Chương 46: Quẻ TRẠCH THIÊN QUẢI
64 quẻ dịch lấy từ cuốn “Kinh Dịch – Đạo Của Người Quân Tử” của học giả Nguyễn Hiến Lê.
64 quẻ dịch lấy từ cuốn “Dịch Kinh Đại Toàn” của Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê.
64 quẻ dịch lấy từ cuốn “Bát Tự Hà Lạc – Lược Khảo” của Học Năng.
“Kinh Dịch – Đạo Của Người Quân Tử” của học giả Nguyễn Hiến Lê.
:::||: Trạch Thiên Quải (萃 cuì)
Quẻ Trạch Thiên Quải, đồ hình |||||: còn gọi là quẻ Quải (夬 guai4), là quẻ thứ 43 trong Kinh Dịch.
* Nội quái là ☰ (||| 乾 qian2) Càn hay Trời (天).
* Ngoại quái là ☱ (||: 兌 dui4) Đoài hay Đầm (澤).
Giải nghĩa: Quyết dã. Dứt khoát. Dứt hết, biên cương, ranh giới, thành phần, thành khoảnh, quyết định, quyết nghị, cổ phần, thôi, khai lề lối. Ích chi cực tắc quyết chi tượng: lợi đã cùng ắt thôi.
Tăng lên đến cùng cực thì tới lúc tràn đầy, nứt vỡ nên sau quẻ Ích tới quẻ Quải. Quải có nghĩa là nứt vỡ, lại có nghĩa là quyết liệt.
Thoán từ
夬: 揚于王庭, 孚號. 有厲, 告自邑.不利即戎, 利有攸往.
Quải: Dương vu vương đình, phu hiệu. Hữu lệ, cáo tự ấp, bất lợi tức nhung, lợi hữu du vãng.
Dịch: Quyết liệt: phải tuyên cáo tội ác của nó ở sân vua, lấy lòng chí thành mà phát hiệu lệnh. Có điều như sợ đấy, phải tự răn phe mình đã, đừng chuyên dùng võ lực, được như vậy thì sự nghiệp của mình càng tiến tới, có lợi.
Giảng: Chằm (Đoài) ở trên, trời (Càn) ở dưới, là nước chằm dân lên ngập trời, tất nhiên các đê ngăn nước phải nứt vỡ khắp nơi.
Lại thêm 5 hào dương tiến lên, quyết tâm trừ một hào âm ở trên cùng. Vì hai lẽ đó mà quẻ này đặt tên là Quải.
Quẻ này thuộc về tháng 3, âm sắp tiêu hết, suy đến cực rồi. Tuy nhiên vẫn phải đề phòng, phải tuyên bố tội ác của tội nhân trước công chúng, rồi lấy lòng chí thành để ban lệnh.
Mặc dầu vậy, vẫn có thể gặp nguy được (cổ nhân thật dè dặt! ) cho nên phải răn phe mình đoàn kết, hành động đàng hoàng, mà đừng nên chuyên dùng võ lực, vì ngoại quái là Đoài có nghĩa là hoà thuận, vui vẻ. Bốn chữ “lợi hữu du vãng” có sách giảng là “cứ như vậy – tức không dùng võ lực – mà tiến tới thì có lợi?
Thoán truyện giảng là: cứ tiến tới, đến khi trừ xong hào âm, chỉ còn toàn quân tử, thì mới là hoàn thành (cương trưởng nãi chung dã).
Đại tượng truyện khuyên nên ban phát lợi lộc cho dân, cũng do cái ý của ngoại quái là đoài: vui vẻ, thuận hoà.
Hào từ
1. 初九: 壯于前趾, 往, 不勝為咎.
Sơ cửu: Tráng vu tiên chỉ, vãng, bất thắng vi cữu.
Dịch: Hào 1, dương: mạnh (thăng ở ngón chân bước lên trước (tức hăng tiến lên trước), tiến lên mà không chắc thắng được là có lỗi.
Giảng: Hào này dương cương, hăng lắm, ở địa vị thấp nhất, tài còn non mà muốn tiến lên trước để diệt hào âm ở trên cùng, chưa chắc đã thắng mà cứ tiến lên là có lỗi (vì không lượng sức mình, không chuẩn bị kỷ).
2. 九二: 惕, 號, 莫夜有戎, 勿恤.
Cửu nhi: Dịch, hao, mạc dạ hữu nhung, vật tuất.
Dịch: Hào 2, dương: lo lắng mà hô hào các bạn (đề phòng) như vậy dù đêm khuya giặc có tới cũng chẳng sợ.
Giảng: Hào này dương cương, quyết tâm diệt tiểu nhân, mà đắc trung là biết lo lắng, đề phòng, cảnh cáo các bạn luôn luôn, khi vô sự mà như vậy thì khi giặc tới thình lình nữa đêm, cũng chuẩn bị sẳn sàng rồi, nên không sợ.
3. 九三: 壯于頄.有凶.君子夬夬.獨行遇雨, 若濡有慍, 无咎.
Cửu tam: Tráng vu quì (cừu), hữu hung, quân tử quải quải,
Độc hành ngộ vũ, nhược nhu hữu uẩn, vô cữu.
Dịch: Hào 3, dương: Cường bạo ở gò má (hiện trên mặt), có điều xấu. Người quân tử cương quyết (bỏ tiểu nhân): trước kia đã lỡ đi riêng một đường gặp mưa ướt và lấm, bị bạn bè giận, bây giờ cải quá, sẽ không có lỗi.
Giảng: Hào này là dương cương nhưng bất trung, lại ứng với hào âm (tiểu nhân), thì kẻ tiểu nhân đó không ưa mà ngay các bạn quân tử của 3 cũng không ưa, (vì cho là giả dối?), có điều xấu đấy – Câu đầu: “Tráng vu quì, hữu hung” tối nghĩa, mỗi sách giảng một cách mà đều lúng túng.
Hào từ khuyên cứ thật cương quyết bỏ hào trên cùng đi, đánh đổ nó đi; trước kia lỡ thân với nó mà xa các bạn, như một người đi riêng một đường, gặp mưa, ướt và lấm (ý nói mắc tội lỗi), bị bạn bè giận, bây giờ hợp lực với bạn, diệt xong hào âm đó rồi, sẽ rửa sạch được lỗi.
4. 九四: 臀无膚, 其行次且, 牽羊悔亡, 聞言不信.
Cửu tứ: Đồn vô phu, kì hành tư thư, khiên dương hối vong, văn ngôn bất tín.
Dịch: Hào 4, dương: Như bàn toạ mà không có da (có người cho là không hợp có lớp thịt sau da), đi chập chững (khó khăn); chỉ nên đi sau người ta như người lùa bầy cừu, thì hết ân hận; (nhưng e rằng) nghe (ta) nói mà chẳng tin đâu.
Giảng: Hào dương này bất trung bất chính, ở vào vị âm, thấy mấy hào dương kia tiến nó không lẽ ngồi im, nhưng thiếu tài, tiến chập chững (như người bàn toạ không có da), chỉ có cách tốt nhất là nhường cho các hào dương kia tiến trước, nó đi sau cùng như người lùa bầy cừu, như vậy không ân hận.
Nhưng nó ở vị nhu, không sáng suốt, cho nên khuyên nó vậy mà không chắc nó đã nghe.
5. 九五: 莧陸, 夬夬, 中行, 无咎.
Cửu ngũ: Nghiễn lục, quải quải, trung hành, vô cữu.
Dịch: Hào 5, dương (Hào trên cùng) như rau sam (được nhiều âm khí), nếu hào 5 cương quyết, đào tận gốc nó, cứ theo đạo trung mà đi thì không lỗi.
Giảng: Hào này ở gần hào trên cùng, gần tiểu nhân (âm, ví như rau sam), như vậy không tốt; nhưng may nó là dương cương , đắc trung đắc chính, nên không bịn rịn với hào trên cùng mà quyết tâm trừ đi. Hào từ khuyên phải giữ đạo trung thì mới không có lỗi (vì 5 vốn có tư tình với hào trên)
6. 上六: 无號, 終 有凶.
Thượng lục: vô hào, chung hữu hung.
Dịch: Hào trên cùng, âm: Đừng kêu gào, không ai giúp đâu, cuối cùng sẽ bị hoạ.
Giảng: Hào âm ở trên cùng quẻ Quải, bị 5 hào dương tấn công, nguy cơ tới rồi, không có hào nào giúp nó cả, cho nên khuyên nó đừng kêu gào vô ích, cuối cùng sẽ chết thôi.
***
So sánh quẻ Quải này với quẻ Phục chúng ta thấy dụng ý của cổ nhân. Quẻ Phục có 5 tiểu nhân kình với một quân tử trong số đó có một tiểu nhân (hào 4) làm nội ứng cho quân tử cho nên được khen là một mình biết trở lại điều phải. Quẻ Quải, trong số 5 quân tử đuổi một tiểu nhân, cũng có một quân tử (hào 3) thân thiện với tiểu nhân, cho nên khuyên là phải cương quyết tuyệt giao với tiểu nhân đi thì sẽ không có lỗi; còn hào 5 tuy không chính ứng với tiểu nhân, nhưng vì là ngôi chí tôn, cầm đầu phe quân tử, mà lại ở gần tiểu nhân (hào 6) cho nên cũng khuyên phải cương quyết diệt tiểu nhân thì sẽ không có lỗi. “Dịch vị quân tử mưu” là vậy.
“Dịch Kinh Đại Toàn” của Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê.
43. 澤 天 夬 Trạch Thiên Quải
Quải Tự QuáiÍch nhi bất dĩ tất quyết.Cố thụ chi dĩ quải.Quải giả quyết dã. | 夬 序 卦益 而 不 已 必 決故受 之 以 夬夬 者 決 也 |
Dịch: Quải Tự Quái
Tăng mà tăng mãi, có lần nứt thôi.
Cho nên Quải mới tiếp ngôi
Quải là nứt rạn, vỡ rời, tan hoang.
Tăng mãi có lúc rạn nứt, nước tức quá ắt phải vỡ bờ, nên sau quẻ Ích là quẻ Quải. Tự Quái giải nghĩa chữ Quải là quyết, mà quyết là khơi tháo, là vỡ bờ; theo Từ nguyên Quyết có nghĩa là phân chia. Quẻ Quải trên là hồ, dưới là trời, nước hồ dâng chất ngất lưng trời, sẽ đưa đến cảnh tức nước vỡ bờ, vì thế Quải là vỡ lở.
Quẻ Quải trên có 1 Hào Âm, dưới có 5 Hào Dương. Một Hào Âm lộng quyền, đè nén quần Dương; quá quắt lắm, sẽ tức nước vỡ bờ, làm cho quần Dương nổi lên thanh toán Hào Âm. Áp dụng vào triền năm, Quải tượng trưng cho tháng 3 ta, lúc mà Dương khí đang thời kỳ thịnh, Âm khí đang thời kỳ suy. Tóm lại ý tứ quẻ Quải, ta kết luận:
-Quải là Dương thanh toán Âm.
-Quân tử thanh toán tiểu nhân.
-Trung thần thanh toán gian thần tại triều ca.
I. Thoán.
夬. 揚 于 王 庭 . 孚 號 . 有 厲 . 告 自 邑 . 不 利 即 戎 . 利 有 攸 往 .
Thoán từ.
Quải. Dương vu vương đình. Phu hiệu. Hữu lệ. Cáo tự ấp. Bất lợi tức nhung. Lợi hữu du vãng.
Dịch.
Quải là quyết diệt tiểu nhân,
Giãi bầy ủy khúc trước sân triều đình,
Hô Hào thanh thế cho mình,
Hô Hào bằng cách chân thành, chính trung.
Cũng nên lo sợ, đề phòng,
Báo cho trong ấp biết công việc mình.
Chẳng nên điều động đao binh,
Tính toan như vậy tốt lành biết bao.
Như trên đã nói, Quải là trung thần muốn diệt trừ gian thần. Muốn diệt trừ gian thần phải:
1. Hỏi tội nó trước triều đình (Dương vu vương đình)
2. Phải vận động, hô hào quần thần nổi lên, một lòng chống đối (phu hiệu)
3. Phải lo lắng, đề phòng vì gian thần có thể quật khởi, phản công.(hữu lệ)
4. Mình phải ngay chính để gian thần không bắt lỗi mình được.(cáo tự ấp)
5. Không nên dùng tới quân lực (Bất lợi tức nhung). Được như vậy tiến hành công chuyện mới tốt. (lợi hữu du vãng.)
Thoán Truyện. Thoán viết:
彖 曰. 夬. 決 也 . 剛 決 柔 也 . 健 而 說 . 決 而 和 . 揚 于 王 庭 . 柔 乘 五 剛 也 .孚 號 有 厲 . 其 危 乃 光 也 . 告 自 邑 . 不 利 即 戎 . 所 尚 乃 窮 也 . 利 有 攸 往 . 剛 長 乃 終 也 .
Quải. Quyết dã. Cương quyết nhu dã. Kiện nhi duyệt. Quyết nhi hoà. Dương vu Vương đình. Nhu thừa ngũ cương dã. Phu hiệu hữu lệ. Kỳ nguy nãi quang dã. Cáo tự ấp. Bất lợi tức nhung. Sở thượng nãi cùng dã. Lợi hữu du vãng. Cương trưởng nãi chung dã.
Dịch. Thoán rằng:
Quải là quyết diệt tiểu nhân,
Dương cương quyết diệt nhu Âm bấy chầy.
Mạnh mà vui vẻ, mới hay,
Đã vừa cương quyết, vả nay ôn hòa.
Giãi bầy ở chốn triều ca,
Vì Nhu cưỡi cổ những là năm Dương.
Hô Hào vả lại lo lường,
Là vì nguy hiểm rõ ràng chẳng sai.
Báo cho dân ấp trong ngoài,
Vả đừng nên tính đến bài đao binh.
Thích dùng binh cách chiến tranh,
Sẽ gây bế tắc, tốt lành chi đâu?
Làm đi, lợi sẽ theo sau,
Thuần Dương vận ấy, đáo đầu chẳng sai.
Thoán Truyện định nghĩa: Quải là thanh toán. Cương thanh toán Nhu (Quyết dã. Cương quyết Nhu dã). Cương quyết như trung thần muốn thanh toán gian thần, phải mạnh bạo, nhưng vẫn tươi vui, cương quyết nhưng vẫn giữ được hòa khí (Kiện nhi duyệt. Quyết nhi hòa).
Gian thần là quan lớn trong triều ca, nhiều khi lại đứng đầu quần thần, vì thế muốn thanh toán nó, cần phải hài rõ tội lỗi nó trước triều đình (Dương vu Vương đình. Nhu thừa ngũ cương dã). Làm công chuyện ấy chính là cỡi đầu voi dữ, nên phải viện vây cánh cho đông, phải lo lắng đề phòng, vì nguy hiểm quá rõ vậy (Phu hiệu hữu lệ. Kỳ nguy nãi quang dã). Muốn đàn hạch người, trước tiên mình phải trong trắng (Cáo tự ấp). Và cũng không nên dùng đến binh cách là con đường cùng vậy (Bất lợi tức nhung. Sở thượng nãi cùng dã). Thanh toán được gian thần, thì trung thần mới có thể tiến lên làm điều ích quốc, lợi dân lâu dài (Lợi hữu du vãng. Cương trưởng nãi trung dã).
Lịch sử đã cho ta nhiều ví dụ điển hình: Đời vua Tống Nhân Tông, Bao Công đã diệt Quách Hòe và Lưu Thái hậu về tội ly miêu hoán chúa.
Hoặc Bao Công thanh toán Bàng Hồng là Thái sư, và đồng thời là Quốc cữu, và Bàng phi là sủng phi của vua Nhân Tôn, về tội đã liên kết với Liêu chúa để hãm hại Địch Thanh, 1 danh tướng đương triều, và hưng binh xâm phạm Trung Quốc. Muốn thanh toán Bàng Hồng, Bao Công phải tìm ra bao chứng cớ để buộc tội Bàng Hồng đã dựa vào thế lực của Bàng Quí phi để làm bậy, như tư thông với ngoại quốc, ăn hối lộ của ngoại quốc, để bầy mưu giết Địch Thanh.
Vua Nhân Tôn vì quá yêu Bàng Quí phi, nên nhất định che chở cho Bàng Hồng và Bàng Quí phi; nên Bao Công đã phải vận động đến mấy bà Thái Hậu và cả triều thần, mới có thể xử giảo được Bàng Quí phi, chém Bàng Hồng và con rể là Tôn Tú.
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 . 澤 上 于 天 . 夬. 君 子 以 施 祿 及 下 . 居 德 則 忌 .
Tượng viết:
Trạch thượng ư thiên. Quải. Quân tử dĩ thi lộc cập hạ. Cư đức tắc kỵ.
Dịch. Tượng rằng:
Hồ nước lưng trời,
Nước dâng, nước bốc lại rơi xuống trần.
Nên người quân tử thi ân,
Trau dồi đức độ, chẳng phân lơ là.
Nước hồ mà dâng cao lưng trời, sẽ đổ xuống trần gian. Người quân tử luôn bắt chước đó mà đổ ân trạch xuống cho muôn dân, có vậy mới vững ngôi. Lại nữa, trong vấn đề tu nhân, tích đức, người quân tử chẳng khi nào nên ngưng nghỉ. (Trạch thượng ư thiên. Quải. Quân tử dĩ thi lộc cập hạ. Cư đức tắc kỵ).
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
Hào từ dạy đường lối phải theo, khi muốn diệt trừ gian thần.
1. 初 九 . 壯 于 前 趾 . 往 不 勝 為 吝 .
象 曰 . 不 勝 而 往 . 咎 也 .
Hào Sơ Cửu. Sơ Cửu.
Tráng vu tiền chỉ. Vãng bất thắng vi cữu.
Tượng viết: Bất thắng nhi vãng. Cữu dã.
Dịch.
Mạnh mà mạnh ở ngón chân,
Đi mà không thắng, nên lầm, nên sai.
Tượng rằng: Không thắng mà đi,
Đi không sửa soạn, nên chi lỗi lầm.
Hào Sơ Cửu là chỉ 1 người ở địa vị thấp thỏi. Mình đã thấp thỏi như vậy, mà lăm le muốn diệt một đại thần gian ác, thì có khác nào một người chỉ mạnh nơi ngón chân, đâu biết rằng không thắng mà vẫn làm, vẫn tiến, là lầm lỗi vậy (Tráng vu tiền chỉ. Vãng bất thắng vi cữu).
Đời vua Đường Túc Tông, có Mai Khôi vẫn là 1 vị khoa bảng. Sau mười mấy năm làm tri huyện, mới được triệu về kinh làm chức Lại Bộ đô cấp sự; Mai Khôi là 1 vị quan hết sức thanh liêm. Thuở ấy Thừa Tướng trong triều là Lư Khởi, là 1 đại gian thần, được vua sủng ái, nên làm rất nhiều điều sằng bậy. Mai Khôi nhất định ra mặt chống đối. Về kinh có mấy ngày, ông đã ra mặt khinh khi phỉ báng Lư Khởi. Gặp ngày Lư Khởi ăn lễ hạ thọ, các quan văn võ đều đến khánh hạ và đem lễ mừng. Mai Khôi mang đến 3 cân bột khoai, và 1 cặp đèn. Khi vào bàn tiệc, Mai Khôi hết lời mắng nhiếc Lễ Bộ Thượng Thư Hoàng Tung là con nuôi Lư Khởi. Cũng vì sự dại dột đó, mà Lư Khởi và Hoàng Tung bầy mưu, khiến vua đem Mai Khôi ra xử tử , rồi lại truyền bắt hết cả gia quuyến. Đó thật là: Bất thắng nhi vãng. Cữu dã.
2. 九 二 . 惕 號 . 莫 夜 有 戎 . 勿 恤 .
象 曰 . 莫 夜 有 戎 . 得 中 道 也 .
Hào Cửu nhị. Cửu nhị.
Dịch Hào. Mộ dạ hữu nhung. Vật tuất.
Tượng viết: Hữu nhung vật tuất. Đắc trung đạo dã.
Dịch.
Những là lo lắng, hô hào,
Dẫu đêm có giặc, chi nào có lo.
Tượng rằng: Có giặc chẳng lo,
Là vì xử sự hợp như đạo trời.
Hào Cửu nhị: khuyên muốn diệt gian thần, phải biết lo sợ, biết vận dụng khéo léo cho mọi người theo mình (Dịch Hào) Được như vậy, mình không còn lo bất trắc, ví như 1 vị tướng quân, biết gia tâm phòng bị, nên dầu có giặc tấn công ban đêm cũng chẳng có lo (Mộ dạ hữu nhung. Vật tuất.) Tại sao không lo? Chính vì mình đã hành xử chu toàn, vẹn hảo (Hữu nhung vật tuất. Đắc trung đạo dã).
3. 九 三 . 壯 于頄. 有 凶 . 君 子 夬夬. 獨 行 遇 雨 . 若 濡 有 慍 . 無 咎 .
象 曰 . 君 子 夬 夬. 終 無 咎 也 .
Hào Cửu tam. Cửu tam.
Tráng vu quỳ. Hữu hung. Quân tử quyết quyết. Độc hành ngộ vũ. Nhược nhu. Hữu uẩn. Vô cữu.
Tượng viết: Quân tử quyết quyết. Chung vô cữu dã.
Dịch.
Mạnh mà sắc mặt lộ ra,
Lộ ra sắc mặt, hẳn là chẳng hay.
Trừ gian đã quyết dạ này,
Nhưng ngoài mặt vẫn bắt tay với thù.
Y như đơn độc dầm mưa,
Ướt dầm, bè bạn đâm ra ghét mình.
Nhưng sau khi chuyện đã thành,
Mới hay ta vẫn anh minh, chẳng nhầm.
Tượng rằng: Quân tử quyết lòng,
Rồi ra âu cũng sẽ không lỗi lầm.
Hào Cửu tam: Muốn diệt trừ gian thần, cơ mưu phải kín đáo, không nên để lộ ra sắc diện. Ghét người mà để lộ ra sắc mặt là rất nguy, vì ắt sẽ bị gian thần phản công (Tráng vu quì. Hữu hung. Người quân tử trong dạ đã nhất quyết diệt gian thần (Quân tử quyết quyết), bề ngoài nhiều khi vẫn phải o bế gian thần, như vậy danh dự mình đôi khi cũng bị thương tổn, chẳng khác nào 1 người chịu dầm mưa một mình, đến nỗi bị ướt hết. (Độc hành ngộ vũ. Nhược nhu). Nhiều người không hiểu đường lối mình sẽ ghét mình (Hữu uẩn), dầu vậy cũng chẳng có lỗi (Vô cữu). Mình mà quyết tâm diệt gian thần, cuối cùng mọi người sẽ biết, nên chẳng lỗi gì.
Tượng viết: Quân tử quyết quyết. Chung vô cữu dã. Vương Doãn muốn dùng Lã Bố giết Đổng Trác, bèn ra sức o bế Lã Bố và đem Điêu Thuyền hứa gả cho Lã Bố, rồi lại đem gả cho Đổng Trác, dạy Điêu Thuyền bắt tình với cả 2 cha con Đổng Trác, Lã Bố để gây thâm thù giữa 2 người. Đến sau quả nhiên Lã Bố giết Đổng Trác.
4. 九 四 . 臀 無 膚 . 其 行 次 且 . 牽 羊 悔 亡 . 聞 言 不 信 .
象 曰. 其 行 次 且 . 位 不 當 也 . 聞 言 不 信 . 聰 不 明 也 .
Hào Cửu Tứ. Cửu tứ.
Đồn vô phu. Kỳ hành thứ thư. Khiên dương hối vong. Văn ngôn bất tín.
Tượng viết: Kỳ hành thứ thư. Vị bất đáng dã. Văn ngôn bất tín. Thông bất minh dã.
Dịch.
Như mông mà chẳng có da,
Cho nên đi lại vật vờ, lết lê.
Nếu làm được chuyện lùa dê,
Âu là tránh được kẻ chê, người cười.
Nghe lời, nhưng chẳng tin lời.
Tượng rằng: Đi đứng lết lê,
Là vì chẳng được xứng bề vị ngôi.
Nghe lời, mà chẳng tin lời,
Khôn thời đành có, ngoan thời đành không.
Lục tứ là một hạng người do dự, khi cả đình thần muốn diệt trừ gian thần; nhưng do dự không dám xử trí ra sao, ấm ớ không có thái độ rứt khoát. Họ như một người mà mông chẳng có thịt, nên đứng ngồi chẳng yên (Kỳ hành thứ thư). Kỳ hành thứ thư là đi lại khó khăn. Giả sử, ho đóng được vai trò lùa dê thì cũng khả trợ. Theo đuôi, vì người chăn dê lùa dê đi trước, còn mình theo sau. Đàng này họ kém sáng suốt, có người giải cho nghe điều hơn, lẽ thiệt thì cũng không tin (Văn ngôn bất tín). Họ là những người không xứng ngôi, xứng vị, nên không biết xoay sở thế nào cho phải. Người khuyên hay cũng chẳng tin theo, như vậy có khôn mà chẳng có ngoan (Kỳ hành thứ thư. Vị bất đáng dã. Văn ngôn bất tín. Thông bất minh dã).
Hào Cửu tứ này làm ta liên tưởng tới Vương Bỉnh. Đời vua Tống Nhân Tông, Vương Bỉnh làm Hình Bộ Thượng Thư, vốn được tiếng là công bình, chính trực. Vương Bỉnh được triều đình giao phó cho việc tra án Quách Hoè.
Vương Bỉnh thấy vụ án động chạm đến Lưu Thái Hậu, nên sợ hãi , không dám xử công minh. Nhân lại nhận được mật chiếu và vàng bạc của Lưu Thái Hậu, nên Vương Bỉnh nhất định dấu tội cho Quách Hòe. Lúc đem Quách Hòe ra xử, thì lại xử ban đêm, không cho ai được vào chứng kiến. Quách Hòe thật thì đem dấu dưới gầm bàn, lại dùng một tử tội giả làm Quách Hòe, bắt quì trước công đường mà khảo đả, để che mắt thế gian. Hay đâu, Bao Công đi tuần tra, vào khám phá được mưu gian, liền bắt giam cả bọn và trình nội vụ lên thiên tử. Vương Bỉnh sau bị chết chém.
5. 九 五. 莧 陸 . 夬夬 .中 行 無 咎 .
象 曰 . 中 行 無 咎 . 中 未 光 也 .
Hào Cửu ngũ. Cửu ngũ.
Hiện lục. Quyết quyết. Trung hành vô cữu.
Tượng viết: Trung hành vô cữu. Trung vị quang dã.
Dịch.
Rau sam cương quyết diệt trừ,
Theo đường lối phải, chẳng lo lỗi lầm.
Tượng rằng: Theo đường phải hết lỗi lầm,
Nghĩa là chưa được thập phần quang minh.
Cửu ngũ dạy, đã diệt trừ gian thần, phải cho cương quyết, phải trảm thảo, trừ căn vì gian thần như loài rau sam, rất dễ sinh lại. Vì thế mình phải hành xử sao cho khéo, mới khỏi lỗi lầm. Cửu ngũ nơi đây cũng chưa được thập phần quang minh, vì thế phải khuyên hãy xử sao cho khéo léo (Trung hành vô cữu. Trung vị quang dã).
Tiết Cương, sau khi bắt được Trương quân Tả, Trương quân Hữu và Võ Tam Tư liền đem ra pháp trường xử chém. Trình Giảo Kim xin tha cho Võ Tam Tư. Tiết Cương nghe lời, liền sai đánh Võ Tam Tư mấy chục hèo rồi tha. Sau Võ Tam Tư tư thông với Vi Hậu, đầu độc vua Trung Tôn,và định soán ngôi nhà Đường. Tiết Cương, Tiết Cường lại một phen huy động binh đao mới bắt, và giết được Võ Tam Tư và Vi Hậu.
6. 上 六. 無 號 . 終 有 凶 .
象 曰 . 無 號 之 凶 .終 不 可 長 也 .
Hào Thượng Lục. Thượng Lục.
Vô Hào. Chung hữu hung.
Tượng viết: Vô Hào chi hung. Chung bất khả trường dã.
Dịch.
Hô Hào mà chẳng ai theo,
Cuối cùng sẽ bị những điều họa hung.
Tiểu nhân cũng lúc phải dùng,
Làm sao trường thịnh, mà mong cửu trường.
Thượng Lục chỉ những gian thần khi đã hết thời, van xin lúc ấy cũng vô ích, chẳng còn có ai thương, ai nghe. Và cuối cùng sẽ gặp hung họa (Vô Hào chi hung. Chung bất khả trường dã).
ÁP DỤNG QUẺ QUẢI VÀO THỜI ĐẠI
Trong Chính quyền, cũng như trong bất kỳ đoàn thể nào cũng có những con chiên ghẻ, những người xấu. Những người này nhiều khi có thế lực rất mạnh, rất khó trừ. Kinh Dịch khuyên ta nên trừ khử những kẻ gian ác ấy.
Vào thời Quải, tức là thời đời sống gần như là đã Thuần Dương, chỉ còn sót lại có một Âm, y như khi ta mặc một chiếc áo trắng, mà lại có một vết đen lớn ở giữa ngực, thì trông sao được, do đó ta phải tẩy sạch nó đi.
Ta có thể lấy một thí dụ điển hình ngay ở Mỹ này. Gần đây, có vụ Thượng Nghị sĩ Jack Reeves, 56 tuổi, bị kết án 99 năm tù, tại Dallas (Texas), vì cách đây 18 năm đã giết bà vợ cả là Sharon. Trước kia cảnh sát đã cho rằng bà Sharon đã tự tử bằng súng. Tháng 1/1996, ông bị kết án 18 năm tù, và ngày 4 tháng 8/1996, ông lĩnh thêm một bản án mới 99 năm tù, vì đã giết thêm bà vợ thứ tư là Emilita. Ông Reeves khai là ông không hề giết vợ và đã chống án. Nếu sự việc trên mà đúng, thì theo tôi ông đáng bị tử hình.
Thời vua Càn Long (Trung Hoa), có đại thần là Hòa Thân, chuyên môn nhận hối lộ, hắn giầu có hơn cả triều đình. Phải đợi đến đời Gia Khánh (kế Càn Long), mới diệt được Hòa Thân.
Như vậy, ta thấy từ xưa tới nay, dân đều muốn rằng những người cầm đầu phải là những người trong sạch, hoàn hảo. Còn người trên thì bao giờ cũng che đậy cái xấu, cái dở của mình. Nên muốn trừ diệt họ, phải đợi thời cơ, và tìm bằng chứng tội ác của họ.
“Bát Tự Hà Lạc – Lược Khảo” của Học Năng.
43.Trạch thiên quải
Ðại cương:
Tên quẻ: Quải là Quyết (quyết đấu, quyết tâm, quyết nghị, quyết đoán…)
Thuộc tháng 3.
Lời tượng
Trạch thướng ư thiên: Quải. Quân tử dĩ thi lộc cấp hạ, cư đức tắc kỵ.
Lược nghĩa
Nước đầm dâng lên đến tận trời là quẻ Quải. Người quân tử lấy đấy mà ban phát lợi lộc cho khắp bên dưới (1 hào âm bố thí xuống 5 hào dương) ở nơi đạo đức thì phải biết kiêng sợ lầm lỗi).
Hà Lạc giải đoán
Những tuổi Nạp giáp:
Giáp hoặc Nhâm: Tý, Dần, Thìn
Đinh: Hợi, Dậu, Mùi
Lại sanh tháng 3 là cách công danh phú quý, Kiền Đoài đều là Kim, sanh mùa thu cũng được mùa.
THƠ RẰNG:
Phong lưu bố thí rất nên,
Đại nhân cùng gập hết liền gian nguy
Hào 1:
Tráng vu tiền chỉ, vãng, bất thắng vi cữu. Ý HÀO: Liệu không thắng nổi mà đi đụng kẻ tiểu nhân thì khó tránh nguy biến.
MỆNH – HỢP – CÁCH: Xem thời rồi hãy tiến, thấy nguy liền tránh, tuy không thành đạo tế thế được cũng toàn được thân, tránh được họa.
MỆNH – KHÔNG – HỢP: Vô đức mà cứ sính chí khoe tài, Phận dưới mà cứ tranh chèo, họa sinh tới tấp.
XEM – TUẾ – VẬN: _Quan chức: Bị hành xích vì bạo động. _Giới sĩ: Mưu đồ bạt mạng nên bị oán trách. _Người thường: Lo cái họa làm liều.
Hào 2:
Dịch, hào, mộ dạ hữu nhung, vật tuất. Ý HÀO: Có phòng bị cả rồi thì không lo nữa.
MỆNH – HỢP – CÁCH: Sửa trị từ lúc chưa loạn, bảo vệ nước từ lúc chưa nguy, đạo trung cảm được dân, uy tín ngăn bạo, văn thành tên tuổi, võ có công lao.
MỆNH -KHÔNG – HỢP: Ða mưu, đa biến, lo mừng bất thường, hoặc lập công hưởng lộc, theo quân, có danh.
XEM – TUẾ – VẬN: _Quan chức: Phần nhiều nắm quyền quân đội. _Giới sĩ: Ðược tuyển vào ngành võ hoặc bán quân sự. _Người thường: Hay kinh sợ nạn giặc cướp.
Hào 3:
Tránh vu quì, hữu hung, quân tử quyết quyết, độc hành ngộ vũ, nhược nhu, hữ uẩn, vô cữu. Ý HÀO: Muốn quyết tính kẻ tiểu nhân, phải khôn khéo, đừng cương quá.
MỆNH – HỢP – CÁCH: Tài đại chí cương, cơ sâu lo xa vì nước trừ hại, làm lành phong tục, công danh rất mực.
MỆNH – KHÔNG – HỢP: Hăng đấu tranh, chuốc oán mua hờn, cô độc lo lắng.
XEM – TUẾ – VẬN: _Quan chức: Vất vả về trừ gian. _Giới sĩ: Giận đời, ngược thế. _Người thường: Hay thưa kiện. Ðại để nên theo thiện. Tránh tà, trước gian nan, sau an tĩnh.
Hào 4:
Ðồn vô phu, kỳ hành từ thư, khiên dương hối vong, văn ngôn bất tín. Ý HÀO: Chưa khéo, nên bảo cho cái thật quyết- tính bọn tiểu nhân.
MỆNH HỢP CÁCH: Tài đức, trí thức cũng khá mà không sính khôn tranh đi trước, nghe điều thiện biết theo, lập được công danh.
MỆNH KHÔNG HỢP: Cố chấp mê muội, lỡ việc hoặc điếc què, hoặc sinh nhai nghề chăn nuôi.
XEM TUẾ VẬN: Quan chức: Bị ruồng bỏ vì bất lực. Giới sĩ: Ðỗ bét ở bằng cao (ngày xưa điện thí). Người thường: Kiện tụng, bị đòn hoặc bệnh ngứa lở, trĩ, hoặc tật ách ở tai, chân, khó đi.
Hào 5:
Nghiện lục, quyết- quyết, trung thành vô cữu. Ý HÀO: Răn bậc nguyên thủ phải quyết tâm đối phó với kẻ tiểu nhân.
MỆNH HỢP CÁCH: Sáng suốt không bị mưu gian của kẻ tiểu nhân, nghiêm túc về quốc pháp dân phong, nên công lớn phúc dầy.
MỆNH KHÔNG HỢP: Nhút nhát, không quả quyết, thiên lệch không hợp đạo trung, ưa thí những ơn huệ nhỏ để mang tai họa.
XEM TUẾ VẬN: Quan chức: Phòng gian nịnh làm hại. Giới sĩ: lợi nhỏ. Người thường: Kinh doanh đắc ý. Kiện được thân bầy phải trái. Bệnh khỏi.
Hào 6:
Vô hào chung hữu hung. Ý HÀO: Bè tiểu nhân đã hết mà tai họa chưa lùi.
MỆNH HỢP CÁCH: Tuy phú quý, nhưng cậy thế áp người lộng quyền giựt của, ám hại người lành, sau ắt khó tránh tai họa.
MỆNH KHÔNG HỢP: Người ghét mình, mình chẳng thân ai, động làm gì là có hối tiếc, chẳng bền lâu.
XEM TUẾ VẬN: Quan chức: Nên dũng thoái là tốt. Giới sĩ: Khó tiến thủ, tàng tu là hơn. Người thường: Nên an thường thì đẹp. Số xấu thì cốt nhục hình thương, thị phi nhũng nhiễu, người già lo tuổi thọ.
(Dẫn theo trang huyenhocvadoisong.com)