Chương 2: Thiên Cơ
Thuộc Mộc, Nam đẩu đệ tam tinh, hóa khí là Thiện, chủ Huynh Đệ.
Thiên Cơ nhập mệnh, thân hình vừa phải, trung bình, nhập miếu thì béo, lạc hãm thì tương đối gầy, thông thường ở trạng thái béo vừa phải. Hội cát tinh, tâm tính hiền lành, hiếu nghĩa với lục thân, vẻ ngoài đoan chính ổn trọng, hành sự có phương pháp.
Tính cách của Thiên Cơ tương đối gấp, có ý chí ứng biến cơ động linh hoạt, phản ứng đầu óc mẫn thiệp, tốc độ nói nhanh, cuộc sống lao tâm. Ham học hỏi tìm kiếm tri thức, đa học đa năng, nhưng chỉ chuyên tâm vào một thứ thì tốt.
Có hứng thú và sự yêu thích với triết học, tôn giáo, các sự vật thần bí.
Thiên Cơ cư mệnh, chỉ cần không hội các hung tinh đồng cung, thì trọng tình cảm, vui vẻ giúp đỡ người khác, tâm tính thẳng thắn bộc trực.
Người có Thiên Cơ tọa mệnh tướng đối giỏi xã giao, lên kế hoạch, phân tích, túc trí đa mưu, hành sự có lí lẽ, có năng lực thiết kế sáng sạo.
Thiên Cơ là một sao động, thường hay suy nghĩ nhiều, đứng núi này trông núi khác, vì vậy có xu hướng không bám sát thực tế. Hội sao xấu thì thích cờ bạc.
Nữ giới có Thiên Cơ nhập mệnh, tính tình cương cường, nắm quyền trong nhà. Tính tình hiền lành, chăm chỉ hiếu thuận, cơ trí linh hoạt, hay suy nghĩ, đối với người khác nhiệt tình hào phóng, nếu được cát tinh củng chiếu thì vượng phu ích tử, có Quyền Lộc thì là bậc quý phu nhân.
1. Thiên Cơ và Thiên Lương đồng cung, hoặc Thiên Cơ ở cung mệnh, Thiên Lương ở cung Thân, người này tất có tài nghệ cao.
2. Thiên Cơ và Thiên Lương, Tả Phụ Hữu Bật, Văn Xương Văn Khúc hội, văn học tinh thông, võ học trung lương, lại hội Khôi Việt Khoa Quyền Lộc, có vị trí chức quyền cao, hội Lộc Mã, tài sản giàu có.
3. Thiên Cơ nếu cư hãm địa, Kình Đà Hỏa Linh xung phá, là hạ cách, dù có cung tài bạchgiàu có cũng không được dài lâu. Thích hợp buôn bán nhỏ, vẫn sẽ đổi ngành, nếu không sống đời xảo kĩ nghệ thuật, dựa vào kĩ thuật mà sỗng qua ngày.
4. Thiên Cơ đồng cung với Kình Đà Hỏa Linh, dễ gặp nạn chảy máu, cuộc sống thường gặp chuyện kinh sợ, xử sự xung động, dễ mù quáng mà đưa ra quyết định, bình thường luôn có vẻ bận rộn. Thiên Cơ cư cung hãm địa đồng cung với Kình Đà, cuộc sống nhiều thị phi, sống đời đầu trộm đuôi cướp, có ý thức phạm tội và họa tù tội. Nếu Thiên Cơ cư tỵ hợi đồng cung với Đà La, dễ dính lao tù.
5. Thiên Cơ đồng cung với Không Kiếp, cuộc sống thường gặp khó khăn thất bại, từ đó thất vọng với xã hội, sản sinh khuynh hướng trốn tránh hiện thực, tư tưởng siêu thoát, chuyển hướng nghiên cứu triết học, tôn giáo, huyền học.
6. Thiên Cơ đồng cung với Xương Khúc, chăm chỉ phấn đấu ham học hỏi, khả năng thiên phú cao, văn vẻ tốt, thông minh hơn người, trí nhớ tốt, giàu tinh thần nghiên cứu, dễ thành danh ở phương diện kĩ thuật, học thuật.
7. Thiên Cơ hóa Lộc, thông minh tài trí, giao thiệp rộng, quan hệ xã giao tốt, một đời tài vận tốt, nhiều biến động.
8. Thiên Cơ hóa Quyền, là người cố chấp, tình tính cổ quái, có thể thao túng quyền binh, giàu mưu trí kế lạ, cuộc sống cũng có nhiều chuyện thay đổi.
9. Thiên Cơ hóa Khoa, là người thanh bạch, thông minh cơ trí, danh tiếng khắp nơi.
10. Thiên Cơ hóa Kỵ, không hợp kinh doanh, chỉ hợp nghiên cứu học vấn, theo đuổi phát minh sáng tạo. Tính tình hay thay đổi, cuộc sống không thuận, nhiều trắc trở, hay nghĩ vào ngõ cụt, hay hoang tưởng, bi quan, tuyệt vọng, có hứng thú với tôn giáo, triết học, bói toán… Đồng cung hay hội với hung tinh thường đoản thọ, thậm chí phạm tội bị bắn giết hay tự sát.
11. Thiên Cơ, Thiên Lương, Kình Dương hội, sớm có hình mà về muộn mới thấy cô đơn, nữ mệnh nên làm vợ hai hoặc kết hôn muộn.
Thiên Cơ cư tý ngọ
Nhập miếu độc thủ. Là người trọng đạo, có lúc cũng rất tự phụ, vì vậy khiến người khác không thoải mái.
Thân hình thường béo, đầy đặn, thường có năng lực kĩ thuật chuyên môn, dễ theo đuổi các công việc kĩ thuật, thương đảm nhiệm chức vụ cư cơ cấu nhà nước, là bác sĩ, kĩ sư, kiến trúc sư, luật sư, nhân viên kế hoạch, nhà thiết kế, biên tập…
Người sinh năm Ất Bính Đinh Kỷ Canh Nhâm Quý, tài quan song mỹ. Người sinh năm Ất, Thiên Cơ hóa Lộc, Thiên Lương hóa Quyền; người sinh năm Đinh, Lộc Tồn cư cung Ngọ, cung quan lộc Thái Âm hóa Lộc, cung tài bạch có Thiên Đồng hóa Quyền, mệnh cung Thiên Cơ Hóa Khoa, lại hội Tả Hữu Xương Khúc, là cách lãnh tụ, là quan chức cấp bộ trưởng trở lên; người sinh năm Kỷ cung Ngọ có Lộc Tồn, cung tài bạch Thiên Lương hóa Khoa, Thiên Khôi đồng cung hoặc xung chiếu; người tuổi Canh Thiên Đồng hóa Khoa, Lộc Tồn cư Thân, lập mệnh cư Tý tốt đẹp thuận lợi; người tuổi Nhâm Thiên Lương hóa Lộc, nhưng hội Kình Dương, phúc không đẹp hoàn toàn; người tuổi Quý Lộc Tồn cư Tý, Thái Âm hóa Khoa, cung thiên di Cự Môn hóa Quyền, phú quý.
Nữ mệnh, có đạo duy trì gia đình, hội cát tinh, phúc thọ song toàn. Riêng Thiên Cơ cư Tý, không lợi cho hôn nhân.
Thiên Cơ cư sửu mùi
Lạc hãm độc thủ. Tứ sát xung phá, hạ cách, thích hợp kinh doanh hoặc xảo nghệ mưu sinh, hội nhiều sao xấu thì sống đời đầu trộm đuôi cướp.
Lương thiện trung hậu hướng nội, trọng tình cảm, không thích so đo với người khác, thường địa vị không cao.
Người sinh năm Bính Đinh Nhâm, tài quan song mỹ. Người sinh năm Bính, Lộc Tồn cư Tỵ, cung tài bạch Thiên Đồng hóa Lộc, Thiên Cơ hóa Quyền, lập mệnh cư Sửu, Khoa Lộc củng chiếu, hợp cách Lộc, có thể phú quý, riêng nữ mệnh tình cảm không lợi; người sinh năm Đinh cung tài bạch Thiên Đồng hóa Quyền, Thiên Cơ hóa Khoa; người tuổi Nhâm đối cung Thiên Lương hóa Lộc, Lộc Tồn cư Hợi, nếu lập mệnh cư Mùi thì tốt, hội Phụ Bật Xương Khúc, theo văn thì là người thanh hiển, theo võ thì là bậc trung lương; người sinh năm Ất thì hội Lộc tốt đẹp thuận lợi.
Thiên Cơ cư dần thân, Thái Âm đồng cung
Một đời hay đi lại, khó tránh việc tha hương, nam nữ đều dễ gặp cảnh đào hoa ngoại tình, dễ hợp với người khác. Là người tính tình ôn hòa, tiến thoái không dứt khoát. Như Thiên Mã cư mệnh cung hay cư thiên di cung, cuộc sống tất hay ở ngoài, đi xa, rời xa nơi sinh ra mà đến phương xa sinh sống, thậm chí di cư sang nước ngoài. Thiên Cơ, Thái Âm, Thiên Đồng, Thiên Lương hội, là cách “Cơ Nguyệt Đồng Lương”, không hợp tự mình làm chủ, thường phục vụ trong cơ cấu nhà nước, theo đuổi việc thiết kế, kế hoạch hay những công việc xử lý; thường đi công tác bên ngoài.
Tử Vi Thiên Phủ giáp mệnh, hội cát tinh tính tình lạc quan, hài hước, cuộc sống vui vẻ, có thể trở thành quý cách.
Người sinh năm Giáp Bính Kỷ Quý, tài quan song mỹ. Người sinh năm Bính có cát diệu hội, chủ đại quý. Tứ sát đồng cung, nam thì làm nô bộc, nữ thì thành thân người ca xướng. Xương Khúc đồng cung, nam nữ tình cảm đều phức tạp, chủ thông cơ cơ xảo, nếu lại không gặp cát tinh, nam dễ là người phục tùng kẻ dưới, thường làm nhân viên, nữ mệnh thì thường làm những công việc có tính chất phục vụ, dễ hồng hạnh vượt rào, thậm chí trở thành ca kĩ.
Thiên Cơ Thái Âm cư dần thân, nữ mệnh xinh đẹp đa tình, tuy phú quý nhưng khó tránh dâm dật, phúc không đẹp hoàn toàn, thích hợp làm các việc làm đẹp, hộ lý, tiếp thị mỹ phẩm, hướng dẫn viên du lịch… Tứ sát xung phá, chủ dâm tiện, hoặc là người tình, ca kĩ, chủ hình khắc, xem thêm cung phu thê, cung phúc đức để gia giảm.
Thiên Cơ cư mão dậu, Cự Môn đồng cung
Thân hình trung bình, tư tưởng mẫn duệ, giỏi phân tích, ăn nói lưu loát, tài hoa khác lạ. Nam nữ đều không được hưởng tổ nghiệp, tay trắng lập nghiệp, xây dựng hưng vượng lại tổ nghiệp đã sa sút. Hội Kình Đà, nam nữ dâm dật, hay gây thị phị, tam hợp sát tinh tất gặp hỏa ách.
Nữ mệnh Cự Môn Thiên Cơ đồng cung, là cách cục phá đãng, tuy phú quý nhưng khó tránh dâm dật, Tứ sát xung hợp, dâm tiện hình khắc, hội Xương Khúc, Thủy tính dương hoa, hôn nhân đa phần không tốt.
“Cự Cơ đồng cung, công khanh chi vị”, là cách lấy Thiên Cơ Cự Môn cư cung Mão, phải người sinh năm Ất Tân Bính có cát tinh mới được tính, là thượng cách với người sinh năm Ất Tân. Người sinh năm Ất có Lộc Tồn cư Mão, Thiên Cơ hóa Lộc, Khôi Việt hội, tam hợp hội Tả Hữu Xương Khúc tất là quan lớn trong triều, quý đến cực phẩm.
Cung Dậu kém hơn cung Mão, vì “Cự Cơ Dậu thượng hóa cát giả, túng ngộ tài quan dã bất vinh”, tuy hội cát tinh phú quý cũng có hạn, người sinh năm Ất, Tân, Quý tài quan song mỹ, người sinh năm Đinh Mậu, thành bại tiến lui, tuy phú quý nhưng không dài lâu. Phụ Bật Xương Khúc hóa cát hội hợp, người sinh năm Ất Bính Đinh Tân cũng chủ tài lộc phong túc, hội Tứ sát thì không tốt.
Thiên Cơ cư thìn tuất, Thiên Lương đồng cung
Là người trí tuệ, có kĩ nghệ cao, tức có tài năng đặc biệt hay sở trưởng chuyên môn, là người “Công hàm mặc, thiện đàm binh, tất hữu cao nghệ tùy thân”. Dễ thành danh trong giới y học, pháp luật hoặc học thuật nào đó. Là người hiếu khách, đối xử với mọi người ôn hòa từ bi, nhiệt tình.
Hay tính toán, suy nghĩ rất nhanh, thích biện luận, giỏi ăn nói, ngôn ngữ không thô tục, chủ đề bàn luận phong phú, thích phát biểu ý kiến về chính trị, bàn luận về việc đại sựtrong thiên hạ, có lúc đắm chìm trong cái hào hoa mà không thực tế. Nếu như hội Tả HữuXương Khúc, theo văn thì là người thanh bạch quý hiển, theo võ thì là bậc trung lương, phú quý, đối đãi với người từ bi. Nếu đồng cung hay hội Kình Dương, khi trẻ hình khắc với lục thân, về già cô độc, cốt nhục vô tình, hoặc phân ly. Hội Kình Đà và không vong thủ chiếu, lục thân duyên bạc, thích hợp xuất gia, hoặc làm việc nghiên cứu học thuật như triết học, tôn giáo, chiêm bậc…
Hội Hỏa Linh, gian trá, là người tính tình cuồng ngạo, hội Tứ sát thì tâm thuật bất chính, hội thêm cát tinh thì là vương, nếu không có cát diệu thì là cướp. Người sinh năm Ất gian trá, lại hình khắc. Người sinh năm Mậu Thiên Cơ hóa Kỵ, hội Kình Đà, đặc biệt nhiều phiền não, tâm thần bất an, mơ hồ, cả đời không thuận. Người sinh năm Nhâm đa hư thiểu thực.
Nữ mệnh thường hay tính toán, đối xử với người khác quá khách khí, có lúc nhiều lời và xử sự không cương quyết.
Thiên Cơ cư tỵ hợi
Độc thủ, ở Tỵ đẹp hơn ở Hợi, vì đối cung Thái Âm nhập miếu.
Trí tưởng tượng phong phú, chỉ số thông minh cao, đặc biệt thông minh, có thiên phú trong kinh doanh kiếm tiền. Nếu không gặp cát tinh mà hội sát tinh thì là người giảo hoạt, rất biết tính toán, thích uống rượu, sớm rời xa nhà, cuộc sống bôn ba.
Người sinh năm Bính Mậu Nhâm hợp cách, nhưng phúc không được dài lâu. Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt hội chiếu, người sinh năm Ất, Bính Đinh cũng chủ phú quý.
Đà La Hỏa Tinh đồng cung, hình ngục. Hội Dương Hỏa Kỵ, hạ cách nghèo khổ, chỉ thích hợp làm buôn bán nhỏ hay dựa vào xảo kĩ mưu sinh, cả đời không thể phát đạt được.
(Dẫn theo trang huyenhocvadoisong.com)