Thiên Cơ ở cung phu thê
Thiên Cơ độc tọa ở hai cung Tí hoặc Ngọ, đối cung là Cự Môn, hơi có sát tinh là đã chủ về vợ chồng bằng mặt mà không bằng lòng. Nếu Thiên Cơ Hóa Kị hoặc Cự Môn Hóa Kị, thì vợ chồng vì tính cách không hợp nhau hoặc vì bất mãn hoàn cảnh sống mà sinh thay lòng đổi dạ. Nếu Cự Môn Hóa Kị, dù li dị vẫn khó tìm được đối tượng vừa ý.
Thiên Cơ độc tọa, Hóa Kị ở hai cung Tí hoặc Ngọ, vợ chồng đều có cơ tâm, lại gặp sát tinh, thường thường ra sự cố lúc đến cung hạn “Thiên Đồng, Thiên Lương” hoặc “Liêm Trinh, Tham Lang”, phần nhiều tái hôn thì tốt đẹp hơn. Nhưng cần chú ý, trường hợp Thiên Cơ Hóa Kị mà có Hỏa Tinh, Linh Tinh, Địa Không, Địa Kiếp đồng độ, tái hôn vẫn không tốt.
Thiên Cơ độc tọa ở hai cung Tí hoặc Ngọ, gặp Thiên Đồng Hóa Lộc thì cát, chủ về vợ chồng tay trắng làm nên. Nếu Thiên Đồng Hóa Kị, sẽ chủ về xa nhau thì nhiều mà gặp nhau thì ít.
Thiên Cơ độc tọa ở hai cung Tí hoặc Ngọ, gặp cát tinh, không sợ đến cung hạn Thái Âm, Thái Dương thủ cung phu thê. Nếu Thiên Cơ gặp các sao sát, kị, đến cung hạn Thái Âm, Thái Dương, chủ về vợ chồng cãi vã, rối ren.
Đối với Thiên Cơ độc tọa ở hai cung Tí hoặc Ngọ, “Thiên Đồng, Thiên Lương” là tình hệ có tính then chốt, chúng mà gặp Hỏa Tinh, Linh Tinh thì chủ về chia li trong tình hình xấu; gặp Lộc Tồn, Thiên Mã thì chủ về chia li trong tình hình bình thường; gặp các sao sát, kị thì chủ về li dị; nếu gặp “Lộc Quyền Khoa hội”, thì vợ chồng có thể sống với nhau đến bạc đầu. Nhung nếu đồng thời gặp Cự Môn Hóa Kị, thì vẫn cần phải kềm chế bản thân.
Cung phu thê không nên là Thiên Cơ độc tọa hai cung Sửu hoặc Mùi, có đối cung là Thiên Lương, phần nhiều chủ về kết hôn sớm rồi li dị, hoặc kết hôn muộn, nhưng trước hôn nhân đã gặp trắc trở trong tình yêu nhiều lần, gặp Địa Không, Địa Kiếp thì càng đúng.
Thiên Cơ độc tọa hai cung Sửu hoặc Mùi, rất sợ có Đà La đồng cung, không những kết hôn muộn, mà phần nhiều còn chọn lầm người có tính cách không hợp nhau, nên sinh bất mãn.
Thiên Cơ độc tọa hai cung Tí hoặc Ngọ, được cát hóa, không có sát tinh thì còn được; có sát tinh, dù cát hóa, nhân duyên cũng không mĩ mãn. Vợ chồng nên chênh lệch tuổi tác, mới có thể sống với nhau đến bạc đầu.
Thiên Cơ độc tọa hai cung Sửu hoặc Mùi, trước hôn nhân đã trải qua trắc trở, hoặc trước hôn nhân có sóng gió trở ngại là tốt. Nếu trước hôn nhân thuận lợi, thì sau khi kết hôn thường thường sẽ gặp nhau ít mà xa nhau nhiều, hoặc bằng mặt mà không bằng lòng.
Thiên Cơ độc tọa hai cung Sửu hoặc Mùi, không nên đến cung hạn Thái Dương Hóa Kị, Thái Âm Hóa Kị. Đại khái là, cát hung của các cung hạn “Liêm Trinh, Thiên Tướng”, Cự Môn, Thiên Đồng là đại vận hoặc lưu niên có tính then chốt.
“Thiên Cơ, Thái Âm” ở hai cung Dần hoặc Thân, nam mệnh ưu ở nữ mệnh. Nam mệnh cung phu thê gặp “Thiên Cơ, Thái Âm”, chủ về vợ xinh đẹp, giỏi nội trợ. Nữ mệnh thì trái lại, cần đề phòng chồng dễ bị người khác giới để ý.
“Thiên Cơ, Thái Âm” ở hai cung Dần hoặc Thân, nếu thuộc loại “tâm trạng hóa” quá nặng, thì hôn nhân dễ xảy ra sóng gió, trắc trở; ví dụ như người bạn đời thay lòng đổi dạ, có người khác.
“Thiên Cơ, Thái Âm” ở hai cung Dần hoặc Thân, hội Thiên Đồng Hóa Kị, gặp các sao Địa Không, Địa Kiếp, Âm Sát, Thiên Hư, Đại Hao, chủ về người bạn đời tâm chí bạc nhược, hoặc quá mẫn cảm, do đó dễ xảy ra sóng gió trong hôn nhân.
Đối với “Thiên Cơ, Thái Âm” đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, cát hung của các cung hạn Thái Dương, Thiên Lương, Thiên Đồng, Cự Môn là đại vận hoặc lưu niên có tính then chốt.
“Thiên Cơ, Cự Môn” ở hai cung Mão hoặc Dậu, cần phải gặp sao lộc, vợ chồng mới sống với nhau đến bạc đầu. Nhung có Hỏa Tinh, Linh Tinh đồng độ thì thành phá cách, chủ về lúc đầu hòa hợp hạnh phúc, về sau thành nguội lạnh. Các cung hạn Thiên Đồng, Thiên Lương là đại vận hoặc lưu niên ứng nghiệm.
“Thiên Cơ, Cự Môn” ở hai cung Mão hoặc Dậu, sau kết hôn liền có sóng gió, trái qua sóng gió mới sống với nhau đến bạc đấu; nếu không, sau kết hôn phần nhiều thay lòng đổi dạ. Nếu Thiên Cơ Hóa Kị, chủ về dễ yêu người đã có gia đình; nếu Cự Môn Hóa Kị, phần nhiều có nỗi khổ đau thầm kin vẽ tinh cám. Gặp sát tinh, chủ về hai lần kết hôn.
Nữ mệnh cung phu thê không nên là “Thiên Cơ, Cự Môn”. Gặp Hỏa Tinh, Linh Tinh, hoặc Thiên Đồng có Đà La đồng cung, không phải mạng một lần kết hôn.
“Thiên Cơ, Cự Môn” ở hai cung Mão hoặc Dậu, thường thường cung hạn “Vũ Khúc, Thiên Phủ” là đại vận hoặc lưu niên có tính then chốt. Hóa Lộc hay Hóa Kị đều xảy ra sự thay đổi; nam mệnh hay nữ mệnh đều dễ bị người đã có gia đình theo đuổi, do đó xảy ra những tình huống rối rắm, khó xử về tình cảm.
“Thiên Cơ, Thiên Lương” đồng độ ở hai cung Thìn hoặc Tuất, chủ về kết hôn muộn, hoặc trước hôn nhân có sóng gió trong tình yêu, nếu không sẽ sinh li. Gặp cát tinh hội hợp, vợ chồng nên chênh lệch tuổi tác mới sống với nhau đến bạc đầu; cũng chủ về trước hôn nhân đã có một lần li biệt, gặp lại nhau mới sống với nhau đến bạc đầu.
“Thiên Cơ, Thiên Lương” ở cung Thìn, gặp sát tinh, đến đại hạn cung phu thê ở cung Mùi, dễ bị người đã có gia đình theo đuổi; “Thiên Cơ, Thiên Lương” ở Tuất, gặp sát tinh, đến đại hạn cung phu thê ở cung Sửu cũng vậy. Cung hạn phu thê gặp Đà La, Linh Tinh thì nhiều sóng gió, xảy ra nhiều tình huống rối rắm khiến mệnh tạo khó phân giải.
Đối với “Thiên Cơ, Thiên Lương” ở hai cung Thìn hoặc Tuất, cung hạn “Vũ Khúc, Tham Lang” là đại vận hoặc lưu niên có tính then chốt. Cung hạn hóa cát hoặc có sao cát hội mà không gặp các sao đào hoa thì có thể bình an vô sự. Nếu Hóa Kị, sẽ chủ về tình cảm vợ chồng thay đổi; trường hợp hóa cát mà gặp các sao đào hoa, cũng chủ về tình cảm vợ chồng thay đổi.
Thiên Cơ ở hai cung Tị hoặc Hợi, ở cung Hợi thì vợ xấu; ở cung Tị thì vợ đẹp. Đây là do Thái Âm miếu hay hãm.
Thiên Cơ ở hai cung Tị hoặc Hợi, gặp Văn Xương, Văn Khúc, lại hội hợp các sao đào hoa, chủ về người bạn đời dễ bị người khác theo đuổi. Cho nên, nếu gặp thêm các sao sát, kị, hình, sẽ chủ về vợ chồng giữa chừng chia tay. Trường hợp có cát hóa, gặp Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt, sẽ chủ về người bạn đời giỏi giang, có thể lập nên sự nghiệp.
Thiên Cơ ở hai cung Tị hoặc Hợi, nếu hội Thiên Đồng Hóa Lộc, Cự Môn Hóa Kị, thì bản thân mệnh tạo sau khi kết hôn dễ thay lòng đổi dạ, có người khác. Nữ mệnh, hội Thái Dương Hóa Kị, gặp sát tinh, chủ về sinh li với người bạn đời.
Đối với Thiên Cơ ở hai cung Tị hoặc Hợi, các cung hạn “Thái Dương, Thiên Lương”, “Thiên Đồng Cự Môn.”, Phá Quân, là đại vận hoặc lưu niên có tính then chốt, ứng nghiệm cát hung.
Thiên Cơ ở cung phu thê, về cơ bản là bất lợi. Nhưng trong tình hình đối nhau hoặc đồng độ với Thái Âm, gặp cát tinh, mới sống với nhau đến bạc đầu.
Thiên Cơ ở cung phu thê, rất ngại Thiên Đồng hay Cự Môn Hóa Kị, đều chủ về rắc rối khó xử về tình cảm, cổ đại cho rằng nữ mệnh là mạng tì thiếp.
Theo Trung Châu Tam Hợp Phái – Nguyễn Anh Vũ biên dịch
Thiên Cơ độc tọa, Hóa Kị ở hai cung Tí hoặc Ngọ, vợ chồng đều có cơ tâm, lại gặp sát tinh, thường thường ra sự cố lúc đến cung hạn “Thiên Đồng, Thiên Lương” hoặc “Liêm Trinh, Tham Lang”, phần nhiều tái hôn thì tốt đẹp hơn. Nhưng cần chú ý, trường hợp Thiên Cơ Hóa Kị mà có Hỏa Tinh, Linh Tinh, Địa Không, Địa Kiếp đồng độ, tái hôn vẫn không tốt.
Thiên Cơ độc tọa ở hai cung Tí hoặc Ngọ, gặp Thiên Đồng Hóa Lộc thì cát, chủ về vợ chồng tay trắng làm nên. Nếu Thiên Đồng Hóa Kị, sẽ chủ về xa nhau thì nhiều mà gặp nhau thì ít.
Thiên Cơ độc tọa ở hai cung Tí hoặc Ngọ, gặp cát tinh, không sợ đến cung hạn Thái Âm, Thái Dương thủ cung phu thê. Nếu Thiên Cơ gặp các sao sát, kị, đến cung hạn Thái Âm, Thái Dương, chủ về vợ chồng cãi vã, rối ren.
Đối với Thiên Cơ độc tọa ở hai cung Tí hoặc Ngọ, “Thiên Đồng, Thiên Lương” là tình hệ có tính then chốt, chúng mà gặp Hỏa Tinh, Linh Tinh thì chủ về chia li trong tình hình xấu; gặp Lộc Tồn, Thiên Mã thì chủ về chia li trong tình hình bình thường; gặp các sao sát, kị thì chủ về li dị; nếu gặp “Lộc Quyền Khoa hội”, thì vợ chồng có thể sống với nhau đến bạc đầu. Nhung nếu đồng thời gặp Cự Môn Hóa Kị, thì vẫn cần phải kềm chế bản thân.
Cung phu thê không nên là Thiên Cơ độc tọa hai cung Sửu hoặc Mùi, có đối cung là Thiên Lương, phần nhiều chủ về kết hôn sớm rồi li dị, hoặc kết hôn muộn, nhưng trước hôn nhân đã gặp trắc trở trong tình yêu nhiều lần, gặp Địa Không, Địa Kiếp thì càng đúng.
Thiên Cơ độc tọa hai cung Sửu hoặc Mùi, rất sợ có Đà La đồng cung, không những kết hôn muộn, mà phần nhiều còn chọn lầm người có tính cách không hợp nhau, nên sinh bất mãn.
Thiên Cơ độc tọa hai cung Tí hoặc Ngọ, được cát hóa, không có sát tinh thì còn được; có sát tinh, dù cát hóa, nhân duyên cũng không mĩ mãn. Vợ chồng nên chênh lệch tuổi tác, mới có thể sống với nhau đến bạc đầu.
Thiên Cơ độc tọa hai cung Sửu hoặc Mùi, trước hôn nhân đã trải qua trắc trở, hoặc trước hôn nhân có sóng gió trở ngại là tốt. Nếu trước hôn nhân thuận lợi, thì sau khi kết hôn thường thường sẽ gặp nhau ít mà xa nhau nhiều, hoặc bằng mặt mà không bằng lòng.
Thiên Cơ độc tọa hai cung Sửu hoặc Mùi, không nên đến cung hạn Thái Dương Hóa Kị, Thái Âm Hóa Kị. Đại khái là, cát hung của các cung hạn “Liêm Trinh, Thiên Tướng”, Cự Môn, Thiên Đồng là đại vận hoặc lưu niên có tính then chốt.
“Thiên Cơ, Thái Âm” ở hai cung Dần hoặc Thân, nam mệnh ưu ở nữ mệnh. Nam mệnh cung phu thê gặp “Thiên Cơ, Thái Âm”, chủ về vợ xinh đẹp, giỏi nội trợ. Nữ mệnh thì trái lại, cần đề phòng chồng dễ bị người khác giới để ý.
“Thiên Cơ, Thái Âm” ở hai cung Dần hoặc Thân, nếu thuộc loại “tâm trạng hóa” quá nặng, thì hôn nhân dễ xảy ra sóng gió, trắc trở; ví dụ như người bạn đời thay lòng đổi dạ, có người khác.
“Thiên Cơ, Thái Âm” ở hai cung Dần hoặc Thân, hội Thiên Đồng Hóa Kị, gặp các sao Địa Không, Địa Kiếp, Âm Sát, Thiên Hư, Đại Hao, chủ về người bạn đời tâm chí bạc nhược, hoặc quá mẫn cảm, do đó dễ xảy ra sóng gió trong hôn nhân.
Đối với “Thiên Cơ, Thái Âm” đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, cát hung của các cung hạn Thái Dương, Thiên Lương, Thiên Đồng, Cự Môn là đại vận hoặc lưu niên có tính then chốt.
“Thiên Cơ, Cự Môn” ở hai cung Mão hoặc Dậu, cần phải gặp sao lộc, vợ chồng mới sống với nhau đến bạc đầu. Nhung có Hỏa Tinh, Linh Tinh đồng độ thì thành phá cách, chủ về lúc đầu hòa hợp hạnh phúc, về sau thành nguội lạnh. Các cung hạn Thiên Đồng, Thiên Lương là đại vận hoặc lưu niên ứng nghiệm.
“Thiên Cơ, Cự Môn” ở hai cung Mão hoặc Dậu, sau kết hôn liền có sóng gió, trái qua sóng gió mới sống với nhau đến bạc đấu; nếu không, sau kết hôn phần nhiều thay lòng đổi dạ. Nếu Thiên Cơ Hóa Kị, chủ về dễ yêu người đã có gia đình; nếu Cự Môn Hóa Kị, phần nhiều có nỗi khổ đau thầm kin vẽ tinh cám. Gặp sát tinh, chủ về hai lần kết hôn.
Nữ mệnh cung phu thê không nên là “Thiên Cơ, Cự Môn”. Gặp Hỏa Tinh, Linh Tinh, hoặc Thiên Đồng có Đà La đồng cung, không phải mạng một lần kết hôn.
“Thiên Cơ, Cự Môn” ở hai cung Mão hoặc Dậu, thường thường cung hạn “Vũ Khúc, Thiên Phủ” là đại vận hoặc lưu niên có tính then chốt. Hóa Lộc hay Hóa Kị đều xảy ra sự thay đổi; nam mệnh hay nữ mệnh đều dễ bị người đã có gia đình theo đuổi, do đó xảy ra những tình huống rối rắm, khó xử về tình cảm.
“Thiên Cơ, Thiên Lương” đồng độ ở hai cung Thìn hoặc Tuất, chủ về kết hôn muộn, hoặc trước hôn nhân có sóng gió trong tình yêu, nếu không sẽ sinh li. Gặp cát tinh hội hợp, vợ chồng nên chênh lệch tuổi tác mới sống với nhau đến bạc đầu; cũng chủ về trước hôn nhân đã có một lần li biệt, gặp lại nhau mới sống với nhau đến bạc đầu.
“Thiên Cơ, Thiên Lương” ở cung Thìn, gặp sát tinh, đến đại hạn cung phu thê ở cung Mùi, dễ bị người đã có gia đình theo đuổi; “Thiên Cơ, Thiên Lương” ở Tuất, gặp sát tinh, đến đại hạn cung phu thê ở cung Sửu cũng vậy. Cung hạn phu thê gặp Đà La, Linh Tinh thì nhiều sóng gió, xảy ra nhiều tình huống rối rắm khiến mệnh tạo khó phân giải.
Đối với “Thiên Cơ, Thiên Lương” ở hai cung Thìn hoặc Tuất, cung hạn “Vũ Khúc, Tham Lang” là đại vận hoặc lưu niên có tính then chốt. Cung hạn hóa cát hoặc có sao cát hội mà không gặp các sao đào hoa thì có thể bình an vô sự. Nếu Hóa Kị, sẽ chủ về tình cảm vợ chồng thay đổi; trường hợp hóa cát mà gặp các sao đào hoa, cũng chủ về tình cảm vợ chồng thay đổi.
Thiên Cơ ở hai cung Tị hoặc Hợi, ở cung Hợi thì vợ xấu; ở cung Tị thì vợ đẹp. Đây là do Thái Âm miếu hay hãm.
Thiên Cơ ở hai cung Tị hoặc Hợi, gặp Văn Xương, Văn Khúc, lại hội hợp các sao đào hoa, chủ về người bạn đời dễ bị người khác theo đuổi. Cho nên, nếu gặp thêm các sao sát, kị, hình, sẽ chủ về vợ chồng giữa chừng chia tay. Trường hợp có cát hóa, gặp Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt, sẽ chủ về người bạn đời giỏi giang, có thể lập nên sự nghiệp.
Thiên Cơ ở hai cung Tị hoặc Hợi, nếu hội Thiên Đồng Hóa Lộc, Cự Môn Hóa Kị, thì bản thân mệnh tạo sau khi kết hôn dễ thay lòng đổi dạ, có người khác. Nữ mệnh, hội Thái Dương Hóa Kị, gặp sát tinh, chủ về sinh li với người bạn đời.
Đối với Thiên Cơ ở hai cung Tị hoặc Hợi, các cung hạn “Thái Dương, Thiên Lương”, “Thiên Đồng Cự Môn.”, Phá Quân, là đại vận hoặc lưu niên có tính then chốt, ứng nghiệm cát hung.
Thiên Cơ ở cung phu thê, về cơ bản là bất lợi. Nhưng trong tình hình đối nhau hoặc đồng độ với Thái Âm, gặp cát tinh, mới sống với nhau đến bạc đầu.
Thiên Cơ ở cung phu thê, rất ngại Thiên Đồng hay Cự Môn Hóa Kị, đều chủ về rắc rối khó xử về tình cảm, cổ đại cho rằng nữ mệnh là mạng tì thiếp.
Theo Trung Châu Tam Hợp Phái – Nguyễn Anh Vũ biên dịch