Ghi đại hạn cho lá số tử vi
Sau khi an xong hết các sao là ghi đại hạn ở trong thiên bàn để biết thời gian 10 năm một được hanh thông hay bế tắc. Điều quan trong là Đại hạn hướng dẫn người ta theo mức độ 100% so với tiểu hạn phải nằm trong đó chỉ có 10%. Nếu như ghi sai thì sự thành bại trật hết. Tôi thấy hiện hành có 2 cách ghi:
(a) Bắt đầu từ cung Mệnh tùy theo Cục và Dương nam, Âm nữ theo chiều thuận tới Phụ Mẫu, Phúc Đức … mỗi cung 1 giai đoạn, trái lại Âm nam, Dương nữ theo chiều nghịch đến Bào, Phu hay Thê …
(b) Bắt đầu từ cung Phụ Mẫu hoặc cung Huynh Đệ mà đi theo chiều thuận hay nghịch như trên có nghĩa là sai biệt một cung, như đáng lẽ từ Mệnh xuất phát , trường hợp này lại bắt đầu từ Phụ Mẫu hay Huynh Đệ khởi hành tức là trật 10 năm.
Tôi xin thưa là cách thứ hai (b) là sai 100% , Qúy vị độc giả đọc tiếp tới chỗ trình bày về vòng Thái Tuế thì sẽ thấy ngay đâu là trúng trật. Chỉ xin tóm tắt vì người tuổi gì khi tới đại hạn của năm tam hợp tuổi phải đắc thời, hanh thông không nhiều thì ít còn tùy theo một vài yếu tố như Tuần Triệt hay Không Kiếp và vị trí Mệnh, Thân, chứ không thể không có hài lòng.
MỆNH – THÂN
Người ta thường nói Mệnh là mạng người quy định chỉ có ảnh hưởng cho nửa cuộc đời về trước nghĩa là từ lúc ra đời cho tới tuổi ngoài 30. Còn Thân là cuộc đời nối tiếp thời gian của Mệnh cho tới khi nhắm mắt nhập thổ. Theo thiển kiến tôi nghĩ:
Mệnh là định mệnh theo khuôn viên đã sắp xếp cho cá nhân đó nhập thế cuộc ở vào một tình cảnh nào, giàu hay nghèo, thảnh thơi hay vất vả. Còn Thân là “TA” là hành động của cá nhân định mệnh đó, có chấp nhận theo định mệnh hay chống chọi lại. Đành rằng có số mệnh, cá nhân cũng có quyền suy tính hành động nên mới có trường hợp khôn dại đều chết chỉ biết là sống. Phải chăng số là cây kim la bàn luôn luôn giao động người biết thì thấy hướng mà đi, còn không thì ráng mà chịu. Là do Thân tùy theo vị trí Mệnh Thân đồng cung hay Thân ở Di, ở Phúc Đức, ở Quan Lộc, Phu Thê để cho người đó trình bày quyết định tư tưởng mình. Theo thời gian khi một người đã có tư tưởng để quyết định cho đời mình không có gì ràng buộc phải là tuổi ngoài 30. Vậy nếu Mệnh là định mệnh, Thân là TA hành động.
VỊ TRÍ MỆNH – THÂN
Một lá số đặt trước mặt không khác gì người đứng ngắm một ngôi nhà. Cái nhà này cao hay thấp, làm bằng vật liệu nhẹ hay đúc xi măng cốt sắt, có thuận tiện cho công việc làm ăn lập nghiệp không. Đó là vị trí của cung Mệnh, Thân an ở trong thiên bàn.
Mười hai cung trong thiên bàn không phải là nhất định cung này tốt, cung kia xấu. Sự xấu tốt phải tùy thuộc tuổi của người có số mà mệnh đã ngự tọa ở chỗ đất lành hay dữ cho tuổi đó.
Tuổi là tên năm sinh do hàng Can (Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý) và hàng Chi (Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi) phối hợp lại gọi là nạp âm. Ví dụ như tuổi Giáp- Tí, thiên can là Giáp, Địa chi là Tí, Nạp âm Giáp – Tí.
Vì lẽ đó phải chăng mới có 3 vòng Thái Tuế, Lộc Tồn, Tràng Sinh để phân tách Thiên can, Địa chi, nạp âm của tuổi đời với cung an Mệnh.
THÁI – TUẾ
Cung Thiên bàn đã ấn định tên vị trí theo địa chi nhất định. Lúc lấy số tuổi gì thì ghi Thái Tuế ở vào vị trí có tên của nó như người ta sinh ra đời ở trong đất nhà của mình hay đẻ đường lạc danh – bộ tùy theo Mệnh Thân có trúng tam hợp tuổi hay không?
Thái Tuế là ngôi vị có tính cách thịnh vượng cao cả của người thọ lãnh nhiệm vụ chủ quyền chỉ huy công việc có ảnh hưởng bao trùm sâu rộng trong quần chúng. Mệnh nào đóng trúng Thái Tuế hoặc trong tam hợp tuổi (Thái Tuế) của mình là người đó đã được sắp xếp mọi sự thỏa mãn như mình ở đất nhà mình, dầu tốt xấu gì cũng thuộc quyền của mình, mình toàn quyền sử dụng theo ý muốn không phải e dè ai như là người ở nhờ hay thuê mướn tức là thỏa mãn, hài lòng tùy theo vị trí mức độ để mình thụ hưởng, dĩ nhiên là nhà mình, mình ra công bù đắp, chứ không có ý phá hoại. Đó là tư –cách của cá –nhân ở vị trí Thái Tuế.
Người tuổi Dần Ngọ Tuất Mệnh ở trong tam hợp Dần Ngọ Tuất
Người tuổi Thân Tí Thìn Mệnh ở trong tam hợp Thân Tí Thìn
Người tuổi Tỵ Dậu Sửu Mệnh ở trong tam hợp Tỵ Dậu Sửu
Người tuổi Hợi Mão Mùi Mệnh ở trong tam hợp Hợi Mão Mùi
12 vị trí của vòng Thái Tuế
Thí dụ tuổi tí Mệnh được ở Tí cung là trúng ngay Thái Tuế. Ba vị trí của tam hợp là: (Hình 1)
– Thái Tuế : đầy lòng tự hào, coi mình như có sứ mạng làm việc chánh đáng.
– Quan Phù : hành động chánh đáng với suy tính kỹ càng, thận trọng.
– Bạch Hổ : gắng công làm việc chính đáng với bất kể giá nào.
Ba vị trí Tỵ Dậu Sửu của tuổi Tí là ba vị trí được hưởng sinh nhập (Hình 2)
– Thiếu Dương : sáng suốt hơn người
– Tử Phù : hơn người nhưng thường bị kẹt
– Phúc đức : muốn hơn người ăn chắc là phải có đức độ, trọng thần quyền đạo đức
Ba vị trí Dần Ngọ Tuất của tuổi Tí là 3 vị trí bị xung khắc tức là bất mãn (Hình 3)
– Tuế Phá : bất mãn, hận lòng muốn đả phá quật ngược
– Điếu Khách : bất mãn, thường hay lấy lời lẽ thuyết phục phân trần
– Tang Môn : bất mãn mà vẫn nặng lo toan tính toán
Ba vị trí Hợi Mão Mùi của tuổi Tí là 3 vị trí bị thua thiệt bị sinh xuất (Hình 4)
– Trực Phù : phải chịu thiệt thòi mà không được thù lao xứng đáng
– Thiếu Âm : dễ lầm lẫn, tin người mà thành khờ dại
– Long Đức : an ủi vì thua thiệt mà tu, bon chen cũng không đến đâu.
Vòng Thái Tuế đưa con người vào 12 thế đứng như trên của bốn tam hợp có nghĩa như sau:
Nhìn vào 4 hình vẽ:
HÌNH 1: Ba vị trí Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ luôn luôn được hưởng bộ sao Long Phượng Hổ Cái (thỉnh thoảng mới có ba) là bộ sao đưa người ta đến vinh dự hưng vượng may mắn bằng thế này hay thế khác tức là làm cho người ta thỏa mãn hài lòng.
HÌNH 2: Ba vị trí Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức luôn luôn có tam, tứ đức có nghĩa là định mệnh đã cho số được ở thế sinh nhập, tinh khôn hơn người thì số phải trọng nhân hậu đạo đức, nếu không chỉ Thiên Không (đứng sát với Thiếu Dương) thi hành sứ mạng nghĩa là cũng không đến đâu.
HÌNH 3: ba vị trí Tuế Phá, Tang Môn, Điếu Khách luôn luôn có Thiên Mã là nghị lực, mẫn cán có nghĩa là đương số ở trong tình trạng bất mãn chống đối phải cho họ có nghị lực, mẫn cán mới được việc, còn tùy theo Thiên Mã đó có phải của họ hay không lại là việc thành bại quyết định.
HÌNH 4: Ba vị trí Trực Phù, Thiếu Âm, Long Đức là ba vị trí bị sinh xuất thua thiệt, lầm lẫn, hữu công vô lao thường được an ủi bằng Lộc Tồn của tuổi Bính Đinh Mậu Kỷ Nhâm Quý tưởng không ngon lành gì. Nó chỉ là miếng mồi thơm nhưng ở trong đã có chất độc (Hà – Sát). Không ham, nên chọn con đường chánh đã vạch sẵn Long Đức là hơn hết (tự an ủi mà tu).
Vì lẽ vị trí tam hợp Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ là vị trí may mắn thuận tiện đi đến vinh quang, cho nên mỗi khi đại vận chuyển đến đó, bất kể là mệnh đóng ở vị trí nào (Tuế Phá, Thiếu Dương hay Trực Phù) người có số vẫn được hài lòng thỏa mãn. Như trên đã nói về phần ghi đại hạn thì cách thứ nhất (a) bắt đầu ghi ngay ở cung mệnh tuần tự theo chiều thuận hay nghịch mỗi khi gặp tam hợp Thái Tuế là phát vinh quang, là trúng thời gian tuổi thật của đương số.
(Tử vi nghiệm lý – tác giả Thiên Lương)