Trong Đẩu Số, dùng cung Mệnh để luận đoán mệnh cách của người đó là cao hay thấp, nó chủ về thực chất của vận thế. Nếu cung Mệnh trong tinh bàn hiển thị cách cục cao, thì khó gặp đại hạn và lưu niên quá xấu. Trái lại, nếu cung Mệnh trong tinh bàn hiển thị cách cục thấp, thì sẽ khó gặp đại hạn và lưu niên quá tốt, bất quá chỉ thuận lợi nhất thời mà thôi. Do đó có thể thấy sự quan trọng của cung Mệnh.
Cung Mệnh đối nhau với cung Thiên Di ở tứ chính, và tương hội với cung Quan với cung Tài ở tam phương hội cung. Cũng chính là nói, chúng có thể ảnh hưởng đến thực chất của vận trình, những tao ngộ như xuất ngoại, và mối quan hệ với người ở nơi xa hay người ngoại quốc, và các yếu tố như sự nghiệp phát triển có thuận lợi toại ý hay không (quan), tài phú có được như ý hay không,.v.v…
Do đó cung Mệnh trong tinh bàn Đẩu Số là then chốt chủ yếu để luận đoán. Xem xét tổ hợp các sao của cung Mệnh, hầu như đã có thể định được đại khái vận thế của một đời người.
Còn cung Thân, theo thuyết thông thường, là dùng để luận đoán sự phát triển Hậu Thiên của người đó. Nếu cung Mệnh cát mà cung Thân cũng cát, đương nhiên cuộc đời nhiều thuận lợi toại ý. Nếu cung Mệnh cát nhưng cung Thân không cát, thì giống như khối ngọc đẹp, nhưng lúc điêu khắc đã xảy ra sai sót, do đó làm giảm đẹp. Nếu cung Mệnh không cát mà cung Thân cũng không cát, thì cũng giống như gỗ xấu không được điêu khắc, đời người đương nhiên giảm sắc, chỉ có thể khéo vận dụng đại hạn và lưu niên (nhân mệnh), lấy nỗ lực hậu thiên để bổ cứu.
Tại Tinh bàn trong thập nhị cung, Thái Âm có sáu cung vị và cùng với tinh diệu khác đồng độ, tại Mão, Thìn, Tị, Dậu, Tuất, Hợi sáu cung vị độc tọa. Do là Thái Âm tại Tinh bàn tùy thuộc vào cung độ mà phát sinh biến hóa bất đồng, cho nên dựa vào từng cung độ mà tổng hợp tự thuật. Theo sự truyền thụ của Trung Châu Phái, Thái Âm tại thập nhị cung độ đều có danh xưng tên gọi đặc thù và tính chất độc đáo đặc biệt, sao chép trích dẫn như sau, mặc dù thật tế thôi đoạn luận đoán có sự phối hợp thêm vào hoặc bớt ra, nhưng có thể tham khảo:
Thiên Đồng Thái Âm triều độ tại Tý cung. Chủ là người suy sâu tính kỷ, thiện giỏi mưu lược, có thật tài, nhiều quyền biến. Thường thường mà nói, chủ nam mệnh phú quý, nữ mệnh vinh hoa.
Thái Dương Thái Âm triều độ tại Sửu cung. Tại bản cung có Thái Dương và Thái Âm tương hội, chủ là người có tính tình hào sảng rộng rải thẳng thắng phóng khoáng, tuy có biểu hiện cư xử khi Âm khi Dương, lúc thì tích cực, lúc thì tiêu cực, nhưng được quan lộc.
Thiên Cơ Thái Âm triều độ tại Dần cung. Đây là nơi mặt trời đang lên còn mặt trăng thì bị mất vẻ tươi sáng huy hoàng, cho nên chủ là người có tính nết nhiều do dự, không biết tiến không biết thoái.
Phản bối Thái Âm tại Mão cung triều độ, cổ nhân cho rằng ngược lại chủ đại phú, duy tất cần phải kiến Lộc Quyền Khoa đẳng Cát hóa thì mới là đúng cách.
Thái Âm tại Thìn cung, nguyệt mất quang huy, bản chất là chủ bất lợi. Nếu tại bản cung được cùng với tinh diệu có ngũ hành là kim đồng độ hoặc tương hội, như Đà La, Thiên Khốc, được thêm Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa hội chiếu, tên là “Âm tinh nhập Thổ cách”, có thể xem như làm cơ sở nền tảng cho quân sự, nắm trong tay nữ quyền.
Thái Âm tại Tị cung, lại có tên là “Thất điện”, chủ có nhãn mục tật, hoặc cận thị tán quang. Nữ mệnh chủ trượng phu hữu danh vô thật, thường rời xa gia đình; hoặc trượng phu vi nhân mưu nhi bất vi gia thất mưu. Như có Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa thì chủ phú hậu giàu có sung túc.
Thiên Đồng Thái Âm tại Ngọ cung đồng độ, lại có tên là “Hàn nguyệt”. Chủ là người có tình cảm phong phú, nhiều huyễn tưởng, hoặc tự tác đa tình. Bất lợi kết thành phối ngẫu, hoặc do kết thành vợ chồng mà chịu kích động.
Thái Dương Thái Âm tại Mùi cung đồng độ. Tuy lúc âm lúc dương, lúc nóng lúc lạnh, nhưng tính tình hào sảng phóng khoáng rộng lượng. Đây là người gặp bất lợi cho mẹ.
Thiên Cơ Thái Âm tại Thân cung triều độ. Chủ là người phúc hậu lộc trọng, thiện giỏi ứng biến, có quyền thuật, giàu huyễn tưởng, có hùng tâm. Sự nghiệp phát triển vĩ đại.
Thái Âm tại Dậu cung chí độ, năng phú năng quý, duy bất lợi hôn nhân.
Thái Âm tại Tuất cung, cũng gọi là “Nguyệt chiếu hàn đàm cách”, chủ là người thông minh cơ trí, cảm tình phong phú mà gần với sự nhu nhược yếu đuối, có thể phú quý.
Thái Âm tại Hợi cung, lại gọi là “Nguyệt lãng thiên môn”. Chủ là người nhiều mưu lược, thiện giỏi lập mưu tính kế, nếu Hóa Kị tinh, ngược lại lập nên nhiều thành tích.
Nói tóm lại với những đặc tính trên của Thái Âm tại thập nhị cung. Sau đây là những quy tắc chung tại thập nhị cung: phàm khi người có Thái Âm ở Mệnh, thành đúng là Thái Âm độc tọa, Nam Nữ mệnh đều bất lợi đối với người thân là nữ. Nam mệnh phương hại mẫu thân, mẫu thân chết phương hại thê, thê chết phương hại con gái; Nữ mệnh phương hại mẫu thân, mẫu thân chết đề phòng cho chính bản thân (thật ra là khả năng đối với phối ngẫu bị bất lợi), về già phương hại con gái. Người sinh ban ngày càng bị nặng hơn, người sinh ban đêm thì nhẹ hơn.
Người với Thái Âm tại Mệnh, nam nữ đều dể được người khác phái ưu ái xem trọng yêu thích, tại cung vị nhập miếu càng mạnh hơn; hãm cung thì vị tất chưa chắc như vậy. Người sinh ban đêm càng mạnh hơn, người sinh ban ngày không dể đối xử theo tình cảm. cho nên giống như vậy mà nói, trong hôn nhân hoặc chuyện luyến ái cũng dể phát sinh ba chiết khó khăn trắc trở.
Thái Âm tại Mệnh cung, chủ là người hướng nội, nhưng thiện giỏi sử dụng tâm kế, ôn hòa cảnh trực, thông minh cơ mẫn; Nam mệnh nhiều ưu tú xuất sắc, Nữ mệnh nhiều đoan trang. Hội Văn Xương Văn Khúc, tất có sở trường đặc biệt hoặc chuyên môn kĩ nghệ. Có Phượng Các cùng với Thiên Tài đồng độ, thì yêu thích thư họa cầm kỳ; được Đào hoa chư diệu hội chiếu, thì bác học đa tài, lưu luyến hoa tửu phong nguyệt, cũng không mất đi vẻ phong lưu văn sĩ.
Thái Âm chủ phú, Thái Dương chủ quý. Phàm người có Thái Âm tại Mệnh, cần phải được hội hợp với Thái Dương, quan sát kỷ tính chất của toàn bộ tổ hợp tinh hệ, mà xác định địa vị xã hội của đời người. Một điều khác với Mệnh cung có Thái Âm, quan sát kỷ tính chất của tinh hệ hội hợp, mà xác định mức độ giàu có của đời người. Giống như kiến giải, Thái Âm thủ Mệnh thích nghi dấn thân tòng theo sự nghiệp chức vụ trong công giáo, hoặc văn hóa văn nghệ sự nghiệp. Thái Âm phùng Sát diệu, tại cung lạc hãm chủ rời xa quê hương, hoặc theo mẹ sống với cha dượng (tùy nương quá kế). Nếu lạc hãm mà tứ Sát, Hóa Kị, Thiên Hình, Hàm Trì, Thiên Diêu, Địa Không, Địa Kiếp, Thiên Nguyệt tịnh chiếu, chủ là người ham mê tửu sắc dâm tà, lại nhiều âm mưu, tâm thuật khiếm chính. Hội thêm Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa tuy có thể phú quý, nhưng mặc dù cát cũng hư.
Nữ mệnh nhập miếu hội Cát, thông minh đoan trang, trọng tình cảm, ôn hòa mà nhiều suy nghĩ tư lự, có thể giúp chồng dạy con trai, chính là mĩ cách, nếu hội Văn diệu cùng với Đào hoa chư diệu, thì tình cảm dể khởi ba chiết khó khăn thăng trầm, mà lại không an lòng với thất bại. Nếu tại hãm địa hội tứ Sát, Không Kiếp, Hình Kị, thì hình phu khắc tử.
Sau đây là đặc điểm của Thái Âm độc tọa tại các cung.
Tại Mão cung.
Thiếu niên bất lợi phụ mẫu, còn nhỏ tuổi đã rời xa quê hương, mà lại có khả năng làm con nuôi họ khác. Kiến Sát Kị, nam nữ dể bị tình cảm tỏa chiết.
Tại Thìn cung.
Nam nữ mệnh đều bất lợi cho người thân là nữ, nếu kiến Kình Dương đồng độ, đối với người thân là nữ đặc biệt càng có bất lợi. Kiến chư Cát mặc dù có thể giàu có, nhưng chủ yếu có Sát Kị Hình Hao chư diệu hỗn tạp, thì hôn nhân ba chiết trắc trở cùng với bệnh hoạn và tài bạch cùng đến.
Tại Tị cung.
Chủ còn nhỏ tuổi đã bị bất lợi, hoặc tự bản thân mình có tai nạn bệnh tật, hoặc còn nhỏ tuổi phụ mẫu bất toàn không còn đầy đủ (Thái Âm Hóa Kị phần lớn là chủ có tang phụ thân, bởi vì phụ thân chết nên mẫu thân tự nhiên thành cô quả). Nếu hội Thiên Cơ Hóa Kị hoặc Vũ Khúc Hóa Kị, càng gặp thêm lận đận long đong gian nan khó khăn. Nam mệnh dể lưu luyến tửu sắc, Nữ mệnh thích hợp với việc trì hoãn chuyện hôn nhân.
Tại Dậu cung.
Chủ là người có thể được phú túc giàu có, tuy thiếu niên hình khắc người thân là nữ, nhưng có thể đắc chí. Như mệnh chủ mĩ dung xinh đẹp, nhưng chiêu nhạ dẫn đến chuyện gió trăng ong bướm.
Tại Tuất cung.
Chủ là người trọng tình cảm, khuynh hướng tốt với văn nghệ. Thích hợp hôn nhân sớm không thích hợp hôn nhân muộn, nếu không trước hôn nhân tất chuyện tình cảm nhiều khốn nhiễu rắc rối phức tạp.
Tại Hợi cung.
Gia hội Cát tinh, nam hay nữ sự nghiệp đều có thành tựu. Mặc dù Nữ mệnh không tránh khỏi chuyện tình cảm bị ba chiết trắc trở thăng trầm, nhưng kết quả cuối cùng có thể lấy gia đình làm trọng. Nam Mệnh thì hướng ngoại, hoặc bất cần xem nhẹ hoặc không quan tâm chuyện gia thất vợ con nhà cửa.
Độc giả có thể tổng hợp nghiên cứu học hỏi những điều tường thuật ở trên, tại nhiều cung vị khác nhau mà xác định. Nếu Thái Âm cùng với chính diệu khác đồng độ, thì có thể tham khảo thêm các chương hoặc các tiết có liên quan.
(Dẫn theo trang huyenhocvadoisong.com)