Chương 2: Cơ Cấu Tổ Chức Của Tử Vi Đẩu Số Mệnh Lý Học
Mỗi khu vực, mỗi dân tộc khác nhau sẽ sinh ra những phong tục văn hóa xã hội khác nhau, cho dù cùng một dân tộc mà không cùng thời gian thì cũng tạo ra những luân lý quy phạm xã hội và pháp luật khác nhau. Do đó, phàm là học giả chuyên nghiên cứu về xã hội, tâm lí học, nhất định sẽ vì sự khác nhau về địa lý, thời gian mà có góc độ nghiên cứu khác nhau. Thế nhưng, bản thân học thuật thì không thay đổi về căn bản cơ cấu tổ chức, những việc chỉnh sửa chỉ là ở cành lá mà thôi, sau chỉnh sửa đem học thuật nghiên cứu kết hợp với đặc tính khu vực, khiến cho kết quả nghiên cứu tiếp cận với hiện tượng thực tế. Cho nên khảo xét khoa học nhân văn tâm lí hành vi con người như các môn Xã Hội học, Tâm Lí học, Kinh tế học thì phải tùy Thời Gian và Không Gian khác nhau mà điều chỉnh để phù hợp với thực tiễn. Tiến tới dẫn cho xã hội phát triển đúng hướng. Nếu như không biết cơ cấu tổ chức học thuật, thì không có cách nào đem nó hòa hợp với tình huống thực tế, thành ra những thứ học được cũng là cái kiến thức chết, không có cách nào vận dụng biến thông.
Tương tự cái lý ấy để xem Đẩu Số Phi Tinh, cái chỗ khảo xét của nó chính là gồm có đủ những suy xét bóc tách riêng rẽ từng loại quy phạm hành vi trong cái năng lực hành vi tự chủ của loài người, trong quá trình sống sinh ra quỹ đạo vận mệnh cũng như là khuynh hướng của các trạng thái thăng trầm. Loại quy tắc hành vi này đi theo sự thay đổi của Không Gian và Thời Gian mà biến hóa. Cho nên nếu như đứng ngoài những điều kiện thay đổi không ngừng với những trạng thái biến động của hành vi độc lập tự chủ cá nhân, thì thử tính từ những tình huống chẳng đầu chẳng đuôi để mà luận đoán được vận mệnh cá nhân xem có được không?
Thật sự thì đây là một công trình vừa phức tạp vừa khó khăn, suy đoán mạng người, ngoại trừ việc thừa nhận sự thay đổi Không Gian và Thời Gian thì còn phải sửa đổi quy tắc đoán mệnh, còn chú trọng kết hợp với việc hỏi người xem về hoàn cảnh Thời Gian, Không Gian kết hợp với vấn đề Lý khí Tượng số để giải thích sự thay đổi vận mệnh. Bài toán suy luận kiểu này kết hợp với phân tích tâm lí lại càng phức tạp hơn, đương nhiên nó cũng tăng thêm năng lực hiểu biết cho người nghiên cứu, nó có thể tích lũy theo tuổi tác và kết hợp với những sinh hoạt hằng ngày. Nghiên cứu ngày qua ngày, tháng qua tháng, luôn luôn chứng minh ứng nghiệm với nguyên lý của nó, cho nên được mọi người hoan nghênh.
Nay lấy việc đánh cờ làm ví dụ, nếu người ta đang chơi mà bạn ghé vào xem giữa chừng, thì có thể phán được chuẩn xác nước cờ trước đó người ta đã đi quân nào? Nước cờ tiếp theo thì nên đi bước nào? Tin rằng có rất ít người có đủ bản lĩnh ấy, có giỏi đến như bậc thầy uyên bác kỳ nghệ cũng chỉ có thể căn cứ vào thế cục 2 bên để dự đoán cái nước cờ trước đó đi vào chỗ nào mới có thể tạo thành cái cục diện căng thẳng như thế, và nước cờ tiếp theo thì cần đi vào chỗ nào mới có thể chiếm được ưu thế. Trên bàn cờ có các tuyến dọc ngang, quân cờ đôi bên ta và địch, những cái này chính là các yếu tố của quá trình tham gia đánh cờ, cũng chính là các yếu tố tác động quan lại lẫn nhau, và lấy trí tuệ của người đánh cờ quyết định thắng bại của ván cờ chứ không phải do quân cờ hoặc bàn cờ.
Chúng ta thường dùng câu “Thế sự nhất cục kì” (chú: chuyện đời như một ván cờ) để hình dung số phận con người, đi sâu tường tận mà tự hỏi “chẳng phải nó đúng như vậy hay sao”! Chỉ có điều, cái bàn cờ thì biến thành không gian sinh hoạt của chúng ta, những quân cờ thì biến thành bản thân ta và các điều kiện bên ngoài, các quy tắc nước đi của quân cờ ở trên bàn cờ lúc đó biến hành các khuôn phép, luân lý, phong tục tập quán,… người chơi cái cuộc cờ đời biến thành riêng ta mà thôi. Người đánh cờ nhất định sẽ chọn góc độ có lợi nhất, đưa quân cờ đến vị trí đó chiếm lấy vị trí ưu thế, có đôi khi sẽ vì bảo vệ tướng soái mà hi sinh vài quân cờ, nhìn lại trong kinh ngiệm đời người thì chẳng phải là cũng thường xuyên có những nhận định hoặc lựa chọn giống như thế ư!
Thưởng thức một bài thơ cũng có 2 loại trình độ, những người thuộc loại thứ nhất thì thưởng thức về vẻ đẹp của câu từ lời lẽ, cái cảm nhận của người đó chỉ sự hoa mỹ về câu từ lời lẽ mà thôi. Những người thuộc loại thứ hai sẽ thâm nhập vào phỏng đoán đến tình huống và trạng thái tâm lí của nhà thơ sáng tác ra bài thơ này để thấm nhuần cảm xúc nghệ thuật trong đó; Hòa vào cõi lòng của nhà thơ, gắn liền ngôn từ với cảm xúc nghệ thuật, khiến cho cộng hưởng tinh thần, loại trình độ này là vừa cao mà lại vừa sâu. Cho nên chúng ta nghiên cứu học vấn, muốn lĩnh hội những tinh túy của nó thì không được chỉ lí giải về ý nghĩa câu từ, mà phải đi sâu vào tham khảo cả các yếu tố như quá trình tâm tư của người sáng lập phương pháp, quan điểm suy xét, cách truyền đạt thông tin, bối cảnh văn hóa thời đại,… giúp cho việc suy luận hoàn chỉnh mới có thể hiểu rõ được cơ cấu tổ chức của nó. Như vậy mới có thể biết được năng lực cốt lõi của nó căn cứ vào diễn biến ảnh hưởng của yếu tố Không Gian và Thời Gian mà tỉa tót những thứ bên ngoài, đem đến cho học thuật thời đại một sức sống mới.
Tử Vi Đẩu Số Phi Tinh được truyền từ hơn ngàn năm trước đến nay vẫn duy trì độ chính xác rất cao, có thể thấy sự hiệu quả của [Nguyên nhân – Ứng nghiệm] điều chỉnh theo Thời Gian và Không Gian, tùy thời tùy địa điểm mà tiến hành. Ngày nay thông tin liên lạc phát triển, khoa học kỹ thuật tiến bộ, văn hóa rất dễ dàng thông qua các loại truyền thông để thâm nhập một cách mạnh mẽ, luân lí văn hóa truyền thống, kết cấu xã hội, đối mặt với sự xung kích mãnh liệt của cơn lốc tiền bạc, xu thế sắp băng hoại là càng ngày càng gấp gáp. Nếu như chỉnh sửa mệnh lý theo cái nhịp bước chậm rãi của xã hội nông nghiệp thì sẽ không có cách nào theo kịp được tốc độ thay đổi hình thái xã hội mỗi ngày cả chục biến động. Đến lúc đó, sẽ có rất nhiều quy tắc mệnh lý bị nghiền nát bởi cái bánh xe khổng lồ của Thời Gian. Người nghiên cứu mệnh lý phải nghĩ cách khắc phục tốc độ diễn tiến mệnh lý với vấn đề “Thời Sai” của sự biến đổi chóng mặt trong xã hội thực tế, mới có thể không bị tạo ra sự chênh lệch.
Đạo hay Học thuật đã trải qua hơn ngàn năm lưu truyền, trong đó từng được không ít học giả chỉnh sửa, chú thích thêm, dần dần mất đi diện mạo ban đầu. Tử Vi Đẩu Số cũng bị như vậy, đến nỗi có sự phân chia thành nhiều trường phái, như kiểu Phật giáo chia làm phái Đại Thừa và Tiểu Thừa, truyền vào Trung Quốc sau lại chia thành Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, Hoa Nghiêm Tông,… Tử Vi Đẩu Số lưu truyền đến nay chia thành các phái Phi Tinh, Chiêm Nghiệm, Tam Hợp,… tạo ra cảnh mỗi môn phái có lí luận khác nhau, khiến cho học giả đời sau không biết lối nào mà lần. Nhất đại tông sư Tử Vi Đẩu Số Trần Hi Di thì nay cốt tiên sớm đã về với cát bụi, nên chẳng thể đứng trước mặt quý vị để mà chỉ điểm về Tử Vi Đẩu Số lúc ban sơ. Chỉ có điều, chúng ta vẫn có thể dựa vào phương thức phỏng đoán, để tham khảo cái tư tưởng môn này khi mà Trần Hi Di tổ sư sáng tác, theo đó mà khám phá diện mạo thực của Đẩu Số.
Chúng ta suy nghĩ kĩ một chút, trong quá trình nhân sinh, có những nhân tố nào cấu thành nên số phận con người:
Một, đời người là một chuỗi liên tiếp về Thời gian, Không gian (hoàn cảnh), quá trình liên tục của các sự kiện, mỗi ngày mỗi phút ở nơi nào? Thời điểm nào? Chuyện gì xảy ra? Liên kết được tạo nên, liền tạo thành mệnh vận của con người, ví dụ như: Bạn vào lúc này (Thời gian), ở trong thư phòng (Không gian), xem quyển sách này (Sự kiện).
Hai, con người không có cách nào để khống chế Thời gian, nhưng Không gian có thể hoán chuyển dựa vào ý chí mỗi người từng nơi từng lúc.
Ba, sự hình thành của sự kiện sẽ tùy vào sự biến hóa của Thời gian, Không gian mà thay đổi, ví dụ như thời xưa nhiễm bệnh sốt rét thì coi như là bệnh nan y còn ngày nay thì có thể trị khỏi, thế nhưng sự kiện tai nạn máy bay thì ngày xưa không có khả năng xảy ra, cho nên xét về mệnh lí, sự kiện tai nạn máy bay này là không có cách nào thể hiện một cách rõ ràng.
Bốn, sự kiện được chia thành mức độ nặng và nhẹ, như kiếm tiền có khi kiếm được ít tiền, có khi kiếm được nhiều tiền, sự cố cũng có mạnh yếu nặng nhẹ khác nhau.
Năm, việc hình thành sự kiện có 2 loại phương thức: loại thứ nhất là được hình thành từ từ như 10 năm vất vả đèn sách mới có thể một sớm thành danh, còn phương thức thứ hai là xảy ra bất ngờ như bị ngộ sát hoặc là trúng thưởng.
Sáu, mỗi người đều có suy nghĩ độc lập, tự chủ năng lực hành vi.
Bảy, mỗi người đều từ một quy tắc hay luân lí xã hội nào đó mà tự do thực hiện quá trình nhân sinh của mình.
Tám, các nhân tố ngoại lệ như: động đất, bão, hồng thủy, gió rét, hạn hán sẽ ảnh hưởng đến mệnh vận của cả một quần thể nhiều người.
Chín, mệnh vận con người bị nhân tố bên ngoài ảnh hưởng, như: Kinh tế đình trệ, tỉ lệ thất nghiệp cao khiến cho sinh hoạt của cá nhân bị ảnh hưởng hoặc phải chi tiêu tiết kiệm, sự ảnh hưởng từ tần số sóng của người thuộc thế giới khác.
Những tiền đề ở trên, đó là “Tiêu chuẩn cơ bản” mà ta phải căn cứ theo để phát triển thành một bộ kỹ thuật dự đoán chuẩn xác vận trình tương lai mỗi người trong những điều kiện “Vô nhân vô quả”.
Những “Tiêu chuẩn cơ bản” ấy tổng hợp đông tây phương hiện nay có các phương pháp dự đoán, có thể chia làm:
Một, căn cứ vào những đặc điểm cá nhân như Tướng mặt, Tướng tay, Tướng nốt ruồi, Tướng xương, Nhóm máu,… lại kết hợp với đặc trưng của hành vi như Tư thế bước đi, Cử chỉ điệu bộ để suy đoán tính cách của người đó cùng Lưu niên vận đồ, các loại như Ma Y Tướng Pháp, Băng Tâm Phú đều của kinh nghiệm nhân tướng học của cổ nhân truyền lại.
Hai, thông qua pháp thuật hoặc môi trường tâm linh để xem tương lai, như các phép thuật lên đồng cầu cơ, phần lớn dựa vào nghi thức trong tôn giáo thông qua một tần suất thanh điệu nào đó trong tụng niệm kinh kệ của tập thể. Khiến cho não của một người sản sinh ra một tần suất sóng để đi vào trạng thái thôi miên tiềm thức, ở trạng thái này sẽ đưa ra lời tiên đoán, các phù thủy người Ấn Độ thì lại dùng một loại nấm độc làm mê loạn thần kinh, trong lúc bị xáo trộn mối quan hệ Không – Thời gian sẽ đưa ra lời đoán sự việc tương lai.
Ba, sử dụng năm tháng ngày giờ sinh, tức lấy bát tự làm yếu tố cơ bản như: Tử Vi Đẩu Số, Tứ Trụ toán mệnh, Chiêm Tinh thuật phương tây sắp xếp các tiêu chí cơ bản và dùng các số liệu Kinh độ Vĩ độ tại nơi sinh. Cũng có nhiều cách toán mệnh khác nhưng những loại kể trên là những môn dự đoán tương lai có tính chính xác cao và được ưa chuộng nhất.
Bốn, dùng môn siêu tâm linh thấu thị, như quả cầu thủy tinh, thuật thôi miên, trong đó có các nước như Ấn Độ, Nga là nổi danh về những nghiên cứu này nhất, họ đã có những thành quả nghiên cứu vượt bậc trên toàn cầu. Nghe nói Cục huấn luyện an ninh quốc gia Liên Xô có một nhóm người làm về tâm linh có thể xuyên qua Thời gian và Không gian để điều khiển ý chí một người.
Trong các phương pháp dự đoán đó, đặc biệt là cái thứ 3 là có mức độ sắp xếp chặt chẽ và có quy tắc diễn dịch rõ ràng, chỉ cần được đào tạo tương xứng thì người nào cũng có thể sử dụng, cho nên có khả năng trở thành thuật dự đoán tương lai thực dụng mà chuẩn xác.
Vào thời Tống ở Trung Quốc hơn 1000 năm trước, điều kiện về vật chất và công cụ có nhiều thiếu sót, vậy mà sáng tạo ra bộ lịch khảo nghiệm mà trải qua thời gian và không gian vẫn có thể duy trì sự chuẩn xác cao độ như Tử Vi Đẩu Số Phi Tinh thì thực sự không phải là điều đơn giản, chúng chắp tay bái phục sức sáng tạo của cổ nhân còn chưa đủ chứ hà cớ gì mà lại ruồng bỏ nó. Thánh nhân khi tạo ra thuật này đã sớm thấy rõ được tính tất yếu của 9 vấn đề trên, cho nên cuốn Tử Vi Đẩu Số Khai Tông Minh Nghĩa có nói:
Đẩu Số dựa vào Thời Gian mà lập Mệnh, đo Địa Chi để lan tỏa trong 12 cung mà lập Cực, ứng Thời gian của các sao. Đẩu Số chú trọng vào việc tạo thành tượng, lấy Thiên Can để dẫn Tứ Hóa phi cung hóa diệu, gieo tượng sắp đặt trong Không Gian.
Ấy là đã chỉ rõ rằng, nòng cốt của Tử Vi Đẩu Số là cấu thành bởi 3 yếu tố “Thời gian, Không gian, Sự kiện”, trong những câu đó đã chỉ ra rất rõ ràng rằng:
Địa Chi – Thời gian
Thiên Can – Không gian
Các tinh đẩu – Gieo tượng (sự kiện)
Mối quan hệ đó, lúc quý vị đọc sách Đẩu Số nhất định sẽ thấy rằng “Tứ Hóa chính là Dụng Thần của Đẩu Số”, câu này có ý nghĩa gì? Và vì sao chỗ trống trên mệnh bàn lại ghi “Địa Chi” như vậy? Cái vấn đề này tôi thường đem ra hỏi những người mới học Đẩu Số, để xem người đó có có khả năng hiểu thấu được ý nghĩa bên trong hay không, nếu thiếu đi cái thái độ nghi vấn mọi việc mọi lúc thì không có cách nào đi sâu vào để hiểu rõ Đẩu Số học.
Bởi vì Địa Chi đại biểu cho Thời gian, mà Thời gian đối với mỗi người là đều có sự công bằng như nhau, dù là Tổng Thống cao quý thì một ngày đêm cũng có 24 tiếng hay là kẻ thường dân cũng có 24 tiếng. Thời gian không phải vì cái sự giàu nghèo quý tiện mà dài ngắn khác nhau, Thời gian luôn tiến với tốc độ ổn định không đổi, bất kể là ai và dùng cách nào cũng không thể khiến thời gian dừng lại hoặc quay ngược lại. Vì thế ở trong Mệnh lý thì Thời gian chính là một đại lượng biến thiên mà không thể dùng sức người để khống chế được, cho nên những chỗ trống trên lá số mới đem Thời gian (Địa Chi) mà ghi lên như vậy.
Nói đến từ “Dụng Thần”, tôi từng hỏi nhiều chuyên gia về Đẩu Số và Tử Bình và thường nghe được giải thích là: các sao Tứ Hóa chính là đầu mối then chốt của biến hóa trong Đẩu Số, cát hung họa phúc của vận mệnh đều nhân cái tác động của chúng để hiển hiện lên trên mệnh bàn, giống như các thần chốn u minh quản lí mệnh vận mỗi con người, cho nên mới viết là “Dụng thần”. Có đúng là như vậy không? Sẽ có nhiều tranh cãi để có được câu trả lời rõ ràng.
Chúng ta đều học qua Toán học ở trường, hẳn là phải biết về tọa độ là cái gì, chúng ta sẽ dùng quan niệm tọa độ để nghiên cứu xem “Dụng thần” là cái gì?
Chúng ta dùng 3 chiều tọa độ Thời gian, Không gian, Sự kiện để biểu thị vận thế của người nào đó (Hình 1), trong hình vẽ ta thấy điểm A biểu thị vào năm 25 tuổi của người ấy (Thời gian) ở tại Đài Trung (Không gian) phát sinh ra tai nạn xe cộ (Sự kiện). Còn điểm B biểu thị vận của người đó năm 31 tuổi ở Đài Bắc để kiếm được món tiền lớn. Giả sử, người đó không ở Đài Trung thì có xảy ra tai nạn không? Nếu không ở Đài Bắc thì có kiếm được món tiền lớn hay không? Nói cách khác điều kiện Không gian mà không phối hợp, điểm A và điểm B có thể tồn tại không? Hiển nhiên sẽ không tồn tại, nếu Thời gian không phù hợp thì không xuất hiện tai nạn xe, cũng có thể là không kiếm được nhiều tiền, bởi vì cần có sự phối hợp Thời gian và Không gian thì mới có thể sinh ra Sự kiện.
Giả sử ta lấy các điểm của một cá nhân trong tất cả các khoảng Thời gian ở mỗi hoàn cảnh Không gian khác nhau, trải qua mỗi việc ta nhập tọa độ nào vào đó, có thể tạo được một đồ thị, thì đó chính là đồ thị số mạng của người đó. Cho nên tôi vẫn có thể nói chắc chắn rằng số phận được cấu thành do 3 yếu tố là Thời gian, Không gian, Sự kiện.
Tất cả chúng ta đều sống trong dòng Thời gian, những chuyện quá khứ là những thứ là không sờ tới được nhưng có thể cảm thụ được dựa vào kí ức để tái hiện chuyện cũ. Sự kiện tương lai cũng không thấy được, không sờ được mà dựa vào tưởng tượng tồn tại trong đầu, theo trí tưởng tượng, cho nên tương lai có rất nhiều khả năng xảy ra chuyện đó, cũng có thể nó sẽ xảy ra ở bạn hoặc người khác (hình vẽ). Chỉ có những sự kiện hiện tại là chúng ta có thể thấy, chạm được, đồng thời phát sinh trên một người nào đó.
Thời gian từ quá khứ đến hiện tại thì số phận con người thể hiện qua một đồ thị. Nhưng từ hiện tại đến số phận tương lai thì đồ thị không chỉ có một khả năng mà còn có nhiều hướng đi với nhiều điểm khác nhau. Mỗi đường đi đều có thể là vận mệnh tương lai. Muốn đi vào một đường nào đó chúng ta phải suy xét đến các yếu tố tình hình thế giới, tình hình chính trị, phát triển khoa học, luân lí xã hội, pháp luật, bạn bè thân thích, điều kiện bản thân, sau đó mới đưa ra phán đoán và quyết định đi trên một đường nào đó. Những yếu tố này sẽ không có cách nào để mà điền vào mệnh bàn Đẩu Số, nhưng trong lòng người đoán mệnh Đẩu Số sẽ có sự suy xét. Trong mệnh bàn chỉ có thể cho thấy những yếu tố như “Thời gian, Không gian, Sự kiện” mà thôi, các điều kiện bên ngoài giúp diễn giải quy tắc của mệnh bàn Đẩu Số, phối hợp cả đoi đàng trong ngoài để mà xem mệnh vận con người. Cho nên cơ cấu tổ chức của Tử Vi Đẩu Số đã nói trên đây có thể nói rằng rất hợp với tính khoa học.
Thế nhưng trong cuộc sống ta thường tiếp xúc với cái “Không gian” nào? Trải qua suy nghĩ sâu xa thì Không gian được chia thành 12 cung như Cung Mệnh, Tài Bạch, Thiên Di, Phúc Đức, Phu Thê, Điền Trạch, Tử Tức, Phụ Mẫu, Quan Lộc, Nô Bộc, Tật Ách, Huynh Đệ. Dùng chữ “Cung” là thay cho cách gọi “Không gian”, cho nên mới gọi là 12 cung nhân sự. Sau khi xác định ra 12 cung thì phải sắp xếp thứ tự của chúng như thế nào? Cũng phải vắt óc suy nghĩ, trải qua phép tắc của Hà đồ Lạc thư: Nhất Lục cộng tông, Nhị Thất đồng đạo,… (1 & 6 là cùng dòng dõi, 2 & 7 là chung đường lối,…) mà xác định theo thứ tự: Cung Mệnh, Huynh Đệ, Phu Thê, Tử Tức, Tài Bạch, Tật Ách, Thiên Di, Nô Bộc, Quan Lộc, Điền Trạch, Phúc Đức, Phụ Mẫu.
Tuy là thế nhưng có rất nhiều hoàn cảnh quanh ta khó có thể sử dụng 12 cung để biểu hiện, như: nơi đi làm, quản lí,… Những cái đó cũng sẽ ảnh hưởng tới số phận con người, vậy thì nó sẽ được biểu hiện như thế nào trong mệnh bàn? Sẽ phải thông qua quan niệm “Mượn cung” để diễn sinh ra cái Không gian đó, ví dụ như: cung Tật Ách chính là [cung Điền Trạch của cung Quan Lộc], đó cũng chính là cung vị của Nhà xưởng, Cửa hàng, Cơ quan doanh nghiệp, mà thông qua đó có thể quan sát được loại công việc ở chỗ làm, có người có thể đoán được là vào làm việc ở công ty nọ năm nào và đến nào thì chuyển đi, những cái đó đều căn cứ vào cung Tật Ách.
Những ai học Đẩu Số đều biết qua khái niệm “Lập Thái Cực”, căn cứ vào cái câu trong sách là “Cung cung khả lập Thái Cực” (nghĩa là: cung nào cũng có thể lập thành Thái Cực). Ý của nó là, muốn xem số phận của anh em thì lấy cung Huynh Đệ làm cung Mệnh của họ, khi đó thì cung Phu Thê sẽ biến thành [cung Huynh Đệ của cung Huynh Đệ], cung Mệnh của lá số Gốc sẽ biến thành [cung Phụ Mẫu của cung Huynh Đệ], các cung vị khác đều biến đổi thành các loại cung vị tương ứng của cung Huynh Đệ, đây chính là cái ý tứ của câu “Cung cung khả lập Thái Cực”.
Thế nhưng mọi người thường quên cái cung an Thân ở chỗ nào? Cung an Thân ứng với lúc ở độ tuổi thời đại nào? Cái yếu tố cần suy xét này cũng chính là một loại ý nghĩa của Lập Thái Cực. Nếu bỏ qua đặc tính của khu vực và trào lưu thời đại, mà chỉ theo quy tắc Mệnh lý thì không có cách nào để diễn giải được ý nghĩa của nó. Đạo gia nhân sĩ nói “Trong thái cực có thái cực” là đã đem cái ý tứ của “Lập Thái Cực” mà nói rõ ràng ra rồi, ví dụ như nói: Ở trong nước Đài Loan có thể phân chia thành các các Dân tộc miền núi, người Khách Gia (Hakka, Hẹ), người Ngoại tỉnh, người Mân (Phúc Kiến), cả 4 dân tộc sống ở đây khác nhau về tập quán sinh hoạt, huyết thống, ngôn ngữ, văn hóa, phong tục, lẽ nào quy tắc xem mệnh cũng giải thích như nhau? Lấy người Mân làm ví dụ, trẻ con khó nuôi thì có cái tập tục bán khoán hoặc phải nhận cha mẹ nuôi, nhưng người Ngoại tỉnh thì không làm như thế, thành ra nếu không chú ý điểm này thì sẽ mắc sai lầm. Như khu Đại Lục Vân Nam có vài dân tộc thiểu số duy trì chế độ mẫu hệ, vậy thì ở khu vực đó phải giải thích như thế nào về hiện tượng đào hoa? Cho nên chuyên gia Tử Vi Đẩu Số không những cần giỏi ở mệnh lý mà còn phải hiểu dân tình và phong tục ở từng khu vực, cũng theo đó mà điều chỉnh hàm ý giải thích để có thể phù hợp với thực tế.
Cái trục Không Gian trong hình 1 có thể biến đổi dựa vào nhân tố biến động ý chí cá nhân, bạn có thể đi đến bất kì nơi nào theo ý thích. Cho nên cái trục này không chỉ đơn thuần là loại Không Gian theo cách nói về mặt Vật lý mà còn có yếu tố tâm lý ẩn chứa trong đó. Nói cách khác là do ý chí cá nhân dẫn dắt, có thể tùy theo ý thay đổi cái Không Gian. Bởi vì sự biến hóa của Không Gian mà phát sinh sự kiện khác nhau, cho nên ý chí bản thân đủ tính tự chủ để khống chế sự kiện (như kết hôn) vì thế mà tỉ lệ đoán trúng không cao, do bản thân có thể khống chế. Nhưng tự bản thân thì không có cách nào khống chế được các sự kiện có tính phát sinh từ bên ngoài như bị trộm, bị đánh, bị giết,… bởi vì quyền quyết định là ở phía “nó” chứ không nằm ở bạn, cho nên tỉ lệ đoán trúng khá cao. Các dạng sự kiện phát sinh từ bên ngoài cũng cần yếu tố Không Gian phối hợp để tạo thành, nếu như có thể tránh được yếu tố Không Gian bất lợi thì có thể thoát được những sự kiện xui xẻo phát sinh từ bên ngoài. Cho nên nói cái đạo của sự cải số là ở chỗ thay đổi Không gian, ví dụ như nói: Bạn ở một nước nào đó để đầu tư, mà tính người dân ở đó lại lười biếng không có cách nào giao hàng đúng hạn nên làm cho phải bồi thường liên miên, nếu cứ tiếp tục làm nữa thì sẽ khó tránh khỏi số phận phá sản, vậy thì cải vận như thế nào? Đóng xưởng hoặc đi đến nước khác! Đây là sự thật dễ hiểu về cải biến Không Gian thì sẽ cải vận.
Dạng cải biến Không Gian về mặt Vật lý đó là thay đổi hoàn cảnh, cái cách cải vận đó đối với mọi người đều có vì nó là bản năng bẩm sinh. Ngay cả các động vật khác cũng thế, ví dụ như trời vào Thu thì chim nhạn sẽ bay về phía nam để tránh rét. Thế nhưng, Không Gian về mặt Tâm lý hay là Tâm cảnh thì không đơn giản như vậy, nó có mối quan hệ với trí tuệ Tiên Thiên và sự giáo dục Hậu Thiên của mỗi cá nhân. Sự nhận định của chúng ta trong sinh hoạt hằng ngày, khi phải quyết định thì cái căn cứ chính là dựa vào hiểu biết cá nhân, trí tuệ, cùng tài năng làm các nhân tố chi phối mang tính quyết định vận mệnh con người.
Những việc này cần năng lực suy nghĩ thấu đáo, cùng với những kiến thức liên quan, thấy được kiến thức thâm sâu của người đó, nhất định suy xét sẽ chu đáo. Đầy đủ hơn, ngoài trí tuệ Tiên Thiên thì sự giáo dưỡng Hậu Thiên cũng có thể thông qua việc đào tạo để tiếp thu thêm nhiều kiến thức mới, củng cố thêm năng lực để cải thiện tài năng và kiến thức cá nhân. Đối với những người thô bạo, thì làm nhiều việc thiện sẽ giúp làm mềm mại cái tính khí ngang ngược, thấy rõ vẻ đẹp hài hòa của cuộc sống, cải thiện quan hệ giao tiếp, tiến tới cải vận. Cho nên đạo của sửa vận nằm ở cải biến Không Gian, cải biến Không Gian để ứng với sự hợp nhất giữa Tâm và Vật, hai cái này đều xem trọng. Ví dụ như: Một thiếu niên bất lương làm việc xấu ức hiếp mọi người, muốn hối cải, trở thành người tốt, thoát khỏi xã hội đen. Thế nhưng bà con làng xóm lại đã có thành kiến sâu nặng nên không đón nhận. Trong khi anh em giang hồ vẫn còn lôi kéo dồn ép hoặc tìm đến báo thù. Ở lại quê hương thì ngoài việc khó nhận được sự bao dung của bà con làng xóm, lại còn sợ giới hắc đạo tìm đến tiêu diệt bịt đầu mối, vậy thì phải làm sao? Chỉ có đi xa quê hương, thoát li hoàn toàn với hoàn cảnh trước đây, thay đổi triệt để thì mới có thể cải biến số phận.
Tôi đã từng xem trường hợp đặc biệt giống nhau về năm tháng ngày giờ sinh, 1 người được sinh ra từ bào thai đơn, và cùng được sinh ra trong canh giờ ấy là 1 cặp sinh đôi. Đứa bé sinh 1 thì được học tài Đài Loan, người rất thông minh, có tài ăn nói, nhưng không thích đọc sách, cũng không thích bị ràng buộc, cho nên làm chủ tự kinh doanh, nhưng sự nghiệp đạt được chỉ là vụn vặt. Còn trường hợp 2 anh em song sinh thì từ nhỏ đã nỗ lực học tập, du học nước Mỹ, hiện tại là giáo sư đại học được nhiều người kính trọng. Vì sao cùng 1 cách cục mệnh mà lại có số phận không giống nhau, điểm khác nhau đó nằm ở “Không Gian” không giống nhau. Có khả năng để lựa chọn nơi đến phát triển mạnh mẽ cho cách cục số mệnh thì đương nhiên sẽ đạt được thành tựu phi phàm, cho nên Không Gian thật sự là chi phối sự biến hóa của số mệnh.
Tiên đoán là việc thông qua sự ảnh hưởng của cơ chế nào đó, xuyên qua Thời gian và Không gian để suy đoán ra cảnh tượng của tương lai. Bất kể chọn cách dự đoán nào thì “Ý Thức”, “Tâm Cảnh”, “Hoàn Cảnh” đều nắm giữ sự biến hóa của vận mệnh, mà Thiên Can chính là đại diện tổng hợp của Ý Thức, Tâm Cảnh, Hoàn Cảnh đồng thời nắm giữ sự biến hóa của chúng, vậy giải thích 3 cái này thì dựa vào đâu? Hoàn toàn dựa vào cái chủ đề suy đoán vận mạng mà phân định, hễ là cung vị Lục thân thì dùng “Tâm cảnh” để luận, về cung vị Điền Trạch hay Thiên Di thì lấy “Hoàn cảnh” để giải, còn các cung Mệnh, Tài Bạch, Quan Lộc, Phúc Đức thì lấy “Ý thức” để nói. Cho nên [Tâm cảnh, Ý thức, Hoàn cảnh] quả thực là chi phối toàn bộ sự biến hóa của đời người.
Vì sao ở trong môn Đẩu Số thì Thiên Can Tứ Hóa lại dùng “Hóa Kị” mang ý nghĩa khó khăn không thuận, trục trặc, tai nạn? Bởi vì cái “Kị” chính là ý cái toan tính của “Kỉ tâm” (chú: lòng mình, tư tưởng bản thân), chính là ám chỉ đến lòng mình tạo thành cái nguyên nhân chính của sự khó khăn không thuận lợi, tai nạn, trì trệ. Nếu như có thể thay đổi lòng mình toàn tâm toàn ý hăng hái hướng về phía trước thì có thể gặp lành tránh dữ, làm cho hoàn cảnh biến hóa thông suốt, biết được được rõ nguyên nhân của khó khăn, tìm tòi các biện pháp cải tiến cần thiết, là có thể cải thiện không gian sinh tồn để chuyển biến mệnh vận.
Rất nhiều người đều nói rằng làm việc thiện là có thể cải vận, ngoài các phương thức cưu mang người nghèo, giúp đỡ người khổ, thì ở đây giải thích về nghĩa hẹp của từ “Làm việc thiện”. Có rất nhiều nguyên nhân tạo thành trục trặc tai họa của một cá nhân, mà những nguyên nhân đó chưa chắc là qua những việc giúp người nghèo là có thể thoát được, có người vì nghèo khó mà cảm thấy không thuận lợi, có người thì do việc sinh hoạt tình dục không hòa hợp nên cảm thấy cuộc sống chẳng còn lạc thú, có người thì do con cái bất tài nên cảm thấy số phận khó khăn,… những cái khó khăn này ta đều có thể tìm được căn nguyên và cách giải quyết. Làm việc thiện là phải nhắm vào những cái căn nguyên đó để đưa họ hướng đến những mục tiêu tốt đẹp, nguyện vọng chính đáng. Các bạn cần phải phân biệt rõ ràng về cả “Ý nghĩa” và “Cách làm” của làm việc thiện.
Đúng vậy! cứu tế người nghèo là làm việc thiện, nhưng làm việc thiện không chỉ là những việc cứu tế người nghèo, có rất nhiều cách để làm việc thiện, cách “Làm việc thiện” này cũng có thể cải vận. Có rất nhiều người nói rằng mình thường làm việc thiện, cứu giúp người nghèo, quan tâm người bơ vơ, mà tại sao ông trời không cho họ thoát khỏi xui xẻo, bế tắc công việc? Nhận thức đối với dạng “Làm việc thiện” này là sai lầm, tin rằng rất nhiều người đều tồn tại sự việc khác nhau, nguyên nhân của sự việc cũng khác nhau, thì làm sao mà khi 2 người đó giúp nhau lại có thể gom làm 1 khối để rồi đi oán ông trời, không đi mà nhìn lại bản thân xem vì sao không làm điều thiện ở ngay trong công việc của mình? Đem sự nghiệp kinh doanh làm cho tốt, chủ và thợ hài hòa, vui lòng với lợi ích chung, hoàn thiện quản lí, tiền bạc rõ ràng, chi tiêu thông suốt – những cái này đều là “Làm việc thiện” không thể thiếu trong sự nghiệp kinh doanh. Chẳng chịu đi “Làm việc thiện ngay trong công việc” mà chỉ đi “làm việc thiện” kiểu cứu nghèo cứu khổ ở đẩu đâu chẳng liên quan thì đừng hỏi tại sao công ty sẽ bị phá sản.
Đến đây đã lý giải rõ về chức năng quyền hạn của Thiên Can, nhưng khi ứng dụng vào suy luận vận mệnh, công dụng của nó sẽ thế nào? Thuật đoán mệnh Tử Vi Đẩu Số đem vận mệnh chia thành các đơn vị như Bản Mệnh (cung Mệnh gốc), Đại Hạn, Lưu Niên, Lưu Nguyệt, Lưu Nhật, Lưu Thời, đó là lấy Thời Gian làm trục chính rồi đem vận mệnh chia thành những khoảng Thời Gian khác nhau:
Bản Mệnh: Nắm giữ xu thế tổng quát của cuộc đời, mệnh cách, đặc tính.
Đại Hạn: Nắm giữ xu thế vận động trong 10 năm, xu hướng đại khái của những sự kiện sẽ phát sinh trong 10 năm đó.
Lưu Niên: là vận khí trong 1 năm, những sự kiện sẽ phát sinh trong 1 năm đó, chân tướng sự kiện cát hung được mất.
Lưu Nguyệt: là vận khí trong 1 tháng.
Lưu Nhật: là vận thế trong 1 ngày.
Trong mệnh bàn thì 12 Địa Chi đại biểu cho Thời gian, mà Đại Hạn là một vận 10 năm, phối hợp với 12 Địa Chi thì sẽ dư ra 2 ô, cũng chính là thời gian năm Dần nào đó của Đại Hạn gốc cho đến năm Dần kế tiếp, sau đó chuyển biến thành Đại Hạn khác. Mặc dù Lưu Niên đều ở tại cung Dần, nhưng mà Đại Hạn khác nhau nên vận Lưu Niên cũng theo đó mà khác nhau, do đó mà sẽ không có sự tái diễn. Chúng ta sử dụng quan điểm Toán học để xét, phép Vi Phân (chia nhỏ) của Mệnh chính là Đại Hạn, rồi Đại Hạn lại chia nhỏ chính là Lưu Niên…; còn Lưu Nhật lũy tích chính là thành Lưu Nguyệt, và Lưu Nguyệt lũy tích chính là thành Lưu Niên,… đến đây thì chúng ta đã hiểu rõ được Mệnh là Tích Phân của Vận, mà Vận là Vi Phân của Mệnh, cho nên việc suy luận mệnh vận có thứ tự trước sau của từng quãng Thời gian, không được phép bỏ bớt hoặc là đảo lộn trình tự (hình 3).
Đem vận thế lấy thời gian chia tách thành những quãng thời gian khác biệt sẽ thu được những vấn đề dưới đây:
Một, sự kiện phát sinh cùng với cung vị của nó là có sự liên quan, như tiền tài bị mất chính là mối quan hệ giữa tiền của ta với bạn bè; vì đất đai mà bị giết chính là quan hệ giữa điền trạch của ta với bạn bè, những cái này là quan hệ ngang hàng thì phải làm thế nào để xâu chuỗi?
Hai, mối quan hệ chiều dọc của cùng một hiện tượng nhân sự mà ở những quãng thời gian khác nhau thì biểu hiện như thế nào? Thí dụ như mối quan hệ giữa tiền bạc của Đại Hạn gốc và tiền bạc của năm nay.
Ba, năm ngoái bạn có thiếu nợ ta 1 khoản tiền, sang năm có thể hoàn trả hay không? Trong vấn đề này, liên quan tới những quãng thời gian nhau, mối quan hệ dọc ngang của hiện tượng nhân sự khác nhau. Cần dùng phương thức nào để bắt đầu xâu chuỗi những mối quan hệ dọc ngang kiểu này? (Hình 4)
Ba vấn đề này liên quan đến mối quan hệ giữa các cung vị nhân sự với những quãng Thời gian khác nhau, dùng góc nhìn Thống kê học để xét thì liệu có phương pháp biểu đạt mối quan hệ qua lại lẫn nhau giữa chúng hay không?
Đương nhiên là tổ sư Trần Hi Di cũng đã từng đau đầu vì vấn đề này, lúc nào cũng suy nghĩ làm cách nào có thể tìm ra được một cái có khả năng kết nối Thời gian, cái kỹ thuật bản lề hỗ động của chúng nói lên mối quan hệ cung vị nhân sự. Và kĩ thuật đó được ra đời, chính là Tứ Hóa, chúng ta dùng Phi Tứ Hóa tinh thì đó chẳng phải là dùng Thiên Can của cung để phi Tứ Hóa đấy sao? Các ngôi sao Hóa này từ một Can cung nào đó mà hóa, nhập vào trong một cung khác, ở mỗi lần Phi Hóa và một lần nhập vào trong cung vị và liền tạo ra một mối quan hệ liên quan nào đó, cái mối quan hệ liên quan ấy có mức độ nông sâu mạnh yếu và cả cát hung, vẫn đều là sử dụng 4 ngôi Hóa tinh khác nhau mà bày tỏ sự mạnh yếu của mối quan hệ trong đó (hình 5).
Thế nhưng giữa “Hóa” và “Không Hóa” thì cần phải căn cứ vào nhân tố nào để quyết định?
Địa Chi là nhân tố Thời gian, mà Thời gian đối với mỗi người đều rất công bằng, với tôi năm nay là năm Đinh Mão thì với bạn cũng là năm Đinh Mão. Nếu như sử dụng Địa Chi Mão để phi Tứ Hóa thì chẳng phải ai cũng đều giống nhau sao ư? Không hợp tình lý như lúc trước đã đề cập qua. Thiên Can đại biểu các nhân tố Không gian như Ý Thức, Tâm Cảnh, Hoàn Cảnh, mà những quyết định trong sinh hoạt hằng ngày đều từ sự chi phối của Ý Thức, Tâm cảnh. Ví dụ như: Hôm nay tâm trạng buồn phiền nên đi shopping, kết quả tình cờ gặp người yêu cũ chưa kết hôn, trong lòng tấu lên một khúc tình cảm mới. Vậy nếu như hôm đó tâm trạng không buồn phiền thì liệu có phát sinh một khúc tình cảm? Sẽ không. Cho nên Tâm Cảnh và Ý Thức là điểm then chốt của sự biến hóa trong sinh hoạt cuộc sống, chúng nắm trong tay quyền quyết định bạn muốn đi đến nơi nào đó. Bởi vì sự khác biệt của Không Gian nên đương nhiên sự việc gặp được cũng sẽ khác nhau, mệnh vận cũng theo đó mà thay đổi. Mà Tứ Hóa là biểu hiện sự lộ ra hoặc ẩn náu của các hiện tượng quan hệ mạnh yếu giữa các cung vị tương quan, các hiện tượng này và Tâm Cảnh, Ý Thức có một mối quan hệ vô cùng chặt chẽ, cho nên tính chất “Hóa” hay “Không Hóa” của các sao đều nằm ở sự thúc giục theo lệnh của Thiên Can. Bởi vì Tứ Hóa chính là sự bày tỏ chi tiết của Tâm Cảnh và Ý Thức, nó như một vị thần có thể xuyên qua Không gian Thời gian khác nhau, cho nên gọi Tứ Hóa là Dụng Thần của Đẩu Số.
Tứ Hóa trong ứng dụng suy đoán vận thế giống như công năng của phép Vi Phân, thông qua lần Vi Phân thứ nhất ta có thể tìm được điểm uốn của đồ thị vận mệnh, đến lần Vi Phân thứ hai sẽ tìm được cực trị trên đồ thị đó, mà Hóa Lộc chính là giá trị cực đại, Hóa Kị là giá trị cực tiểu, các điểm cực trị đó lại chính là thời điểm phát sinh sự kiện. Chúng ta trong lúc suy luận vận Lưu Niên, chẳng phải là bắt đầu từ Mệnh bàn gốc phi Tứ Hóa, sau đó lại từ Đại Hạn bàn phi Tứ Hóa, tiếp đó căn cứ vào tình trạng tác dụng tương hỗ của sự phân bố trên mệnh cục giữa Tứ Hóa của Mệnh bàn gốc với Tứ Hóa của Đại Hạn bàn, mà phán đoán sự phát sinh cát hung mạnh yếu trong 1 năm Lưu Niên. Cho nên muốn phán đoán sẽ xuất hiện sự việc gì, cơ bản nhất là Tứ Hóa phải phi Hóa vài lần? Rõ ràng cái căn cứ của nó cùng với góc nhìn của phép Vi Phân rất giống nhau, đây là sự trùng hợp đến thế sao? Vì sao mà lại gọi là Tử Vi Đẩu “Số” chứ không phải là Tử Vi Đẩu “Thuật”, khả năng này đúng là cổ nhân sớm đã muốn lưu lại nét bút chỉ dấu đấy mà.
Có người nói Tứ Hóa là thiên bẩm, có một lần tổ sư Trần Hi Di đi vào cõi thần tiên gặp được Lã Thuần Dương dạy Tử Vi đại pháp, từ đó Tử Vi Đẩu Số có Tứ Hóa, cho nên Tứ Hóa chính là Dụng Thần của Tử Vi Đẩu Số. Bởi vì có rất nhiều sơn nhân cư sĩ cũng muốn dựa vào việc linh thông đi vào cõi thần tiên như thế, giống như Lã đạo trưởng học dăm ba chiêu thức khác. Ngoài lúc theo tiên sư học Đẩu Số, chưa bao giờ nghe chuyện đi vào cõi thần tiên mà ngộ được tinh hoa của Đẩu Số. Có thể thấy, muốn dựa vào linh thông để tìm cách phá bỏ bế tắc thì không được. Có người đem tôn giáo và mệnh lý kết hợp với nhau, theo đó mà viết sách ở đời thì sẽ vùi Tử Vi Đẩu Số vào mức độ mê tín dị đoan, loạn thần quái đản, đây chính là mặt trái ảnh hưởng tới sự phát triển của Tử Vi Đẩu Số.
Ý thức là thể trung gian của dự đoán, nó không bị hạn chế về Không gian và Thời gian, tự do suy tưởng, từ nam đến bắc, từ cổ đến kim, bóp méo mối quan hệ giữa Không gian và Thời gian. Có nhiều phương thức dự đoán thông qua cách Thôi miên, cách dùng thuốc gây ảo giác hoặc mà bóp méo ý thức, phá vỡ sự ràng buộc thông thường mà vượt qua cản trở của Không gian và Thời gian để thấy sự kiện trong tương lai giúp đưa ra lời tiên đoán. Những phương thức này không theo quy tắc bình thường, cũng không hợp lẽ thường, lại cũng không phải trạng thái bình thường. Chúng không như Tử Vi Đẩu Số của Trung Quốc sử dụng Thiên Can đại biểu cho nhân tố Ý Thức và Hoàn Cảnh, chỉ cần ai hiểu được quy tắc bay nhảy của Thiên Can Tứ Hóa thì dù là người ở trạng thái bình thường cũng có thể tiên đoán được tương lai, sự nghiên cứu của tiền nhân về mặt này quả thực là khiến cho người ta bội phục.
Có một số người chỉ đơn thuần lấy các sao tọa ở trong cung để luận mệnh, những người này đến ngay cả phương pháp luận ở ngưỡng cửa cơ bản của Tử Vi Đẩu Số cũng chưa bước vào nổi, thì sao có thể hiểu được sự huyền bí trong Đẩu Số. Tinh tú chỉ là danh hiệu mà thôi, tùy góc độ hỏi về mệnh sẽ có ý nghĩa khác nhau. Như sao Thiên Cơ khi hỏi về vận Tài Bạch với vận Điền Trạch thì ý nghĩa nó hoàn toàn không giống nhau. Chúng ta lại biết Thiên Can Tứ Hóa phụ trách về sự hiển lộ của sự kiện, các tinh tú tới lúc bị “Hóa” sẽ phát sinh năng lực cát hung, còn lúc chưa bị Hóa cũng chỉ là vật chất ở trạng thái tĩnh mà thôi. Sao còn có tính chất đặc biệt là “Tinh tính”, đến lúc bị hóa thì tính chất sao sẽ bị thay đổi, cho nên thấy được rằng đến lúc mà các sao bị hóa thì tính chất sẽ khác với lúc ban đầu rất nhiều, cái đạo lý này không thể không biết.
Ví dụ như sao Thiên Cơ vốn là trục chuyển động cơ giới như Xe hơi (khi ở Thiên Di), đệm lò xo (khi ở Điền Trạch), chân tay (khi ở Tật Ách),… những cái này được gọi là tinh tính (tính chất của sao) của nó. Giả dụ một khi xảy ra Hóa Kị thì sẽ hiển hiện ra hung tượng, biến thành: Tai nạn xe cộ (ở Thiên Di), máy móc trục trặc (khi ở Điền Trạch), chân tay bị thương (khi ở Tật Ách). Trái lại, nếu mà Hóa Lộc thì biến thành: mua xe hơi (ở Thiên Di), mua máy móc (ở Điền Trạch), chân tay phục hồi như cũ (ở Tật Ách). Cho nên tính chất của sao cần phải thông qua ảnh hưởng biến hóa từng tầng của Tứ Hóa thì mới có thể phát sinh được sự biến đổi chất mà dẫn tới phát sinh ra sự kiện.
Có rất nhiều chuyện là do tích tụ từ năm này tháng nọ mới phát sinh, cũng tương tự như vậy, Tử Vi Đẩu Số phi Tứ Hóa cũng phải qua tăng cường của từng tầng Thời Gian mới có thể khiển cho sự việc hiển lộ. Ví dụ như Đại Hạn có biểu hiện một sự việc nào đó, ở trong Lưu Niên cũng lại biểu hiện ra sự việc đó, như vậy Đại Hạn tăng thêm ảnh hưởng 2 tầng lực cho Lưu Niên và tới lúc gặp ở Lưu Nguyệt thì sẽ phát sinh sự việc. Khi thời gian đó qua, cường độ ảnh hưởng sẽ giảm dần từng tầng và tinh tính sẽ trở về trạng thái tĩnh ban đầu.
Loại ảnh hưởng này tăng qua từng tầng, giảm qua từng tầng, kết hợp với hiện tượng cuộc sống quả là không hẹn mà trùng hợp. Con người tồn tại trong 1 hoàn cảnh hoặc 1 ý thức nào đó, qua năm tháng tiếp thu thì sẽ dần dần biến đổi, mới có thể đến được kết quả nhào nặn cuối cùng. Vì sao mẹ của Mạnh Tử 3 lần chuyển chỗ ở? Chính là muốn tìm một chỗ tràn trề bầu không khí học tập, làm cho con cái tiếp thu kiến thức học tập lâu dài. Đến mức giữ được nhiều kiến thức để trở thành nhà tư tưởng lớn thời trung cổ trong lịch sử đó là Mạnh Tử. Cho nên không phải chỉ cần có cái mệnh tốt thì cứ chui rúc ở trong nhà mà không nỗ lực làm việc, hòng ngồi đợi núi vàng núi bạc từ trên trời rớt xuống. Công năng của toán mệnh là chỉ dẫn bạn đi theo một phương hướng phát triển, có thể phát huy tối đa năng lực bản thân, thành quả đạt được sẽ huy hoàng ở mức tối đa.
Sau khi nói dài dòng để giải thích vấn đề, các bạn có thể giải thích công dụng của Thiên Can Tứ Hóa ở những điểm sau:
1. Quán xuyến Thời gian, Không gian, liên kết mối quan hệ tương hỗ của sự kiện.
2. Làm cho sự kiện lộ rõ đúng thời điểm (biểu hiện thông qua Thời gian xuất hiện ra sự kiện)
3. Biểu thị mối quan hệ nhân quả để hình thành sự kiện.
Cho nên thông qua tác dụng Thiên Can Tứ Hóa, chúng ta có thể tìm được mối quan hệ giữa Thời gian, Không gian, Sự kiện để tiến tới tìm được Thời gian xuất hiện và Nguyên nhân. Khi biết được nguyên nhân thì có thể tránh được nhiều sự kiện xấu, đây là chức năng tìm lành tránh dữ của mệnh lý. Thế nhưng người bình thường thì chỉ đủ năng lực đoán 1 hay 2 chuyện, còn muốn đoán được chuyện thứ ba mà chưa hiểu rõ Đẩu Số, thì thực sự rất khó để tìm ra nguyên nhân ở 12 cung với nhiều sao đứng với nhau.
Cho nên nói Tứ Hóa có sẵn tác dụng “Quán xuyến Thời gian, Không gian, liên kết mối quan hệ tương hỗ của sự kiện”, “Làm cho sự kiện lộ rõ đúng thời điểm”, “Biểu thị quan hệ nhân quả để hình thành sự kiện” tựa như nắm trong tay điểm cốt yếu phát sinh sự kiện mà lại có thể xuyên qua Thời gian, Không gian ảnh hưởng đến toàn cục mệnh bàn. Giống như một vị thần không bị hạn chế bởi Không gian và Thời gian. Vì vậy mới gọi Tứ Hóa là Dụng Thần của Tử Vi Đẩu Số.
Môn thuật số do tổ sư Trần Hi Di tạo ra sao mà phức tạp thế, câu từ ẩn chưa nhiều suy nghĩ cẩn thận và sâu sắc của ngài, người thường không tìm ra hết được. Phản đối những người hở ra một tí là mượn danh nghĩa thần thông để vơ vét của cải, lợi dụng mê tín để làm lợi cho bản thân, ngược lại còn làm che lấp đi những nhận thức chân thực của thánh nhân lúc sáng tác ra môn học này.
Điều thứ 5 trong 9 tiền đề ở trước có câu: Sự kiện gồm có 2 loại.
– Một là sự kiện xuất hiện từ từ.
– Hai là sự kiện mang tính đột phát.
Hai dạng sự kiện này mà dùng 1 cách suy diễn thì có đúng hay không? Hoặc là có điểm gì khác nhau? Vấn đề này thì ta phải xem các câu phú “Thái Âm, Hỏa kiềm đồng vị, phản thành thập ác”, “Tham Lang cùng Đà La đồng vị là vì tửu sắc mà mang họa”, “Cơ Lương, Kình Dương hội, tảo hữu hình nhi vãn kiến cô”,… Từ những tổ hợp tính chất sao đó, là đã biết được đặc tính của chúng, cho nên các tổ hợp sao đó cũng có những sát tinh đi theo. Bởi vì tác dụng của sát tinh là tăng sức bùng phát, trong mệnh vận sẽ phát sinh sự kiện đột biến như là: Bị va chạm, giết nhầm, trúng thưởng, hoạnh tài,… Đương nhiên những chuyện đột phát này cũng cần tác dụng thôi thúc tầng tầng của Tứ Hóa thì mới có thể phát sinh được sự kiện, chỉ có điều sự phát sinh nhờ Tứ Hóa là đột nhiên xảy ra sẽ khác với quá trình phát sinh sự kiện từ từ xuất hiện.
Có vài người nói rằng Tử Vi Đẩu Số chính là Chiêm Tinh học, có mối quan hệ mật thiết với Thiên Văn học cổ đại, các tinh tú sử dụng ở trong Đẩu Số chính là tinh viên trên trời. Từ trên mệnh bàn bài bố vị trí các sao theo thời gian chủ nhân mệnh tạo được sinh ra có quan hệ đối ứng với vị trí các tinh viên trên trời, tính chất các sao lại cùng với nhà Thiên Văn học cổ tùy mức độ nhận thức mà gán tinh tính cho một sao ở tinh viên, những thuyết này trên thực tế còn cần phải tranh luận.
Tinh tú sử dụng trong Đẩu Số chỉ là các hư tinh giả lập, tên gọi của tinh tú chỉ là một danh hiệu giống như X, Y trong Đại số dùng đại diện cho một loại ẩn số. Mượn mối quan hệ tên gọi của chúng với đặc tính gán vào ghép với nhau mà thôi (trong phần “Tóm lược tính chất sao” có nói rõ), cũng không phải cứ trong ở các cung mệnh bàn có sao nào tọa thì trên trời cũng có sao tương ứng. Nếu bạn muốn thì cũng có thể đổi tên của sao Tử Vi là “Soái”, Thiên Phủ là “Tướng”, Thiên Cơ là “Lính”,… dùng góc nhìn bàn cờ để giải thích mệnh cục. Trước đây, lúc sư phụ dạy tôi thì thường xuyên dùng thuật ngữ chơi cờ để ví von với mệnh bàn, công dụng cũng như nhau, chỉ có điều mọi người đều cứ gọi các tên Tử Vi, Thiên Phủ,… là các tinh tú nên gọi nhiều thành quen mà thôi.
Trên phố có tới 90% sách lấy tên sao để luận mệnh, khiến cho nhiều độc giả cho rằng tên sao không tốt thì số phận không tốt. Hoàn toàn quên sự thực số phận là do Thời gian, Không gian, Sự kiện tạo thành. Việc hiển lộ ra cát hung của sao là do sự “Hóa” hay “Không hóa” của sao, ảnh hưởng của các Sát tinh gây ra, chứ không phải chỉ dựa vào tên sao mà suy đoán. Các tinh tú còn có ý nghĩa rộng khắp, hình ảnh của chúng là tùy vào góc độ hỏi mệnh mà có sự giải thích thành ý nghĩa khác nhau, cho nên không nên chấp vào cái tên của sao để phán xét là cát hay hung.
Căn cứ theo giải thích ở trên về cơ cấu Tử Vi Đẩu Số, tác dụng của Tứ Hóa, nguyên tắc Suy luận, tính chất sao nguyên gốc, đều có những giải nghĩa hoàn chỉnh. Tôi tin rằng các bạn đã có thể nhận thức cơ bản hoàn chỉnh về cơ cấu Tử Vi Đẩu Số. Cho nên đối với vấn đề tranh luận về các sao trong Đẩu Số là sao thực hay sao giả, hay là Đẩu Số được cải biên từ chiêm tinh thuật phương Tây thì cũng không cần quá để ý nhiều. Cơ cấu mệnh lý, quy tắc suy luận cũng không giống, miễn cưỡng phải tìm ra ai đúng ai sai hoặc môn nào do môn nào đẻ ra thì chỉ là tự mình làm phiền mình mà thôi. Những vấn đề đó nên để dành cho các nhà khảo cổ học tìm hiểu.
Số phận là do Thời gian và Không gian; Sự kiện tạo thành chủ yếu; Công dụng của Tứ Hóa; Ý nghĩa của Thiên Can Địa Chi; Các quan niệm hàm nghĩa của tinh tú sau khi hình thành. Muốn đạt tới đẳng cấp linh thông của Tổ sư Trần Hi Di mới có thể tâm ý tương thông, bằng không thì nhất định không có cửa cho sự mơ hồ kiểu dùng tôn giáo, tư tưởng thần quỷ để đoán mò cái thế giới mệnh lý trong lòng của tổ sư gia.
Muốn ước đoán quá trình suy tính của Tổ sư Trần Hi Di khi mới sáng chế ra Tử Vi Đẩu Số, đừng ngại bắt tay vào làm theo quan niệm lý số đương thời, vũ trụ quan, mới có thể hiểu rõ được Phi tinh Tử Vi Đẩu Số.
(Dẫn theo trang www.huyenhocvadoisong.com)