăng những hình chụp chứng minh rằng những hình như con sâu nhìn thấy trong mảnh đá đó, có thể là những sinh vật xưa. Tổng Thống Hoa Kỳ Clinton tuyên bố: Ngày nay hòn đá 84001 nói với chúng ta, qua nhiều tỉ năm, và nhiều triệu dặm. Nó còn cho biết có thể có sự sống. Nếu sự khám phá trên mà đúng, thì thật là một cái nhìn ngỡ ngàng vào Vũ Trụ, mà Khoa Học đã đem lại cho chúng ta. Nói thế, có nghĩa là cách đây 3,6 tỉ năm, Hỏa tinh đã từng có nước, có vi trùng sống trong những kẹt nhỏ của Hỏa Tinh. Nhưng sau đó, thì biển và không khí đã biến mất trên Hỏa Tinh. Đã có một vẫn thạch rớt xuống từ Hỏa Tinh, và bắn xuống trái đất.
Ông DANIEL GOLDIN, người điều hành NASA cho biết cuộc họp báo đã làm ông hết sức xúc động, như muốn nín thở. Ông DAVID MCKAY, trưởng phái đoàn NASA cho biết còn thấy dấu vết của chất hóa học hữu cơ gọi là PAHS. Và nhóm ông đã mất 2 năm rưỡi trời mới đi đến kết luận là xưa đã có sự sống trên Hỏa Tinh.
Các nhà Thần Học cũng bị xúc động không kém. Chúng ta nên nhớ các đạo Giáo lớn Âu Châu xưa nay tin rằng chỉ có Trái Đất mới có Sinh Vật. Báo LOS ANGELES TIMES ngày 17 tháng 8 năm 1996, đã đăng bài nói rằng: Các nhà Thần học sợ hãi, khi thấy có thể có người trên Hỏa Tinh. tuy nhiên, họ nói ngày nay không còn là thế kỷ 16, khi Giáo Hội cấm đoán Copernicus và Galileo không được giảng dạy là Trái Đất không phải là trung tâm vũ trụ.
Nếu chúng ta nhìn vấn đề bao quát hơn, ta thấy dân Mỹ từ năm 1947, đã có luận điệu khác. Trong một cuộc thăm dò dư luận của báo Newsweek hồi đầu tháng 7 vừa qua, thì có 48% dân Mỹ tin rằng người Hành Tinh & Đĩa Bay là có thật, và có 29% tin rằng đã có nhiều người tiếp xúc được với người Hành Tinh; 48% dân Mỹ cho rằng: chính phủ đã bưng bít vấn đề.
Nhiều người Mỹ tin rằng: đĩa bay còn có cứ địa 51, nằm trên một khoảng xa lộ 375 ở Tiểu Bang NEVADA.
Năm 1947, báo chí loan tin có một đĩa bay rớt xuống nước Mỹ, và đã được chính phủ Mỹ đem về cất dấu ở cứ địa đó. Hồi tháng 4 năm 1966, thống đốc Tiểu Bang NEVADA đã chính thức đổi tên Xa Lộ 375 thành Xa Lộ EXTRATERRESTRIAL (Xa lộ Hành tinh), và nay thành phố Rachel ở Nevada đã trở thành thánh địa của Giáo phái ĐĨA BAY. Chúng ta nên biết rằng sự sống chỉ có thể có được trên các Hành Tinh mà thôi.
Và chúng ta cũng biết Thái Dương Hệ, trừ Trái Đất mà chúng ta đang sống, còn có 8 hành tinh. Đó là Kim (Venus), Mộc (Jupiter), Thủy (Mercure), Hỏa (Mars), Thổ (Saturne), Uranus, Neptune, Pluto. Ngày nay, người ta tìm được 3 Hành Tinh khác: một ở ngôi sao 47 trong chòm sao Ursa Major = Đại Hùng Tinh; hành tinh 2 là ở ngôi sao 70 trong chòm sao Virgo = Xử Nữ; hành tinh 3 ở ngôi sao 52 trong chòm sao Pegasus = Thiên Mã.
Tóm lại, chuyện người Hành Tinh xuống là chuyện xa vời. Nên ta hãy yên trí, đừng bận tâm đến nó.
“Bát Tự Hà Lạc – Lược Khảo” của Học Năng.
22.Sơn Hỏa Bí
Ðại cương:
Tên quẻ: Bí là sức (trang sức, làm cảnh đẹp thêm).
Thuộc tháng 11
Lời tượng
Sơn hạ hữu hỏa: Bí. Quân tử dĩ minh thứ chính vô cảm chiết ngục
Lược nghĩa
Dưới núi có lửa là quẻ Bỉ (trang sức đẹp thêm). Người quân tử lấy đấy mà làm sáng tỏ việc chính trị thường thường không dám xử đoán việc hình ngục.
Hà Lạc giải đoán
Những tuổi Nạp Giáp:
Kỷ: Mão, Sửu, Hợi
Bính: Tuất, Tý, Dần
Lại sanh tháng 11 là cách công danh phú quý.
THƠ RẰNG:
Không cầu, lộc tự trời cho
Xưa buồn, nay gặp trâu bò lại vui
Hào 1:
Bí kỳ chỉ, xả xa nhi đồ. Ý hào: An Phận dưới.
MỆNH – HỢP – CÁCH: Cương chính, đạt thì văn sức đẹp cả thiên hạ, cùng thì giữ thân mình. Tài đức lớn không lấy vận cùng thông làm vui buồn.
MỆNH – KHÔNG – HỢP: Vất vả bôn ba dựa thế phú hào.
XEM – TUẾ – VẬN: _Quan chức: Phòng thoái. _Giới sĩ: Phòng truất giáng _Người thường: Chạy ngược xuôi, bỏ dễ nghe khó, xa người thân, gần người sơ. Tĩnh thì hung, động thì cát (tức là không nên bị động, chịu ép một bề.)
Hào 2:
Bí kỳ tu. Ý hào: Trang sức cho người để chấn tác việc làm.
MỆNH – HỢP – CÁCH: Văn chương học vấn sáng sủa giúp nước.
MỆNH – KHÔNG – HỢP: Học rộng tài nhanh, thường an vui.
XEM – TUẾ – VẬN: _Quan chức: nhân người mà thành công, được thăng chuyển _Giới sĩ: Văn chương được người ta yểm trợ. _Người thường: Ðược đề cử, kinh doanh trôi chảy. Tuy gặp tri kỷ, cũng đừng cậy thế.
Hào 3:
Bí như nhu như, vĩnh trinh, cát. Ý hào: Nếp sống an nhàn.
MỆNH – HỢP – CÁCH: Danh cao trọng vọng, đại quí hiển.
MỆNH – KHÔNG – HỢP: Kiến thức hơn người, hoặc tài lộc dồi dào tuổi hạc cao, được giúp sức.
XEM – TUẾ – VẬN: _Quan chức: Ðược khen tặng hay huy chương. _Giới sĩ: Ðược giúp đỡ thành danh. _Người thường: Nhiều người giúp sức, không khó nhọc.
Hào 4:
Bí như, Bà như, Bạch mã hàn như, Phỉ cấu hôn cấu. Ý hào: Cầu nhau thương mến nhau.
MỆNH – HỢP – CÁCH: Học rộng tài cao, lão thành nơi Hàn viện trước khó sau dễ, người thân ngờ vực, xuất chinh dược đắc cách.
MỆNH – KHÔNG – HỢP: Tuổi trẻ lao đao, muộn có kết quả.
XEM – TUẾ – VẬN: _Quan chức: Trước khó sau thành. _Người thường: Buồn có, vui có, trước hiểm sau an lành, vận xấu có tang phục.
Hào 5:
Bí vu khâu viên thúc bạch tiên tiên, Lận trung cát. Ý hào: Lấy đức tiết kiệm mà trị nước.
MỆNH – HỢP – CÁCH: Cần gốc chất thực, tuy có vẻ quê mùa nhưng tiết kiệm làm cho nước được phú túc. Ðược thọ khánh.
MỆNH – KHÔNG – HỢP: Cục mịch quá mà vẫn thiếu thốn.
XEM – TUẾ – VẬN: Phúc lộc già thọ, việc lớn khó tiến thủ, việc nhỏ tốt.
Hào 6:
Bạch bí vô cữu. Ý hào: Trang sức đến cùng, trở về gốc cũ nên tránh được lỗi lầm.
MỆNH – HỢP – CÁCH: Theo cổ nhân, chất phát, học vấn hơn đời phúc lộc dồi dào.
MỆNH – KHÔNG – HỢP: Người điềm tĩnh, chân thật, biết tuỳ thời.
XEM – TUẾ – VẬN: _Quan chức: thăng chuyển. _Giới sĩ: Tiến thủ. _Người thường: Kinh doanh thật thà. Có tang phục bên ngoại.
(Dẫn theo trang huyenhocvadoisong.com)