Phú Tử vi chuẩn của cụ Lê Quý Đôn
1) Mệnh viện
Một là bàn đến Mệnh Viện.
Cứ sao thủ mệnh đoán biên tính tình.
Tử Vi trong hậu dung hinh.
Thiên Phủ tiết hạnh thông minh ôn hòa.
Hai sao đều gặp một nhà
Thiên tư ôn nhuận thiệt là tốt ghê.
Lòng thanh tịnh gặp thiên cơ.
Vũ Tinh nhập miếu, anh kỳ tài năng.
Thái Âm viên mãn ai bằng.
Thiên Đồng phì mãn, tình bằng ôn lương.
Phá Liêm to nhỏ khác thường.
Tình tình cương trực kết đường tà gian.
Thiên Lương từ hậu dung nhan.
Sát Hình miếu địa, khôn ngoan anh hùng.
Tham Lang tính bẩm thung dung.
Say miền gái đẹp, rượu nồng mùi ngon.
Thái Dương tính khí thực khôn.
Thanh Kỳbậc nhất, tư lương khác thường.
Kìa như Văn Khúc, Văn Xương.
Tư nhan khả ái, thông đường văn chương.
Cư môn tính khí bất thường.
Hể khi sử sự, tìm đường đảo điên.
Thiên Tướng, lòng thẳng mặt hiền.
Thiên tư mỹ lệ : Khoa Quyền hẳn hoi.
Thanh bần ấy thật Việt Khôi.
Lại gia Thai Phụ là nòi khoan dung.
Phụ Bật tuấn tú vốn dòng.
Đáng tài hơn chúng, tốt dùng chẳng không.
Phụ Bật đơn thủ mệnh cung
Đoán rằng số ấy ly tông cửa nhà
Phượng Long đều hợp mệnh ta.
Làm người cốt cách, ôn hòa tốt thay.
Tuế Riêu họa xướng ư nhời.
Nhận Hư, lòng gío là người sai ngoa.
Mây mưa ấy thật Đào Hoa.
Lòng kia đố kệch, Kỳ Đà xấu trông.
Trán đen, tính nóng, Kiếp không.
Hỏa Linh mặt mũi hình dung bí sầu.
Tuế Phá lạc hãm một âu.
Tiếng tăm như sấm ra màu vẻ vang.
Kìa như nói chẳng hé răng.
Thiên Hình đốn thủ chốn đằng mệnh cung.
Lộc, Mã khéo kiêm nàn nồng.
Phúc, Tấu bá đạo, mong trông một lòng.
Hoa Cái má phấn lưng ong.
Hỷ Thần dài dọng, tam hung, tràng đâu.
Triệt, Không, tính những chẳng âu.
Hung trung vô định ra màu gian nan.
Tuế, Tham trong dạ đa đoan.
Ky, Riêu tửu sắc, một đàn ngao du.
Hổ, Tang chẳng việc mà lo.
Quan Phù, Điếu Khách hay phô rộng nhời.
Lưỡng Hao nhỏ nhặt hình người.
Phi Liêm tóc tốt, có tươi mà dàu.
Qúy, An Phong độ trượng phu
Chẳng hay quân tử hình thù cũng xinh.
Tướng quân chỉ thích dụng binh.
Bệnh Phù đối tật trong mình chẳng không.
Cô, Quả thiết Kỵ riêng lòng.
Tràng Sinh, Đế Vượng vốn dòng Thiên Lương.
Đào hoa, Mộc Dục diễm trang.
Lam Quan tinh khí dịu dàng, tinh anh.
Mộ thì chẳng được thông minh.
Thai hay mê hoặc lại tha tùng.
Triệt mà gặp được ma, gặp được kim cung.
Tinh thần thanh sảng, thung dung đế thần.
Tuyệt phùng hỏa địa một khi.
Hiên ngang chí khí, gặp thì thung dung.
Kia Suy, Bệnh, Tử ba dòng.
Gặp vào nước ấy, ai dung ai màng ?
Hoa lọc tính khí dịu dàng.
Bác Sĩ tính nết tìm đường tư hoa.
Thiên Đức, Nguyệt Đức khoan hòa.
Lộc Tồn đôn hâu, thiệt là qui mô.
Phá Quân tâm tính hồ đồ.
Kiếp Sát sử sự ba đào mênh mông.
Xem trong nhân tính đã xong.
Lại tinh cho thấu các cung Ngũ Hành.
Tường chân tính, nhận chân hình.
Chẳng non chấp nhất, lực mình mà suy.
Ví như thuốc Thổ Tử Vi.
Tinh trì mà gặp hỏa thì lại nhanh.
Thiên Phủ vốn tính hóa lành.
Song gặp Không, Kiếp thời ràng khắc thân.
2) Phụ Mẫu Cung:
Số hai phụ mẫu kế tường
Âm, Dương, ngộ hãm là đường khắc xung.
Hãm Dương, Khắc Phụ đã xong.
Hãm Âm khắc mẫu vào vòng chẳng sai.
Hổ, Tang, Thái Tuế cùng bày.
Lưu Dương lại gặp đóan rày khắc cha.
Gặp sao Hóa Kỵ khiếm hòa.
Thiên Hình, Tuần, Triệt mẹ cha mất rồi.
Cao, Phong có chức, có ngôi.
Khúc, Xương, Thái Tuế thì người cũng sang.
Khôi, Khoa phát đạt khoa tràng.
Khôi, Quyền, chính trướng đường đường tốt thong.
Thanh bần ấy phải Hóa, Không.
Nhược bằng Lộc Mã phú ông ai tày.
3. Phúc Đức Cung:
So ba phúc đức kế tiền.
Lộc, Quyền đóng đô trong miền bản cung. Ở đời vinh hiển đã xong.
Kiếp, Không ở đấy bần cùng khốn thay. Nay đây mai đó càng hay.
Lại xem cung ấy sông rày được bao ? Đồng, Lương, Tử Phủ bốn sao
Trên tuần bát cửu thọ nào ai hơn.
Âm, Dương, Xương, Khúc, Lộc Tồn.
Với sao Thiên Tướng, Cự Môn tinh trần.
Thọ thì thong thả, hãm thì tân hoan.
Liêm Cự ta lại phải bàn.
Ngoại tuần lục thập mới hoàn Diêm La.
Việt, Khôi, Tả Hữu, Quyền, Khoa.
Lộc, Tham, Đế Vựợng thật là tràng sinh.
Đà La, Dương Nhận, Hỏa Linh.
Vào thì ba bốn rành lành chẳng sai.
Kiếp, Không , Hy, Khổ cùng bày.
Thiên Hình, Hóa Kỵ mới loài bạch tang.
Nhị Phù tổn thọ một phương.
Thật là lạc mộ, nên đường chẳng sai.
Sát, Liêm, Tử Sát cùng bày.
Đoán Lâm bần yểu xưa nay rõ ràng.
Cao thanh, Thọ, Quý , An Quang.
Những là sao ấy thọ tràng kỳ di.
Lại lấy thân Mệnh mà suy.
Nam tinh chính chiếu thọ kỳ vô cương.
Đã xem hướng thọ đoán tường.
Lại xem phúc đức đoán phương âm thầm.
Tràng sinh chính phát thập phần.
Gặp sao Quan Phúc quý thần chầu trong.
Phúc, Liêm, Nội ngoại thung dung.
Khoa, Quyền, Xương, Khúc vốn dòng văn gia.
Vũ, Tham mà gặp Hóa Khoa.
Ấy là đất phát để đa anh hùng.
Cự Môn, Lộc, lộc tương phùng.
Đoán rằng phú quý gia phong đời đời.
Nay là đoán trước mấy lời.
Được đất nấm nghiệm chẳng sai đâu là.
Lại xem hướng mạch kể ra.
Trước lấy khởi tố ấy là Tràng Sinh.
Thanh Long lấylàm long hành.
Đến đâu nhập thủ xem hình chiếu lâm,
Phải lấy chi tợ (địa chi) phân kim,
Xem cho chuẩn đích đoán tìm mới ngoan.
Trước so Dương Nhận, Hồng Loan.
Nga mi tác án yên bàn chẳng sai.
Thanh(Long) Hồng (Loan) là thủy nhập hoài.
Lại như Vũ Khúc, Triệt Không.
Lấy làm hành lộ, khuỳnh khuỳnh trước sau.
Kìa Long với Hổ lại chầu.
Xem bên tả, Hữu mới hầu luận xong.
Bên tả có sao Thanh Long.
Lấy làm Long Thủy Chầu vòng tả biên.
Bên hữu Bạch Hổ đã yêu.
Lấy làm Hổ Thủy chầu bên hữu này.
Lại xem tinh tú yên bày.
Thái Dương, Vũ Tướng cùng rày Phá Quan.
Khoa Quyền, Khôi, Việt tinh trần.
Lấy làm dương mộ mười phân chẳng sai.
Còn như đoán mả đàn bà.
Xem sao miếu vượng gần xa, đoán đời.
Tử, Phủ, Tổ mộ chẳng sai.
Lạc phận thì đóan xa đời mà thôi.
Vũ năm, Đồng Tử, Chẳng sai chút nào.
Liêm Trinh bảy tám đời cao.
Thái Dương là bố lẻ nào chẳng tin.
Cha còn thì đoán ông Liền.
Ấy là Dương Mộ đoán miền Dương tinh.
Thiên Phủ viên tố đã đành.
Tham sáu, Cự bảy, Lương rành tám thôi.
Phá Quân, Thất Sát xa, đời.
Thái Âm là mẹ gần nơi đó mà.
Nếu con thì kể đàn bà.
Ấy là âm mộ thuộc Tòa âm cung.
Thiên Đức, Nguyệt Đức tương phùng.
Mộ phần thiên táng ất cùng chẳng sai.
Suy xem tinh tính hẳn hòi.
Ấy là chứng nghiệm mà soi cho tường.
Đà La ngộ Dưỡng chẳng thường.
Đoán rằng đạo táng gần phương mã này.
Lại tùy chính diệu suy bày.
Lại nhân Không, Kiếp đoán rày lạc phân.
Hoa Cái, Phượng Các tân phần.
Tấu Thư, Xương, Khúc là thần đồng ra.
Hoặc Khôi, Việt gia Hóa Khoa.
Đại Khoa sự nghiệp vinh hao vô cùng.
Lộc Tồn, Hóa Lộc tương phùng.
Ấy là phú quý vốn dòng chẳng không.
Tử Vi nhập miếu vượng cung.
Phát nên có kẻ chầu trong vương kỳ.
Lương, Tham thọ khảo Kỳ di,.
Lại xem đất phát cung phi hễ nào.
Bởi chưng Hoa Cái, Hồng Đào.
Gặp sao Tử, Nhật gái chầu quân vương.
Đế vượng đóng chính cung tường.
At là trong họ Vương đường nhân đinh.
Tuế, Phù tụng sự tương tranh.
Lộc tồn có quả, độc đinh thường thường.
Tang Môn, Quả Tú bất thường.
At là trong họ gái thường quả phu.
Phục Binh ngộ Tứ phải lo.
Có người bị trận, chết co ngoài đường.
Lại gia Thai, Toa ấy trường sinh ta.
Hỷ Thần, Thiên Hỷ hoặc gia.
Ấy là đắc địa chẳng hòa được đâu.
Lại bàn hình thể mỗi màu (ngũ hành các sao)
Tổ sơn là Tử, Phủ chầu kể ra.
Mộc Tinh là Thiên Cơ gia.
Kim Tinh Vũ Khúc, Mộc là Tham Lang.
Văn Khúc là Thủy đạo đừờng.
Liêm Trinh là Hỏa, Thiên Lương Thổ này.
Âm long, Âm hướng sao này Thái Âm.
Thất Sát cùng Hỏa Tinh Lâm.
Phá Quân là Thủy, Cự tầm thổ tinh.
Thiên Đồng , Thiên Tướng đất binh.
Sao dưỡng là núi, sao linh bút bày.
Mộc, Trì là giếng gần đây.
Thiên Quan, Thiên Phúc gần ngay Phật, Thần, Kiếp, Không lo táng dương phần.
Kỵ, Riêu là Thủy, Sát nhan hoàng tuyền.
Thanh Long có suối lưu triền.
Bạch Hổ đã trắng ở bên mộ đường.
Khoa, Quyền là bảng văn chương.
Lộc; Kỵ, Việt : kiếm rõ ràng đóng đây.
Ấy là phần mộ đoán bày.
Cốt xemPhúc đức mới hay mọi đường.
4) Điền Trạch Cung :
Bốn là bàn đến cung điền.
Phủ, Vi đóng đấy, Tài Điền vượng thay.
Vũ, Cơ tài sản cũng hay.
Song hiềm hoán dịch ngày này nhiều phen.
Âm. Dương miếu ấy đa điền.
Nhược bằng ngộ hãm vào miền bằng chân.
Thiên Đồng hậu dị, tiên nan.
Tham Lang tổ nghiệp tan tành.
Sinh ra đời chắc sau rành được yên.
Sát tinh bỗng chốc mà lên.
Nhược phùng hãm địa, bình yên thường thường.
Phá Quân của khéo dở dang.
Nhựợc bằng ngộ hãm là tường khó khăn.
Tướng, Lương, Tả, Hữu Khoa Văn.
Việt, Khôi, Quyền, Lộc, Mã gần Trường Sinh.
Điền Viên đều vượng tậu tành.
Hỏa, Linh, Không, Kiếp, Đà, Kình lục tinh.
Nhị Hao, Kiếp Sát, Phục Binh.
Không Vong, Tang, Tú, Phù Tinh vô điền.
5) Quan Lộc Cung:
Năm là Quan Lộc đoán ngay.
Thái Dương, Xương, Khúc ở đây cung này.
Điền rồng chầu chực đêm ngày.
Đoán rằng số ấy tốt thay lạ thường.
Việt, Khôi, Tả, Hữu, Cơ, Lương.
Khoa, Quyền, Tử,Phủ hợp cùng Trường Sinh.
Tướng, Đồng, Lộc, Mã , Vũ tinh.
Đều là cát tú được mình.
Âm, Dương, Quyền, Lộc được rành.
Như bằng hãm địa ắt thành lại hao.
Liêm Trinh vũ chưc, Quyền cao.
Như bằng ngộ hãm, khỏi nào hình danh.
Tham Lang mà gặp Hỏa, Linh.
Miếu thì Phú Quý hãm; bình mà thôi.
Sát, Cư Tí Ngọ, ở ngôi.
Vượng thì vũ chức, hãm thời hình thương.
Phá Quân lao khổ trăm đường.
Nhược ngôi tị, Ngọ tài thường vượng thay.
Tham, Lang, Xương, Khúc ngày rày.
Ngọ cung Tỵ, Hợi quan này làm ru.
Liêm, Tham, Đà, Nhận phải lo.
Phải mang dan díu, quanh co bận mình.
Phù, Tang, Không, Kiếp, Hỏa, Linh.
Khốc, Hư, Đà, Nhận, Kiếp, Kình Nhị Hoa.
Phục Binh, Phá Tú xum vào.
Đoán rằng quyền lộc làm sao cũng hèn.
6) Nô Bộc Cung:
Sáu là Nô Bộc Đóan Tường.
Tử, Phủ, Tả,Hữu, Âm, Dương, Lương Đồng.
Việt, Khôi, Tam, Hỏa, Tương Phùng
Cáo, Quan, Cơ Mã lại cùng Tướng tinh.
Quý, Quang, Xương, Khúc Cùng Lành.
Vũ Tinh mà đóng rành rành bản cung.
No thì nó ở hầu ông.
Đói thì nó bước chẳng mong nói gì.
Liêm Trinh kìa nó càng ghê.
Làm ân nên oán bậc chi mỉa mai.
Tham Lang vì nó hao tài.
Cự Môn báo oán những lời thị phi.
Sát thì sinh sự thị phi.
Phá Quân hàn khổ như thì cận quanh.
Còn như Không, Kiếp, Phục Binh.
Dương, Linh, Đà Hoa, Kỵ Hình, Khốc Hư.
Nhị Hao, Quan Phủ, Quan Phù.
Những phường trộm cắp phải lo tốn tài.
7) Thiên di cung:
Bảy là bàn đến Thiên Di
Lộc Tồn, Hóa Lộc tốt thì hòa hai.
Vũ Lượng, Cự Phú chẳng sai.
Khúc, Xương, Tử, Phủ, Việt, Khôi, Khoa, Quyền.
Âm Dương, Tả, Hữu rất hiền.
Cùng là Đồng, Tướng gần miền qúy nhân.
Thiên Cơ lẩn thẩn khốn thân.
Nhược bằng ngộ cát, mười phần tốt thay.
Liêm Trinh nội trợ, ngoại hay.
Đi thì cũng lợi, mới tày Tham Lang.
Lại thêm dâm dục hoang tàn.
Vũ Tinh xuất ngoại thường thường đựơc yêu.
Cự Môn khẩu triệt đảo điên.
Nhi Phù, Phá Tú cũng miền thiên di.
Đoán rằng lộ thương, mai thi.
Phá Quân, Thất Sát ắt thì chẳng yên.
Tham Lang, Hóa Kỵ hợp miền.
Quán rằng lộ tử, chẳng tuyền được đâu.
Cự môn, linh, Hỏa Xung nhau.
Tử ư đạo lộ ra màu xo ro.
Liêm Phùng Quan Phủ, Quan Phù.
Ấy là tử nghiệp chẳng hòa được đâu.
Kìa như đạo lộ phải âu.
Bởi Liêm sát phá vào hầu thiên di.
Tu Sát đóng chính cung tường.
Ach nguy thêm lại hại đường tổ tông.
Vũ, Liêm chẳng khá đồng cung.
Luận rằng số ấy bần cùng ai qua.
Hỏa,Linh, Không, Kiếp Dương, Đà
Tham, Hình, Hóa Kỵ cùng là Khốc Hư.
Phá Quân phường ấy phải lo.
Thiên di cung ấy đoán cho kỹ càng.
8) Tật Ach Cung:
Tám là Tật Ach chẳng âu.
Âm Dương phản bối làm màu bất tinh.
Mệnh cung lại có không tinh.
Nhan manh mục tật, rành rành phải mang.
Phá, Liêm, Hình, Kỵ, đà, Lương.
Đã đau bên mắt, lại càng bệnh điên.
Khúc, Xương, Tả, Hữu vào miền.
Việt, Khôi, Tử, Phủ, Khoa, Quyền, Đồng Lương.
Lộc Tồn, Hóa Lộc một phương.
Om thì lại gặp thuốc thang, sợ gì.
Thiên cơ phải chứng thấp tê.
Nhược bằng gia Sát mạt thì vết ngang.
Phong đàm bệnh ấy liền liền.
Bởi sao Cơ,Vũ đóng miền Ach Phương.
Nhược bằng gia sát trỉ sang.
Thái Âm đau bụng, Thái Dương buốt đầu.
Gia Đà, Kỵ, Sát cũng rầu.
Đoán rằng mục tật, ấy hầu phải đau.
Phá Quan khí huyết bất điều.
Đồng, Lương Hàn, nhiệt là điều phải lo.
Tướng Tinh đau ở bì phụ.
Cự, Liêm, Nhật, Nguyệt, Hình thù cơ nghinh.
Đà La, Dương nhận ít yên.
Đau chân, nhức mắt chẳng hiền được đâu.
Dương, Đà, Phá, Ky mắt đau.
Bởi đường sao ấy gặp hầu Tham Lang.
Sát Tinh thấp khí yếu đau.
Tử Sát có bệnh bởi hầu Sát gia.
Tham Lang tật ách xông pha.
Lưng, Chân có bệnh, chẳng hòa được chăng.
Cự Môn mặt vết rõ ràng.
Chứ chi đối tật xấu chẳng hổ ai.
Kỵ, Hình đau mắt chẳng sai.
Dương, Đà, Linh ,Hỏa, cùng ngồi một phương.
Mặt kia có vết rõ ràng.
Lại thêm bệnh trĩ thường thường phải e.
9)Tài Bạch Cung:
Thứ chín kể đến cung tài.
Để mà thí nghiệm mấy lời kể ra.
Vũ, Lộc, Thiên Mã cùng gia.
Tử, Phủ, mà gặp phương xa nhiều tiền.
Tử Vi, Phu, Bất rất hiền.
Lâm quan tài bạch ngoài miền lợi danh.
Thai Âm mà với vũ tinh.
Luận bàn cũng phải rành rành chẳng sai.
Âm Dương, Tả, Hữu giáp lai.
Có sao Đế Vương cùng ngồi chính trung.
Luận làm dịch quốc phú phong.
Thiên Đồng, Cơ,Vũ, Tay không làm giàu.
Âm Dương tài vượng chẳng âu.
Nhược bằng hãm địa, có hầu lại không.
Sát tinh đóng Tí, Ngọ cung.
Họa tai hoạnh phát đùng đùng chứa chan.
Chủ cung phút hợp phút tan.
Lộc Tồn, Hóa Lộc giàu tràn vẻ vang.
Phá Quân tài tán chẳng thường.
Việt Khôi, Tả, Hữu, Khúc, Xương, Khoa Quyền.
Với sao Hóa Lộc ở miền.
Ấy là phát phúc, tài, điền vượng theo.
Liêm Trinh trước giở sau hay.
Lộc Tồn, Vũ Khúc đóng rày Tài cung.
Ấy là Đại phát Phú Ong.
Kiếp, Không ở đấy bần cùng chẳng sai.
Dương Đà Linh, Hỏa tán tài.
Hỏa, Hình, Hư, Khốc là loài như nhau.
10) Tử Tức cung.
Thứ mười Tử Tức kể bày.
Trước sinh nam tử, nhiều bày nam tinh.
Bắc tinh ấy gái trước sinh.
Nhật sinh kỵ nguyệt chiếm rành bản cung.
Dạ sinh kỵ Nhật chiếm chung.
Âm Dương lâm tí là vòng Khắc Xung.
Vắng sao chính diệu Tử Cung.
Phải tìm đối chiếu luận cùng mới xong.
Phủ vi, Đế Vượng, Thiên Đồng.
Khúc, Xương, TảHữu luận cùng năm tên.
Nhược bằng gia Sát cũng hèn
Tràng Sinh, Nhật Nguyệt, Lâm Quan một đoàn.
Tướng Lương, Quan Đới rõ ràng.
Ấy là cung được ba hàng thành thân.
Khoa, Quyền, Hóa Lộc tinh trần.
Việt, Khôi, Thiên Mã mười phần quy nhân.
Cự, Cơ , Liêm, Tử Phá Quân.
Bệnh, Thai, Mộc, Dưỡng, ấy phần có hai.
Suy thì có một mà thôi.
Dương, Linh, Đà, Hỏa cùng loài như sau.
Kiếp,Không, Gặp lại phải rầu.
Cũng như thất sát càng sầu cô đơn.
Ky Hình, Tử mộ một đoàn.
Và sao hư, Khốc phải phòng khắc xung.
Lộc tồn có một chẳng không.
Hoặc là lại gặp qua phòng con nuôi.
11) THÊ THIẾP CUNG
Mười một bàn đến Thê cung.
Nhân thê trí phú bởi phùng Thái Dương.
Âm phùng Hao tứ một phương.
Thành hôn chẳng lọ phải đường cưới xin.
Nhật, Đồng nhiều vợ mà hiền.
Kìa như Lộc Mã tại điền vượng thay.
Nguyệt phùng Xương, Khúc ngày rày.
Cung trăng bẻ quế xem tày lên tiên.
Tử Phù hòa hợp bách niên.
Đồng Cơ, trai gái kết nguyền cũng xinh.
Trai tơ gái trẻ đã rành.
Âm, Dương miếu địa sớm thành nhân duyên.
Nhược bằng hãm địa sau nên.
Vũ Tinh gia Sát mắc bên khiếm hòa.
Tướng, Lương sớm nổi thành gia.
Sát gia sắc đẹp lấy nhà trưởng nhân.
Khúc, Xương, Tả, Hữu, tinh trần.
Thông minh giai lão trăm phần tốt thay.
Lộc Tồn muộn vợ nhưng hay.
Tham lang sớm lấy người rày khắc xung.
Tham mà gia sát tối hung.
Phá Quân sớm khắc, ít lòng chính chuyên.
Liêm Trinh phải khắc ba tên.
Cự Môn, Thất Sát luận bàn cũng in .
Sát Tinh Xung Khắc đã quen.
Người ấy dâm dục về miền trăng hoa.
Khôi, Việt, Hóa Lộc, Quyền, Khoa
Quý nhân sánh mấy duyên ta tốt lành.
Linh tinh, Kỵ , Hỏa, Đà, Kình.
Khốc, Hư, Không, Kiếp đã rành khắc xung.
Nhựơc bằng cát tú Tương Phùng.
Cùng là giúp được vào vòng Thiền Ninh.
Tam phương mà gặp Sát, Hình
Ly hương kết phối rành rành chẳng sai.
12) Huynh Đệ Cung :
Mười hai Huynh Đệ bàn liền.
Triệt, Không cũng thấy trong miền bản cung.
Bắt đầu thì đoán khắc xung.
Hoặc gia địa kiếp Thiên Không chẳng nhiều.
Tướng Quân , Lộc, Mã cũng nhiều.
Anh em giàu có phú nhiêu được dùng.
Tướng Quân, Lộc, Lộc tương phùng.
Anh em có kẻ ở trong cửa quyền.
Tràng Sinh Đế Vượng lâm liền.
Anh em có kẻ tất nhiên an bài.
Đôi bên Nhật,Nguyệt giáp Thai.
Sinh đôi một đốt chẳng sai tí nào.
Vương Thai, Tuyết, Tướng thấu vào.
Anh em ắt có dị bào chẳng không.
Đào Hoa, Riêu, Hỷ trong cung.
Phá Quân tính xử đối xung ở ngoài.
Có chị em gái theo trai
Say mê đến nỗi hoang thai hổ mình.
Trong thì tướng, Phá, Phục Binh.
Ngoài thì Hoa cái cung tinh Đào, Hồng.
Anh em có kẻ dâm thông hẳn là.
Gặp sao Hóa Kỵ khiếm hòa.
Thiên Hình thường có trong nhà dành nhau.
Lộc, Mã buôn bán làm giàu.
Nhược bằng Cự, Tướng ra màu thổ công.
Tử Vi, Tả, Hữu, tương phùng.
Có chị em gái lộn chồng đi ra.
Thiên Khôi ba kẻ anh ta.
Thiên Việt ba kẻ em ta bày doan.
Xương, Khúc, Thai Tuế đều yên.
Có người xã trưởng khôn ngoan ai cùng.
Tuyệt, Không, Không Kiếp chính cung.
Hoặc gia cát hội lai phùng Dương tinh.
Luận làm nghĩa dưỡng anh em.
Hoặc thêm Đà, Nhận, Hỏa , Linh đoán cùng.
PHỤ ĐOÁN.
Luận Nữ Mệnh
Lại xem trong số đàn bà.
Cần là Tử Tức cùng là Phu Quân.
Gái hiền có phúc cóphần
Nữ nhân phú quý tấm thân nhờ chồng.
Mệnh mà phú quý vô dung
Điền, Tài lại cốt hai cung vẹn tuyền.
Phu Quân Thìn, Tuất cung nhàn.
Mệnh, Thân Dậu, Tuất muôn vàn kể chi.
Chép Nhật, ham chang khong.
Tử cung Nhật hãm chăng không.
Mệnh cung Hóa Kỵ ngại ngùng mây xâm.
Hồng Loan, Tử, Vượng đồng lân.
Phu Quân cung ấy, Mừng thầm vương thay.
Xem trong Tử tức cung này.
Nhị Minh (Nhật, Nguỵêt) Thiển Hỷ …..???hay rành
Phượng Long, đẹp đẽ, hiền lành.
Khốc, Hư táo tợn bụng rành hiếu trung.
Hỷ, Riêu đêm ngủ mơ mòng.
Tính hay dối trá, Kiếp, Không đóng đồn
Thai, Hoa , Ngộ Kiếp hiếm con.
Thai Phùng Nhật, Nguyệt lâm bồn song sinh.
Mã phùng Đào tú linh dinh.
Dương Phùng Thái Tuế e mình khẩu sai.
Ach cung e ngộ, Dưỡng, Thai.
Mệnh hiềm Nhật, Nguyệt, gập hai Dương, Đà.
Tấu Thủ, Hoa Cái lượt là.
Phượng Long,lấy được chồng là Quý Nhân.
Tướng Loan cung ngự phi tần.
Mộc, Cái thủ mệnh nhiều phần dâm phi.
Phu Quân có Tham Lang vì.
Chính tinh làm cờ, bàng thì làm hai.
Mệnh cung Xương, Khúc chiếu hai.
Dấu nhân duyên sớm những người dâm phong.
Lộc, Mã, Ích Tử vượng chồng.
Vì dòng Tử phủ ngự cung ra vào.
Thái âm hãm tử chẳng sao.
Thái Dương mà hãm lẽ nào có con.
Liêm Trinh gặp Tham gian ngoan,
Thiên Đồng ngộ nguyệt đồng đàn chắc thay.
Hóa Lộc tài bạch buôn may.
Thiên Riêu, Xương, Khúc ca ngày vuốt ve.
Trưởng huynh, huynh đệ, Tử Vi
Thiên Phủ tài bạch vậy thì phong danh.
Hao tài bởi có Thiên Hình.
Không Vong ngộ Mã quyết tình ly hương.
Phá Phùng Triệt Lộ chết đường.
Văn tinh sinh trể, văn chương dịu dàng.
Cát tinh hỏa chiếu rõ ràng.
Sinh con tai tướng vẻ vang anh hùng.
Nguyệt phùng phá, kỵ phúc cung.
Nữ nhân cả họ dân phong đó mà
Thiên Lương người béo đẫy đà.
Thiên Đồng dư dật rồi mà hiển vinh.
Hình, Hỏa mộc áp lôi kinh.
Phá Quân, Thái Tuế tụng đình giáp toa.
Loạn luân tương ngô, xiêu nhà kéo đi.
Sát, Phá, nghèo khổ có gì.
Tang Môn ngộ Hỏa có kỳ trung lai.
Phòng khi sông nước có kỳ chẳng yên.
Đào hoa ngộ Kiếp đắm thuyền.
Kình Dương, Linh, Hỏa cuồng điên hẳn là.
Cơ, Đồng, Phá, Triệt cùng gia
Có người phá cốt, chiết nha rành rành.
Ngọ an Mệnh, Tử Tướng tinh.
Đã hay chồng quý lại sanh con hiền.
Liêm Trinh thanh bạch giữ gìn.
Mệnh bên : Tỵ, Hợi, giao chiều Lương, Âm.
Thiên Cơ phá đảng, chẳng nhầm.
Góa chồng Vũ Khúc, chính dâm Kỵ mà.
Kiếp, Không, Tử Sát cùng gia.
Có Tham, Liêm, Sát chiếu ba phương vào.
Nhược bằng chiếu ở Phụ hao.
Ấy là tai họa, lao đao cả đời.
ĐOÁN VẬN NIÊN SINH, TỬ
Lại xem sinh, tử đoán niên.
Vận niên Thái Tuế, lưu niên cung nào.
Sát, Dương, Thương Phục, Không, Hao.
Hỏa Linh, Kỵ, Kiếp chiếu vào hạn trung.
Ghê thay Đại, Tiểu (hạn) trùng trùng.
Đế Tinh thụ hãm Không Vong đó mà.
Ấy là vận hạn khó qua.
Lại Tham, Sát, Phá, Trúc La thoát nào.
Đế, Tướng , tam hợp chiếu vào.
Họa may không chết, bởi sao cát phù.
Báo cho biết trước mà lo ….
PHỤ ĐOÁN TỔNG QUÁT
Mệnh, Thân và hạn tốt đều.
Càng gia càng được mỹ miều vinh xương.
Mệnh Thần và Hạn tương đương.
Xét ra xấu cả là phường hàn vi.
Giáp, Quý giáp Lộc rất kỳ.
Khoa, Quyền lưỡng giáp thật thì số hay.
Giáp Nhật, Giáp Nguyệt họa may.
Giáp ương, Giáp khúc số này rất sang.
Giáp Không, Giáp Kiếp lang thang.
Dương Đà, Lưỡng Giáp, nhỡ nhàng ăn xin.
Liêm Trinh sa sút rất hèn.
Vì chưng Tỵ, Hợi đóng miền Mệnh, Thân.
Thái Âm chiếu đến dạ phân.
Nhất sinh khoái lạc mười phần không sai.
Tiền bần, hậu phú mấy người.
Mệnh, Thân cung ấy giáp bày Vũ, Tham.
Hậu bần : Giáp Kiếp đã cam.
Lộc, Quyền (cư) Tài Phúc : xuất phàm vinh hoa, Cả đời bần tiện đó mà.
Kiếp, Không, Tài Phúc thật là không thay.
Khúc, Xương, nhiều học mà hay.
Tả Phụ, Hữu Bật khoan thai dễ dàng.
Phủ Tướng Y lộc khác thường.
Làm quan chắc hẳn nhiều đường hạnh thông.
Thất Sát triều đẩu hẳn phòng.
Vinh xương tước lộc tôn sùng biết bao.
Đồng cung Tử Phủ đóng vào.
Chung thân Phúc hậu lẻ nào chẳng hay.
Tử Vi cư Ngọ cùng dậy.
Bằng không Sát Phạm, ngôi này công khanh.
Thiên Phủ lâm Tuất sao Lành.
Đai vàng áo tía rành rành không sai.
Khoa, Quyền, Lộc, cũng mấy người.
Miểu Liên Vũ Khúc rõ mười hách danh.
Kìa như lộc ám, Khoa minh,
Quan sang đến tận quân hành Tam Thai.
Đồng lâm Nhật, Nguyệt số ai.
Quan cư hầu, đáng tài tước phong.
Lại nhờ Cơ, Cự đồng cung.
Ngòi rành, chắc hẳn đến vì công khanh.
Tham, Linh tịnh thủ ai bì.
Nổi danh tướng tướng thật thì vẻ vang.
Việt, Khôi cái thế văn chương.
Thiên Lộc, Thiên Mã nhẹ đường khoa danh.
Văn Xương, Tả Phụ cát tinh.
Ngôi sao bát vị hiển vinh trùng trùng.
Hỏa, Tham miếu vượng uy hùng.
Đồng cung Cự, Nhật quan Phong ba đời.
Triều viên Tử, Phủ mấy người.
Muôn chung hưởng được lộc trời tốt sao.
Khoa, Quyền đối cũng chiếu vào.
Vũ môn ba bực nhảy cao rành rành.
Khen cho Nhật, Nguyệt tịnh minh.
Cửu trùng cung điện, Hiển vinh giúp cùng.
Phủ Tướng đồng hội Mệnh cung.
Cả nhà ăn lộc, muôn chung sang giàu.
Số kia tam hợp minh châu.
Thiềm cung nhẹ bước điểm đầu chu y.
Phá Quân, Thất Sát hay đi.
Đồng, Lương, Cơ, Nguyệt thật thì lại nhan.
Tử, Tướng, Nhật, Nguyệt tinh trần.
Công hầu sỉ khí tiến thân cửu trùng.
Nhật, Nguyệt, Khoa, Lộc, Sửu cung.
Đoán là phương bá, cự công tiếng đồn.
Kìa như nhật chiếu lôi môn.
Vinh hoa phú quý cực tôn vô cùng.
Lại như Nguyệt lạc Hợi cung.
Gia quan, tiến chức , hầu phong đó mà.
Dần cung Thiên Phủ đồng gia
Ngôi thang nhất phẩm thật là vẻ vang.
Ngộ cùng Tả, hữu cùng phương.
Ngôi cao bát tọa rõ ràng hiển vinh.
Lương cư Ngọ vị quan thanh (liêm).
Khúc phùng Lương tú, ngôi dành Thai cương.
Dần, Thân mừng họp Đồng, Lương.
Cự môn Thìn, Tuất ngại đường hãm xung.
Lộc đảo, Mã đảo không vong.
Tử Vi vào hạn giải hung ác trừ.
Cự cư Mão vị làm sư.
Trinh cư Mão, Dậu, công tư tại tào.
Nhận cùng Vũ Khúc khéo sao.
Tham lang hãm địa, thớt dao bán hàng.
Cự Môn Tí, Ngọ tương đương
Thạch trưng ẩn ngọc rõ ràng quý nhân.
Tử Vi Thìn Tuất Phá Quân.
Phú nhi bất Quý chịu đường hư danh.
Phần nhiều lao lực, lênh đênh lạ lùng.
Tuất cung phản bội Thiên Đồng.
Tuổi Đinh hóa tốt, phú phong tiếng đồn.
Thìn, Tuất, hãm địa Cự Môn.
Tuổi Tân hóa tốt, lộc còn vẻ vang.
Dậu cung rất kỵ cơ lương.
Nhật, Nguyệt phản bội thanh quang mong gì.
Chu Bột làm tướng chính vì.
Tuần phùng Khoa, Lộc một khi đó mà.
Kìa người Giả Nghị đăng khoa.
Văn Tinh ám củng, thật là tốt thay.
Bất phong Lý Quảng xưa rày.
Kình Dương Lực Sĩ mệnh này gặp nhau.
Ong Nhan chẳng được sống lâu.
Văn Xương Lạc hãm, giữa đầu Thiên Thương.
Trong Do uy mãnh hùng cường.
Liêm Trinh nhập miếu gặp chàng Tướng Quân.
Tài năng Tử, Vũ tuyệt luân.
Đồng, Lương, Cự tú, Mệnh, Thân chiếu vào.
(Chép lại từ sách của tác giả Cam Vũ)