Chương 19: Cung Mệnh: Thiên Lương
Trong Đẩu Số, dùng cung Mệnh để luận đoán mệnh cách của người đó là cao hay thấp, nó chủ về thực chất của vận thế. Nếu cung Mệnh trong tinh bàn hiển thị cách cục cao, thì khó gặp đại hạn và lưu niên quá xấu. Trái lại, nếu cung Mệnh trong tinh bàn hiển thị cách cục thấp, thì sẽ khó gặp đại hạn và lưu niên quá tốt, bất quá chỉ thuận lợi nhất thời mà thôi. Do đó có thể thấy sự quan trọng của cung Mệnh.
Cung Mệnh đối nhau với cung Thiên Di ở tứ chính, và tương hội với cung Quan với cung Tài ở tam phương hội cung. Cũng chính là nói, chúng có thể ảnh hưởng đến thực chất của vận trình, những tao ngộ như xuất ngoại, và mối quan hệ với người ở nơi xa hay người ngoại quốc, và các yếu tố như sự nghiệp phát triển có thuận lợi toại ý hay không (quan), tài phú có được như ý hay không,.v.v…
Do đó cung Mệnh trong tinh bàn Đẩu Số là then chốt chủ yếu để luận đoán. Xem xét tổ hợp các sao của cung Mệnh, hầu như đã có thể định được đại khái vận thế của một đời người.
Còn cung Thân, theo thuyết thông thường, là dùng để luận đoán sự phát triển Hậu Thiên của người đó. Nếu cung Mệnh cát mà cung Thân cũng cát, đương nhiên cuộc đời nhiều thuận lợi toại ý. Nếu cung Mệnh cát nhưng cung Thân không cát, thì giống như khối ngọc đẹp, nhưng lúc điêu khắc đã xảy ra sai sót, do đó làm giảm đẹp. Nếu cung Mệnh không cát mà cung Thân cũng không cát, thì cũng giống như gỗ xấu không được điêu khắc, đời người đương nhiên giảm sắc, chỉ có thể khéo vận dụng đại hạn và lưu niên (nhân mệnh), lấy nỗ lực hậu thiên để bổ cứu.
Thiên Lương độc thủ tại Tý – Ngọ
Thiên Lương tại Tý, Ngọ cung độc tọa, đối cung tất phải là Thái Dương. Bản thân Thiên Lương mang theo tính chất cô khắc hình kị, cần phải dựa vào Thái Dương có quang cùng nhiệt mang tới sự hóa giải, bởi vậy người có Thiên Lương tại Tý, tốt hơn người có Thiên Lương tại Ngọ vì đời người có nhiều sự ấm áp tươi sáng hơn một chút. Điều mà mọi người gọi là cô khắc hình kị, thì chỉ với mối quan hệ với lục thân đều có khuyết hãm, như cùng với phụ mẫu có sự vô duyên, nặng thì sớm bị mất sự hỗ trợ giúp đỡ; Huynh đệ ít, hoặc không có sự trợ giúp nhau, nặng thì nhìn nhau như kẻ thù; chuyện tình cảm có ba chiết thăng trầm trắc trở, nặng thì cùng với vợ con sinh li tử biệt; tử nữ duyên phận không được tốt đẹp, hoặc những người nữ chịu liên lụy dính líu. Thậm chí tại phương diện quan hệ giao tế, cũng dể rơi vào tình trạng không thỏa mái không hòa hợp với mọi người, thậm chí bị mọi người chỉ trích.
Thiên Lương cũng không mừng kiến Hóa Lộc, hoặc kiến Lộc Tồn, cho nên không thích nghi kinh thương buôn bán. Thích nghi với Thái Dương, Thiên Lương, Lộc Tồn, Văn Xương hội hợp với tình huống sau đây, được thành cách cục “Dương Lương Xương Lộc”, lợi với điển thí, thích nghi dấn thân theo sự nghiệp công giáo, ti pháp, kế toán, hành chính sự nghiệp. Mừng được Tả Phụ Hữu Bật, Văn Xương Văn Khúc đồng hội, có thể làm gia tăng địa vị cho bản thân mình; nếu kiến Sát diệu, thì gặp nhiều dèm pha nghi kị. Kiến Hóa Lộc đồng độ hoặc hội chiếu, thì tất là nguyên nhân vì tiền tài mà rước lấy phiền nhiễu. May mắn mà Thiên Lương có tính chất tiêu tai giải nan, cho nên cuối cùng có thể vũ quá thiên tình.
Thiên Lương tại Tý, Ngọ cung an Mệnh, phải tránh bộc lộ tài năng, tự cao tự đại nhìn đời bằng nữa con mắt, tùy ý phê bình chỉ trích mọi người, nếu tổ hợp tinh hệ ngộ Sát diệu hoặc kiến Lộc, thì tất nhiều oán hận mà bị báo thù, tình huống tốt hơn cũng chủ là người ít duyên. Duy nếu có cát tinh tường diệu hội tập Mệnh cung, như với Văn Xương hoặc Văn Khúc, cùng với Thiên Tài đồng độ, kiến thêm Tả Phụ Hữu Bật, Thiên Khôi Thiên Việt, Tam Thai Bát Tọa, Ân Quang Thiên Quý, Thiên Phúc Thiên Quan các cát tinh tường diệu tại Tam phương Tứ chính, thì chủ làm quan thì thanh liêm, kinh thương thì thành thật, mà lại được mọi người trọng vọng, với phê bình chỉ trách thì mới không dẫn đến oán hận báo thù.
Thiên Lương độc thủ tại Sửu – Mùi
Thiên Lương tại Sửu, Mùi cung độc tọa, đối cung phải là Thiên Cơ, mà lại cùng với Thái Âm Thái Dương hội hợp. Chủng loại kết cấu tinh hệ này, thích nghi “Nhật Nguyệt tịnh minh”, mà không thích nghi “Nhật Nguyệt vô quang”. Tại Sửu cung an Mệnh, hội Tị cung có Thái Dương cùng Dậu cung có Thái Âm, Nhật Nguyệt đều tại Vượng cung, thì chính là “Nhật Nguyệt tịnh minh”, nếu kiến thêm Thái Âm Thái Dương Hóa Lộc Hóa Quyền Hóa Khoa các sao, chủ là người có địa vị xã hội cao siêu. Nhưng cũng không thích nghi kiến Sát Kị đồng độ hoặc đối chiếu, chủ thường không có chuyện gì mà lại sinh sự, dẫn đến nhiều oán hận bị hại ngầm.
Tại Mùi cung an Mệnh, sở hội Hợi cung có Thái Dương, cùng với Mão cung có Thái Âm đều lạc vào hãm vị, thì chính là “Nhật Nguyệt vô quang”, tuy kiến Lộc Quyền Khoa hội, cùng cát diệu tường diệu, địa vị cũng không bằng người có Sửu cung an Mệnh. Kiến thêm Sát Kị ác diệu, cũng không có thể tự cường xuất đầu, hoặc phê bình chỉ trích sai lầm của người khác quá mức, nếu không thì khó tránh khỏi thị phi nguy hại, cần phải tốn nhiều tâm lực mới có thể hóa giải. Cho nên người có Mệnh an tại Sửu cung, nếu ngộ Xương Khúc, Khôi Việt, Phụ Bật, có thể dấn thân theo sự nghiệp ti pháp, thẩm hạch, công việc giam sát, nếu tại Mùi cung an Mệnh, thì với văn giáo hoặc công việc xã hội làm thích nghi. Nếu Thiên Lương và Kình Dương, Thiên Hình đồng triều, thì có thể trở thành ngoại khoa, phụ khoa hoặc nhân khoa y sư.
Thiên Lương và Thiên Đồng đồng cung tại Dần Thân
Cũng là “Cơ Nguyệt Đồng Lương” cách cục. Nhưng mặc dù “Cơ Nguyệt Đồng Lương tác lại nhân”, “Lại nhân” có tính chất lại ứng với chức vụ “Tuần lại” mà không phải là ác lại. Do vì nhị diệu đồng cung, chủ là người phẩm đức cao thượng, nội viên ngoại phương (trong tròn ngoài vuông), tâm tính ôn hòa thiện lương, cho dù Ác diệu Sát diệu tương gia, cũng bất quá trọn đời đa tao ngộ cần phải hóa giải khốn nan mà thôi, tịnh bất chủ phẩm cách đời người biến đổi hư hoại. Hỉ ngộ Phụ, Tá cát diệu, nhưng lại bất hỉ Lộc Tồn, Hóa Lộc cùng Thiên Mã. Người vô Lộc Mã có thể tòng sự văn hóa, truyền bá, quảng cáo sự nghiệp, cũng thích nghi công tác phục vụ xã hội; người có Lộc Mã thì có thể tòng sự ngu nhạc (vui chơi giải trí) sự nghiệp, duy dể cùng với dị tính phát sinh khắc cốt minh tâm, nhưng lại bất năng kết hợp với luyến tình. Thiên Đồng Hóa Lộc hoặc Thiên Lương Hóa Lộc, dể tăng gia về cảm tình với vô vị khốn nhiễu.
Nữ mệnh đặc biệt bất lợi, hội cả đời tích thành khổ luyến, nhưng mà lại chủ sự nghiệp tiến triển, kinh qua nhất phiên ma luyện, tức có đột phát biểu hiện; Thiên Đồng Hóa Quyền hoặc Thiên Lương Hóa Quyền cũng chủ tình cảm khốn nhiễu, duy thích nghi tòng sự phục vụ tính công tác, mà lại vô sự mang lực bận rộn; Thiên Lương Hóa Khoa, thì thích nghi tòng sự văn hóa công tác, hoặc ti vi nghệ viên, điện ảnh minh tinh, nguyên nhân là dể đắc nổi tiếng biết danh, mà lại thích hợp lộ diện. Nhưng Hóa Khoa cũng chủ tăng gia cảm tình khốn nhiễu. Nếu Thiên Đồng Hóa Kỵ, tái kiến Hình diệu, thích nghi tòng sự giám sát, kỉ luật công tác. Duy nam hay nữ đều hôn nhân bất lợi.
Đại hạn lưu niên kiến Thiên Đồng Thiên Lương, Không Kiếp, Sát diệu, Hình Hao các sao tịnh tập, chủ tai bệnh hoặc quan phi, hoặc thậm chí có hình khắc lục thân, xí nghiệp phá sản các sự việc; kiến Phụ Tá cát diệu, thì đa tân cơ hội, mà chủ tăng thêm nhân khẩu, tài hỉ điệp điệp trùng trùng. Nếu kiến Đào hoa chư diệu, thì đem sản sinh cơ luyến.
Thiên Lương và Thái Dương đồng cung tại Mão – Dậu
Thái Dương Thiên Lương tại Mão, Dậu nhị cung đồng độ. Nhưng lưỡng cung có tính chất cơ bản lại có sự khác biệt. Tại Mão cung, xưng là “Nhật chiếu lôi môn”. Đây giống như Thái Dương lúc rạng sáng, quang mang sơ lộ (ánh sáng rực rỡ vừa xuất hiện). Nhất là điều gọi là “Lôi môn”, thì đúng là chỉ Đông phương Chấn cung. Nhưng Thái Dương tại cung vị này, kì quang và nhiệt lại vẫn chưa đủ sức giải trừ loại tính chất cô khắc hình kỵ của Thiên Lương tinh diệu, do vì là dương quang sơ lộ, tiền trình mặc dù viễn đại, nhưng đúng là quang và nhiệt đều hữu hạn, với người lập Mệnh tại cung vị này, tất tiên kinh qua gian nan và hiểm trở, nhiên hậu tài năng tại sự nghiệp hữu thành tựu. Nhưng bản cung tinh diệu vẫn giữ nguyên chủ quý mà bất chủ phú, vì vậy mà lại thích nghi tòng sự về công chúng phục vụ hành nghiệp; giả như ngộ đáo văn tinh, thì thích nghi tòng sự học thuật nghiên cứu, hoặc đảm nhậm giáo chức. Nhưng nếu Mệnh cung có Lộc Tồn và Văn Xương đồng độ, thì đúng là điều gọi là “Dương Lương Xương Lộc” cách. Cổ nhân nói: “Dương Lương Xương Lộc, truyền lưu đệ nhất danh”, cho nên với người có Mệnh cung phùng cách cục này, tối lợi tham gia quốc gia điển thí, hoặc tham gia tư cách khảo thí, như kiến trúc sư, nữ kế sư (kế toán) các loại. Nếu tham gia học vị khảo thí, thì càng dể hoạch thành công. Vô luận tham gia thập yêu (bất cứ) khảo thí, đều có thể dựa vào đây đạp thượng thành công với chổ dựa vững chắc. Cho nên chiếu theo “Trung Châu Phái” sở truyền, Thái Dương Mão cung tọa Mệnh, chủ là người đa nghệ đa tài, danh hiển phú dụ. Giả như tại Dậu cung an Mệnh, Mệnh cung vô chính diệu, cần phải tá Mão cung Thái Dương Thiên Lương nhập cung an tinh, thì các sao sở hội hợp là Thái Dương Thiên Lương, Thiên Đồng Cự Môn và Thiên Cơ, thì không như người với nguyên bản tại Mão cung đắc hội Thiên Đồng Cự Môn cùng Hợi cung với Thái Âm rất tốt đẹp. Nguyên nhân là Mão cung có Thái Dương Thái Âm hội hợp, chủ kí phú thả quý (cả phú lẫn quý), nhưng với người tá tinh Dậu cung, thì nguyên nhân là có Thiên Lương Thiên Cơ hội hợp, có liên quan về xiển thích sự lí chi ngoại, đặc biệt thích nghi học thuật nghiên cứu, cũng thích nghi tòng sự pháp luật công tác, nhưng xã hội địa vị tuy dù cao, phú dụ, thì bất như người nguyên bản tại Mão cung an Mệnh.
Tại Dậu cung an Mệnh, mặc dù tổ hợp tinh diệu cùng với Mão cung tương đồng, nhưng do vì Dậu cung Thái Dương đã Nhật lạc tây sơn, vãn cảnh tuy giai (cảnh chiều dù đẹp), chỉ tiếc hoàng hôn đã cận kề. Cho nên với người tại bản cung an Mệnh, Mệnh vận thông thường bất như người Mão cung an Mệnh. Cho dù cùng đồng là “Dương Lương Xương Lộc” cách cục, kì thành tựu cũng không có giống như nhau. Đại khái là vãn cảnh cảm giác là cô độc, cho nên thích nghi với trung niên thì sáng lập danh thanh sự nghiệp, chú ý tích súc. Trung niên về sau, thích nghi nghiên cứu triết lí, kí thác thân tâm (gởi gắm thể xác và tâm hồn). Giả như Mão cung vô chính diệu, cần phải tá Dậu cung với Thái Dương Thiên Lương nhập cung an tinh, cũng thích nghi với tòng sự học thuật nghiên cứu hoặc tòng sự pháp luật công tác, hoặc tòng sự phục vụ xã hội hành nghiệp (Hình 7). Thái Dương có Thiên Lương đồng cung, cho nên bất hỉ Hóa Lộc. Nếu Thái Dương Hóa Lộc, vô luận Mão cung hoặc Dậu cung an Mệnh, đều dể chiêu khốn nhiễu, dể dàng thụ nhân chỉ trích, hoặc phàm hoạch tài lợi tất tiên kinh phiền nhiễu. Nhưng tòng sự học thuật nghiên cứu hoặc văn nghệ sáng tác giả thì không e ngại lo lắng, nguyên nhân là loại công tác giả này tất cần phải tiên thương tổn não cân, nhiên hậu tài hoạch danh lợi, tính chất tinh diệu phù hợp với sự nghiệp. Mão Dậu nhị cung với Thái Dương tối hỉ Hóa Quyền, có thể tăng gia quyền uy, nếu hội Thiên Khôi Thiên Việt, Ân Quang Thiên Quý, Tam Thai Bát Tọa đẳng diệu, thì có thể suy xét theo chính trị, hoặc trở thành nhân viên quản lí cao cấp tại đại xí nghiệp. Mão cung Thái Dương bất sợ Hóa Kị, xưng là “Biến cảnh”; nhưng tại Dậu cung Hóa Kị thì rất là bất khả, nếu tái hội Sát Hình đẳng diệu, chủ có lao ngục chi tai, duy có Thiên Lương đồng cung, chung cuộc có thể phùng hung hóa cát.
Nữ mệnh với người Thái Dương Thiên Lương tại Mão cung, chủ tiền hôn nhân có ba chiết, người tại Dậu cung, thì hậu hôn nhân vẫn đa khốn nhiễu ba chiết, lấy vãn hôn làm thích nghi.
Đại hạn lưu niên Mệnh cung kiến Thái Dương Thiên Lương, nếu hội Văn tinh, cũng chủ nội trong niên hạn lợi về tham gia khảo thí, chân tuyển, hoặc thắng lợi tại sự nghiệp cạnh tranh. Nếu Phụ, Tá chư diệu tịnh chiếu, chủ là người bình bộ thanh vân. Cho dù lưu niên Mệnh cung Thái Dương Hóa Quyền, Hóa Khoa đúng là năm cũng tất có tính tiến bộ đột phát. Nếu Hỏa Linh Dương Đà và Kị tinh tịnh chiếu, thì có tiểu nhân xâm hại, gặp phiền nhiễu ngoại ý, hoặc đưa đến phá tài. Trung niên về sau cần phải chú ý huyết áp.
Thiên Lương và Thiên Cơ đồng cung tại Thìn – Tuất
Thiên Cơ Thiên Lương tại Thìn, Tuất nhị cung đồng độ. Tài bạch cung hội Thiên Đồng Thái Âm, cho nên cũng là “Cơ Nguyệt Đồng Lương cách”. Nhưng Thiên Cơ Thiên Lương tọa Mệnh, lại cùng với Thiên Cơ Thái Âm tọa Mệnh bất đồng; Cơ Lương chủ hảo biện luận, thiện từ lệnh (đối đáp), lấy ngoại tài làm trọng, cùng với Thiên Cơ Thái Âm có nội tài bất đồng. Nhưng do vì ảnh hưởng của Thiên Lương, bản cung tinh diệu liền có một cái đặc chất, tuy dù có Cát tinh giao hội, nhưng phú quý bất năng lưỡng toàn. Hoặc phú mà bất nại cửu hưởng, hoặc phú mà sẳn đồ hư danh. Đặc biệt là Thiên Lương bất nghi Hóa Lộc, nếu Hóa Lộc thì tất thành thị phi chi nạo, làm chúng nhân sở giao trách. Cho dù đồng cung với Thiên Cơ Hóa Lộc, cũng đủ để phát sinh ảnh hưởng; không những đắc tài mà bất năng thủ, mà còn dể vì nguyên nhân tiền tài nhạ thị phi phiền nhiễu. Tối nghi Thiên Cơ Hóa Quyền, Thiên Lương Hóa Khoa đồng tụ Mệnh cung (không thể cùng tụ Mệnh cung được), thì có thể giảm thiểu phù động, mà lại tăng gia năng lực bài giải phân tranh của Thiên Lương. Nếu Thiên Cơ Hóa Khoa, không ngoài sẳn đồ hư danh, ngược lại về tâm tư cảm tình dể khốn nhiễu. Nhưng Thiên Cơ Hóa Kị, thì khốn nan trùng trùng, đa ưu đa lự, tuy dù có Thiên Lương bài giải, cũng tất bão thụ hư kinh (chịu nhiều lo sợ vô cớ). Nhưng nếu sự nghiệp cung tá nhập với Cự Môn Thái Dương hóa làm Lộc, Quyền, thì chủ về sự nghiệp được dị tộc nhân đề bạt, hoặc có thể suy xét tòng sự cùng với ngoại quốc nhân có liên quan về công tác. Nhưng kiến Kình Dương, Thiên Hình hội chiếu, thì đúng là pháp luật nhân tài, do vì Thái Dương Cự Môn cùng Thiên Cơ Thiên Lương đều chủ khẩu tài, thích nghi với dẫn dụng điều văn luật lệ.
Thiên Cơ chủ biến hóa phù động, phản ứng mẫn duệ, Thiên Lương thì thủ nguyên tắc, y theo luật lệ, nhị diệu kết hợp, phân tích lực đặc biệt cao cường. Đây đúng là đặc điểm tinh hệ của bản cung. Nhưng ngộ Sát diệu Hình Kị, thì Thiên Lương trái lại hiển lộ ra tính chất cô khắc, vô luận Nam mệnh hay Nữ mệnh, đối với lục thân đều thiếu duyên phận. Thiên Cơ Thiên Lương tối cát hội Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, giúp cho là người kì tài túc dĩ tể kì dụng (đủ tài để dùng), có thể trở thành nhân vật có xã hội địa vị.
Thìn Tuất nhị cung so với nhau (bỉ giác), Thìn cung sở hội với Thiên Đồng Thái Âm cùng với Thái Dương Cự Môn đếu nhập miếu thừa vượng, mà Tuất cung sở hội các sao thì lạc hãm, cho nên Thìn cung so với Tuất cung ưu thế hơn rất nhiều, cách cục giác cao.
Nữ mệnh tối hiềm Thiên Cơ Hóa Kị, hoặc Cự Môn Hóa Kị, hoặc Thái Âm Hóa Kị, nhưng ngộ hợp Kị tinh, canh kiến Không Kiếp Hình Sát, lực hình khắc phu tử thậm trọng sâu nặng. Tuy dù chủ trường thọ, nhưng nhân sinh bất miễn tịch mịch, cho nên tối nghi trì hôn, tử nữ cũng thích nghi trì đắc.
Đại hạn lưu niên kiến Thiên Cơ Thiên Lương, chủ kinh lịch ma phiền tranh phân mới biến động hữu thành. Nhưng nếu Sát Kị trùng trùng, thì biến động nhưng bất như ý.
Thiên Lương độc thủ tại Tị – Hợi
Thiên Lương tại Tị, Hợi nhị cung độc tọa, lạc nhập hãm cung. Đối cung Thiên Đồng tuy cát, nhưng gia tăng tính trì trệ của Thiên Lương. Bởi vì Thiên Đồng thích hưởng thụ, mà bản tính của Thiên Lương thì chây lười, bởi vậy khi hai tinh diệu tương hội, cổ nhân dể nói là “Nam lãng đãng, nữ tham dâm”. Thiên Lương tại bản cung hội hợp với Thái Dương chính là một minh một ám, cùng với tá nhập Sự nghiệp cung an tinh với Thiên Cơ Cự Môn. Đây lại càng gia tăng thêm sắc thái lãng đãng của Thiên Lương. Nếu hội Sát Kị Hình Hao chư diệu, thì tự nhiên phiêu bạt phóng đãng, không chuyên tâm theo một nghiệp. Nhưng nếu có Khôi Việt, Xương Khúc, Phụ Bật, Thiên Quý, Thiên Phúc các cát tinh tường diệu hội hợp, tắc có thể chuyển hóa thành du lịch ra nước ngoài, du học ngoại quốc, hoặc nhân công xuất quốc. Nếu tại Mệnh cung kiến Thiên Mã, lại kiến Đào hoa chư diệu, như Hồng Loan, Thiên Hỉ, Hàm Trì, Đại Hao, Thiên Diêu, Mộc Dục các sao, mới chủ là người phong lưu tham sắc, lông bông lêu lỏng ăn không ngồi rồi, thậm chí không có đam mê sở thích. Ngộ thêm Kình Dương, Đà La đồng độ hoặc hội chiếu, thì có tai bệnh, thậm chí lao ngục chi tai. Với Hỏa Tinh, Linh Tinh đồng độ hoặc hội chiếu, thì hoảng loạn hoặc hỏa hiểm. Nếu Sát Kị Hình thương tịnh lâm, hoặc chủ là người phát sinh ý niệm tự sát xem nhẹ cuộc sống.
Thiên Lương tại Tị cung an Mệnh, chủ phiêu bạt, sống lang thang nhiều nơi không xác định, thích nghi dấn thân theo sự nghiệp công việc trên biển, hoặc chịu sai khiến phái ra nước ngoài sống thời gian dài. Ngộ Cát diệu, thì có thể dấn thân theo sự nghiệp y dược hoặc công tác từ thiện. Nhưng phàm người an Mệnh tại Tị cung, mang nhiều sứ mệnh đặc thù, nhiệm vụ đặc thù, mà lại nhiều công việc bí mật. Như hội cát diệu tường diệu, thì có thể thành lĩnh tụ bang hội, hoặc nhân viên đặc công. Nếu hội Dương Đà cùng với Thiên Hình, với năm Sửu hoặc năm Dậu tái hội lưu Dương lưu Đà, thì cũng tất có hung hiểm cửu tử nhất sinh, nhưng cuối cùng có thể bảo toàn tính mệnh.
Nữ mệnh Thiên Lương cư Tị, Hợi cung, dể chịu sự quyến rũ dẫn dụ của người khác phái, duy chỉ có thể tránh khỏi những chuyện này khi vào cuộc đời về sau này. Như Mệnh cung Thiên Lương nhập miếu, hội Phụ, Tá, cát Hóa các sao, chủ sinh hoạt hưởng thụ an nhàn, mà lại nhiều tín ngưỡng tông giáo. Nếu lạc vào hãm cung. Toàn bộ tứ Sát chiếu, chủ quan hệ giao tế kém tốt đẹp, nữa đời người cô độc; tái hội đào hoa cùng Không Kiếp, Đại Hao, thì thích nghi với tính chất phù đãng lưu động, nếu không thì có thể về già bị phiêu bạc vô y; như hội Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Tài, Phượng Các, thì tất có tài nghệ đặc thù.
Đại hạn lưu niên Mệnh cung có Thiên Lương, tất cần hội Cát diệu, mới chủ sự nghiệp phát triển, chức vị thăng tiến; có Lộc Tồn hoặc Hóa Lộc đồng độ, thì đề phòng bị tiểu nhân lật đổ; có tứ Sát Thiên Hình hội chiếu, thì đề phòng hình khắc, tai bệnh, hoặc thậm chí có thể bị bệnh lao phổi (kha lao phê nhị nhị tai); nếu có Không Kiếp, Đại Hao hội chiếu, hoặc có Thiên Đồng Hóa Kị hội chiếu, thì có khả năng phá sản, sát nặng kéo xuống có khả năng tàn phế hoặc nhân khác âm mưu hãm hại.
(Dẫn theo trang huyenhocvadoisong.com)