Chương 14: Ứng Dụng Của Tứ Hóa
Tử Vi Đẩu Số dùng lá số để suy đoán mệnh vận, bên trong lá số thì có Thể có Thần.
Rốt cuộc thì [Thể] là cái gì? còn [Thần] là cái gì? Nói đơn giản, tam hợp phương của cung Mệnh là Thể, còn Tứ Hóa trên lá số gốc là Thần; ở phần trước đã cùng mọi người nói qua về Cách Cục, đây chính là cái [Thể] đại diện cho người chủ số mệnh ở trong lá số gốc. Tại sao lại lấy Tam Hợp phương để làm Thể?
Cái đạo lý rất đơn giản, người sống trên đời, có 4 loại nhu cầu dân sinh cơ bản là ăn, mặc, ở và đi lại, chẳng có cái nào là không cùng với tiền tài (Tài bạch) phát sinh mối quan hệ trực tiếp, cho nên Tài Bạch là cái gốc nuôi dưỡng Mệnh, muốn có thu nhập lớn về Tài Bạch thì tất nhiên phải có sự nghiệp tốt, có vận đồ may mắn, mới có thể bảo đảm nguồn thu nhập, không có sự nghiệp thì lấy đâu ra tiền tài? Cho nên cung Quan Lộc là ngọn nguồn của tiền tài (là Tài Bạch của cung Tài Bạch), tổ chức sự nghiệp thì phải có [Phẩm chất] mới có thể tiến hành sự nghiệp kiếm tiền, cho nên cung Mệnh là ngọn nguồn của Quan Lộc, những thứ khác như Phu Thê (vợ chồng), Tử Tức (con cái), Huynh Đệ (anh em), Bạn Bè (giao hữu), Phúc Đức là căn cứ vào Mệnh, Tài Bạch, Quan Lộc mà sinh ra mối quan hệ nương tựa. Nếu như sự nghiệp không tốt, vận kiếm tiền lại tồi, thì lấy đâu ra phúc đức để mà hưởng? Lấy cái gì ra để mà mua điền trạch? Lục thân làm sao để thân thiết? Loại quan hệ chủ khách này từ xưa ở thời nhà Tống đã là cái chỗ được người ta lý giải sâu sắc, rõ ràng, Mệnh – Tài Bạch – Quan Lộc là chủ thể của Mệnh.
Lại xem từ một góc độ khác, có rất nhiều chuyện đều là do tâm linh phát động, hơn nữa là dựa vào động tác cơ thể để mà đạt được, tỷ như: lúc gây dựng sự nghiệp, bạn sẽ dùng tâm tư tìm các nhân tố như nguồn vốn, năng lực kỹ thuật, có những ai cạnh tranh, sách lược thâm nhập vào thị trường…, thấy có cơ hội sẽ thừa dịp mạnh tay mà làm, cũng tức là trước tiên ở trong lòng đã chuẩn bị kế hoạch xem có thể thực hiện được hay không? Lại biến thành hành động. Cho nên, đó là do cái [Thần] dẫn lối mà cái [Thể] hành động. Nhưng không phải là cái [Thể] khống chế cái [Thần], rõ ràng là sự dẫn dắt chủ yếu của vận mệnh đều ở tại Tứ Hóa dụng thần, còn Cách Cục có địa vị thứ yếu, có sự thúc giục của Tứ Hóa mới có thể biến thành hành động, chứ không phải là bất kỳ mệnh tạo nào có Cách Cục tốt thì đều có thể giành được sự nghiệp vĩ đại. Làm sao để nắm được thời cơ tốt nhất, chờ thời cơ mà khởi sự, giành lấy sự nghiệp to lớn, sự suy luận trong Mệnh Lý có thể cung cấp để tham khảo.
Tứ Hóa chính là cái khí chỉ thị đánh giá có quyết tâm mãnh liệt hoặc ảnh hưởng mãnh liệt từ nhân tố bên ngoài hay không. Quan sát xem từ Tứ Hóa của Mệnh gốc, của Đại Hạn, trong mệnh bàn hình thành nên loại tổ hợp nào, liền đoán được mức độ mạnh yếu của tâm lực bản thân hoặc lực ảnh hưởng lớn nhỏ của nhân tố bên ngoài. Lực ảnh hưởng lớn nhỏ có thể quyết định một người gặp phải sự kiện là cát hay hung. Còn như, rốt cuộc là do tự mình hoặc nhân tố bên ngoài, thì phải xem xét một cung nhân sự nào đó để mà quyết định.
Tứ Hóa là dựa vào Thiên Can mà quyết định việc hóa hay không hóa, từ Thiên Can năm sinh để xác định ra 12 Can cung, mỗi một Can cung lại chủ nắm giữ 4 ngôi Hóa tinh, 12 cung phi xuất ra 48 ngôi Hóa tinh khác nhau. Những thứ này từ mệnh bàn (lá số) gốc phi xuất các Hóa tinh sẽ cùng với Tứ Hóa theo Thiên Can năm sinh cọ xát nhau mà sinh ra các hiện tượng lành dữ khác nhau. Đây chính là Dụng Thần của lá số gốc. Khi vận thế chuyển động, Tứ Hóa của lá số gốc lại sẽ cùng với Tứ Hóa của Đại Hạn, của Lưu Niên tứ hóa phát sinh ảnh hưởng, liền hiện ra cát hung của vận đồ vậy.
Thiên Can Tứ Hóa là chỉ Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Hóa Kị, ở các phương diện như cung tiền tài, tình cảm, chỗ ở, đều có những giải thích về cát hung khác nhau. Nói chung Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa chủ may mắn, nhưng lúc xem về chuyện ngoại tình thì lại không chủ về may mắn, tương tự thì Hóa Kị chủ về sự không thuận, nhưng trong một số vấn đề lại là hiện tượng may mắn. Cho nên giải thích về lành dữ của Tứ Hóa, hoàn toàn phải xem là loại sự kiện nào mà xác định, chúng ta thường thấy sự giải thích về Tứ Hóa là:
– Hóa Lộc: là thần của phúc đức, thủ ở các cung vị Thân, Mệnh, Quan Lộc, gặp Khoa Quyền tất làm chức đại thần. Gặp ở Tiểu Hạn, chủ có niềm vui thăng quan và tăng tiến tiền bạc. Mười năm Đại Hạn chắc chắn gặp may mắn. Ác diệu đi tới, cùng bị Dương Đà Hỏa Kị xung chiếu cũng không bị hại. Nữ nhân có cát tinh hội hợp thì thành mệnh phụ phu nhân, nhị hạn mà gặp, nội ngoại uy nghiêm, sát tinh hội hợp thì bình thường.
Còn nói: Kỷ thổ, nắm giữ cung Phúc Đức, chủ tài lộc. Thủ ở các cung Thân, Mệnh, Quan Lộc, gặp Khoa Quyền tất làm đại thần, cùng Lộc tồn giáp biên tất chủ giàu sang. Ở chỗ Tí Ngọ là cung Thiên Di thì văn chương cái thế. Lộc vướng vào nơi nhược địa, hoặc bị Không Kiếp vây hãm thì chủ không phát tài. Ẩn tàng ở Tứ Mộ cung Hóa Lộc vô dụng. Lộc gặp phải sự xung phá, cát cũng thành hung. Nữ mệnh thấy cát tinh tụ hội thì nội ngoại uy nghiêm, có thể làm mệnh phụ phu nhân. (Chú: Tứ Mộ là chỉ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi cung).
Hóa Quyền: Quyền tinh là thần nắm giữ sự phân xử sinh sát, thủ ở các cung Thân Mệnh có Khoa Lộc tương phùng thì xuất tướng nhập tướng, Khoa Quyền tương phùng tất định là văn chương quán thế được mọi người ngưỡng mộ. Tiểu Hạn tương phùng, không có gì là không may mắn. Mười năm Đại Hạn tất nhiên đắc chí. Nếu như phùng Dương, Đà, Hao, Kiếp, Không, khiến cho lận đận, quan lại bị giáng chức. Nữ mệnh có được Hóa Quyền thì nội ngoại cân xứng, có thể làm mệnh phụ phu nhân. Tăng nhân đạo sĩ gặp được Hóa Quyền thì có danh tiếng, chưởng quản núi rừng, môn phái.
Còn nói: Giáp mộc, chưởng quản sinh sát, chủ quyền quý. Khoa Lộc tương phùng thì xuất tướng nhập tướng, văn chương quan thế. Hội hợp với Vũ Khúc hoặc Cự Môn ắt sẽ chưởng quản đại sự, hoặc nắm binh phù. Gặp phải Dương Đà Không Kiếp thì quan lại bị giáng chức. Quyền Lộc trùng phùng thì Tài Quan song mỹ. Sát tinh lại tới thì khiến cho thanh thế trống rỗng. Các cung Tài Bạch, Phúc Đức, có Quyền Lộc đến trấn giữ thì xuất thế vinh hoa. Quyền Lộc ở cung Nô Bộc thì dẫu có làm quan cũng vất vả bôn ba. Nữ mệnh có Hóa Quyền thì chủ nhân tính cương ngạnh, thích đoạt quyền chồng, nội ngoại xứng ý toại lòng.
Hóa Khoa: Khoa tinh ở trên thượng giới ứng với việc thi cử, là ngôi sao nắm giữ sự văn vẻ dịu dàng, thủ ở các cung Thân Mệnh có Quyền Lộc tương phùng thì được cái quan quý hàng đầu. Nếu như phùng ác diệu thì cũng là kẻ sĩ văn chương, có thể làm thầy sáng cho lứa trẻ tinh anh. Nữ mệnh có cát tinh củng chiếu thì chủ được phong tặng tước quý, dù cho có bị Tứ Sát xung phá cũng được phú quý. Gặp các khoa tinh củng chiếu thì luận giống như thế.
Còn nói: Nhâm thủy (chú: chỗ này có thể bị nhầm lẫn, xem thêm bên dưới Hóa Kị phần nói thêm có đề cập đến Hóa Kị là Nhâm thủy), chưởng quản các văn tinh, chủ về danh tiếng. Thủ ở các cung Thân Mệnh thì chủ nhân thông minh. Quyền Lộc tương phùng thì được cái quan quý hàng đầu. Nếu như gặp ác tinh, thì cũng là kẻ sĩ văn chương, có thể làm thầy sáng cho lứa trẻ tinh anh. Nhưng ngại gặp các sao Không. Tam Kỳ giáp Mệnh ắt là quý cách. Khoa Quyền đối củng thì vượt Vũ Môn. Khoa Lộc gặp ở cung Mệnh thì uy danh hơn người. Khoa minh Lộc ám thì tước vị đến Tam Thai. Khoa danh hãm ở nơi hung, bị vây hãm bởi Không Kiếp, hãm ở chỗ Dương Đà, Nhật Nguyệt hãm địa, Chính Tinh hãm địa thì mầm non chẳng thể tươi xanh. Nữ nhân mà Mệnh có thêm Quyền Lộc và cát diệu củng chiếu thì được phong tặng chủ quý, nếu như Tứ Sát xung phá thì vẫn chủ phú quý.
Hóa Kị: Kị là thần quản nhiều chuyện, thủ ở các cung Thân Mệnh thì cuộc đời không thuận lợi. Tiểu Hạn mà gặp thì một năm thiếu thốn. Đại Hạn mà gặp thì 10 năm có sự ăn năn hối hận. Nhị hạn hay Thái Tuế tới gặp thì chắc chắn lận đận. Quan văn thì tước vị không bền, quan võ dù có quan tai khẩu thiệt những vẫn không đáng ngại. Kể cả những thương nhân hay người thợ kỹ nghệ cũng đều không hợp với Hóa Kị, lợi khi được hội thêm Tử Phủ Xương Khúc Tả Hữu Khoa Quyền Lộc cùng với Kị đồng cung. Nếu kiêm thêm Tứ Sát cùng tồn tại thì cho dù phát tài cũng không tốt, công danh cũng không có thành tựu. Nếu như chỉ gặp Tứ Sát, Hao Sứ Kiếp Không thì chủ bôn ba mang tật. Tăng Đạo sa vào đường hoàn tục. Nữ nhân gặp Kị thì một đời người nghèo mà yểu.
Còn nói: Nhâm thủy, là sao chủ sự đố kị, thần quản nhiều chuyện, chủ thị phi không thuận. Nhị hạn mà gặp thì chắc chắn lận đận, văn nhân không được bền lâu, võ nhân gặp quan tai, kẻ làm công thương thì không thuận lợi, miệng lưỡi không khỏi, phiền não thất vọng. Tử Phủ Xương Khúc, Tả Hữu, Tam Kỳ, cùng đồng hành với Hóa Kị, lại kiêm cả Tứ Sát, tiền tài không bền, công danh bất thành. Nếu như đơn thủ gặp Sát, thì bôn ba mang tật, theo tăng đạo đi xa không trở lại. Miếu vượng không kị, hãm địa rất kị. Thiên Đồng ở Tuất là Kị, năm sinh Đinh thì phản chuyển thành tốt. Cự Môn ở Thìn là Kị, người tuổi Tân phản chuyển thành tốt. Nhật Nguyệt hãm địa mà hóa Kị thì đại hung. Liêm Trinh hãm mà hóa Kị thì càng Kị. Nữ mệnh gặp phải thì hung, gian khổ sống qua ngày.
Mọi người thấy Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa tọa Mệnh, thì trong lòng âm thầm vui mừng khôn xiết, còn nếu như thấy Hóa Kị ở cung Thiên Di chiếu Mệnh liền âm thầm kinh hãi, nguy rồi! Bị Hóa Kị nhìn chòng chọc nhất định sẽ không thuận lợi, sẽ có thị phi. Những quan niệm và nhận xét đó chưa hẳn hoàn toàn đúng, bởi vì nếu như không chú ý đến khác biệt giữa [Hóa Nhập] với [Hóa Xuất ], thì không cách nào phân biệt được sự [Xuất] với [Nhập], sẽ không biết được Hóa Lộc là [Được] hay [Mất], không biết Hóa Kị là [Cát] hay [Hung]. Khác gì có một vị [chuyên gia Đẩu Số] bình luận rằng: “Tứ Hóa bay đầy trời, không biết cái nào ngôi sao mới thật sự là Tứ Hóa”. Thế này là không biết gì về mối quan hệ của [Hóa Xuất ], [Hóa Nhập] với các Cung vị, tổ hợp tinh tú, cho nên không thể nào hiểu được quy tắc của Tứ Hóa Phi Tinh, thế cho nên mới có cái kiểu bình luận ” hùng hồn” như thế.
Phàm là Tứ Hóa phi xuất từ Can năm sinh, bất kể rơi vào cung vị nào thì cũng gọi là [Hóa Nhập]. Nếu Can cung của cung vị mà chúng rơi vào lại không khiến cho các sao tọa trong cung ấy tự hóa, thì gọi [Hóa Trung]. Ba ngôi Hóa tinh cát lợi từ Can năm sinh thì tốt nhất là rơi vào các cung Mệnh, Tài, Quan (còn gọi là cung Sự Nghiệp) của lá số gốc, còn sao Hóa Kị không được ở cung Thiên Di, Phúc Đức, Phu Thê để xung tới tam hợp (tức là sợ bị xung vào Mệnh Tài Quan), đây chính là cái được gọi là [Tam Cát gia hội cách]. Thế nhưng cách cục ấy nhất định cần cung Mệnh tọa sao Hóa Lộc thì mới có hiệu dụng; còn nếu như từ tam phương chẳng có Tam Cát hóa tinh hội nhập về cung Mệnh, thì chỉ chủ về quang cảnh bề ngoài mà thôi, là ảo chứ không thực.
Môn phái của tôi đối với sự giải thích về Tứ Hóa, giản dị như sau:
Hóa Lộc chủ tình duyên, tài lộc;
Hóa Quyền chủ quản chế, uy nghiêm;
Hóa Khoa chủ khoa bảng, giáo dục, văn hóa;
Hóa Kị chủ cất giấu, hối hận sai lầm.
Bởi vì Tứ Hóa theo Can năm sinh đều là Hóa nhập, cho nên ý nghĩa của các Hóa đó nhập vào trong cung vị của mệnh bàn có thể xem xét cân nhắc để giải thích. Thế nhưng Hóa Kị theo Can năm sinh rơi vào cung lục thân chính là mang ý nghĩa nợ nần, nếu như rơi vào các cung Điền Trạch, Phúc Đức, Tài Bạch, Quan Lộc, Thiên Di thì đại biểu cho tư tưởng đặt vào những nơi đó, bởi vì chữ Kị (忌) mang ý nghĩa chiết tự là cái “Tâm” (心) của “Bản thân” (Kỷ 己), cho nên Hóa Kị theo Can năm sinh xuất hiện ở cung Điền Trạch đại biểu cho người đó đặt cái tâm ở gia đình, hết giờ đi làm thì liền muốn ở trong nhà mà ít đi ra ngoài, đây là cái tượng ẩn tàng. Nếu như Hóa Kị ở cung Huynh Đệ, thì đại biểu cho cái tâm đặt ở những người anh chị em, vì vậy sẽ chi trả tiêu tốn cho anh chị em, cho nên thành nợ nần; đương nhiên, vì Hóa Kị ở cung Huynh Đệ nên anh chị em sẽ tương đối không thuận lợi, đó là hiện tượng tất nhiên.
Can của năm sinh cùng với Can của một cung nào đó trên mệnh bàn có sự tương đồng, thì đại biểu cho những hoạt động và vận trình thăng trầm trong cuộc đời của người này là đều có mối quan hệ chặt chẽ với cái cung ấy. Thí dụ như: người nào đó năm sinh là Giáp, mà cung Tài Bạch trên lá số cũng có Can là Giáp, thì những hoạt động trọng điểm trong vận mệnh cả đời của người đó đều lấy của cải và việc kiếm tiền để làm chủ, hơn nữa còn là thuộc về cái cách tự lập cánh sinh. Còn nếu như Can năm sinh với Can của cung lục thân có sự tương đồng, thường thường sẽ sản sinh tính liên quan chặt chẽ cung lục thân ấy.
Các cung Mệnh, Tài Bạch, Quan Lộc, Điền Trạch gọi là Ngã Cung (gọi là cung của mình vì những cung này mình có thể điều khiển được theo ý mình), cái khác xưng là Tha Cung (gọi là cung ngoài mình vì những cung đó có ý chí riêng và ta khó có thể điều khiển được). Tứ Hóa cần được nhập vào Ngã Cung thì mới tốt, còn nhập vào tha Cung tức là Hóa Xuất, chủ về những sự tổn thất, bất lợi.
Nếu như chúng ta muốn luận về bản chất tính cách của một người, có thích hợp với việc kinh doanh hay không, hoặc là nên làm những công việc gì? Đối với vấn đề này, chúng ta phải từ những sao tọa ở cung Mệnh có đặc tính của việc buôn bán như [tính chất tính toán, kiên nghị chịu khổ] thì mới thích hợp theo nghề buôn bán. Còn các sao tọa Mệnh mà thuộc về dạng thanh cao (như Thiên Lương), nho nhã (như Thái Âm hoặc Thiên Đồng) thì tương đối không thích hợp với sự nghiệp kinh doanh hay thương mại hoành tráng, mà chỉ thích hợp tham gia nghề phục vụ, đây đều là từ tính chất tinh đẩu để mà luận lên. Thế nhưng tinh tú sau khi đụng tới Tứ Hóa, sẽ biến đổi chứ không phải là như tính chất vốn có ban đầu, thí dụ như Thiên Lương hóa Lộc tọa cung Thiên Di ở trong phú văn của các bậc tiên hiền về Đẩu Số thì có nói là [cự thương cao cổ] (buôn to bán lớn) thì so với tính chất thanh cao của sao Thiên Lương là hoàn toàn khác biệt. Vì vậy, một khi gặp Tứ Hóa, tính chất của sao sẽ hoàn toàn thay đổi, cho nên tính chất của sao và Tứ Hóa là cần phải luân phiên mà sử dụng.
Tỷ như mệnh lệ 1:
Vũ Khúc, Thiên Tướng tọa Mệnh ở cung Nhâm Dần, đối chiếu với cách nói thông thường trên sách, người này giàu nghĩa khí, thích bênh vực kẻ yếu, cá tính chính trực kiên cường. Tam hợp lại là [cách Tử Phủ triều viên], người này thường qua lại kết giao cùng giới nhân sĩ quân đội, chính trị, tài chính, cũng nhờ sự trợ giúp của bọn họ mà thành công, trở thành hào phú, cuộc đời nhiều yến tiệc.
Lại xem Tứ Hoá theo Can năm sinh:
Hóa Lộc rơi vào cung Tử Tức: Người này thương yêu con cái, có tiền liền dành để tiêu pha cho con cái.
Hóa Quyền, Hóa Kị đều là rơi vào cung Huynh Đệ: Hóa Kị vốn chủ mắc nợ với anh em, Hóa Quyền vốn cũng chủ anh em có thành tựu, hai sao rơi vào phản chuyển thành sự tranh chấp, tình trạng không hòa thuận.
Hóa Khoa rơi vào cung Điền Trạch: Chính là chủ về lượng nhà cửa đất đai vừa phải, không lớn không nhỏ.
Can cung Mệnh tọa Nhâm: Sao Vũ khúc tự hóa Kị, đây là Hóa Xuất, biểu thị cái tâm của mình hướng ra bên ngoài, cho nên sẽ tương đối không vì cái lợi của bản thân, thà rằng chính mình chịu thiệt cũng không chiếm lợi thế của người. Hơn nữa tâm đã hướng ra bên ngoài thì đối với mình sẽ thiếu sự tự tin, lại thêm Hóa Kị chủ về tượng ẩn tàng, cho nên Kị xuất thì sẽ không ẩn tàng được nữa, khiến cho của cải và danh lợi hầu hết đều vì không có cách nào che giấu nên tổn thất hoặc bị cơ hội trôi qua một cách uổng phí. Vì vậy cách cục kinh thương kiểu này thường không biết nắm cơ hội mà bị tổn thất, thực sự không thích hợp ở kinh thương, nếu miễn cưỡng phải làm việc buôn bán, cũng nên làm cửa hàng nhỏ lẻ, hoặc làm nghề mua bán dùng tiền mặt thì sẽ khá tốt.
Mặc dù cách [Tử Phủ triều viên] là rất đẹp, nhưng Tứ Hóa dụng thần lại không tốt, cho nên vẫn không có cách nào để thành tựu sự nghiệp lớn.
Bây giờ ta xem mệnh lệ 2:
Là vị tiểu thư năm sinh Giáp Thìn, cung Mệnh cũng là ở vị trí cung Dần: sao Tham Lang, Thiên Diêu, Lộc Tồn cùng tọa Mệnh, tam hợp là cách cục [ Sát Phá Lang ], căn cứ đặc tính của sao Tham Lang, biết vị tiểu thư này tửu lượng không tệ, hiếu động giỏi ngoại giao, nhiều phen tiệc rượu, rất dễ dàng gần gũi người khác giới. Hơn nữa sao Thiên Diêu càng tăng thêm tính mạnh cho khuynh hướng này, may mắn cực kỳ khi có Lộc Tồn làm bạn, bằng không khó mà tưởng tượng nổi, mặt khác, giống như là tán dóc dụ cho người ghé mắt, chú trọng hưởng thụ vật chất, không thể chịu gian khổ mà kiếm tiền, có khuynh hướng đầu cơ mạo hiểm, có đặc tính thích thay đổi không kiên nhẫn, cũng không nên xem nhẹ.
Hơn nữa, tam hợp lại là cách [ Sát Phá Lang ], đặc tính của cách cục này là hiện trạng không yên, thích sáng tạo đổi mới, nghị lực kiên cường, không sợ gian khổ, thích biến động xuất ngoại, tánh tình nóng nảy, có quyết tâm về sự sáng lập, tính tương thích nhiều nghề nghiệp, có thể theo văn có thể theo võ.
Lại xem đến Tứ Hóa năm sinh:
Hóa Lộc của năm sinh rơi vào cung Thiên Di: tiên phong rất mạnh mẽ, quan hệ nhân tế không tệ, trong giao tế khảng khái. Hơn nữa hóa Lộc lại cùng với sao Lộc Tồn trong cung Mệnh tạo thành trạng thái đối chiếu, là kiểu cách cục tài nguyên thịnh vượng.
Hóa Quyền năm sinh rơi vào cung Tài Bạch: Thích nắm quyền sở hữu tài sản, tự mình chi phối việc sử dụng tiền tài, giỏi dùng tiền tài để đầu tư phát tài.
Hóa Khoa năm sinh rơi vào cung Phu Thê: Đại biểu trong đời sống tình cảm có sự trợ lực gặp dữ hóa lành, hơn nữa tướng mạo thân thể củangười chồng cũng rất cân xứng vừa phải;
Hóa Kị năm sinh rơi vào cung Huynh Đệ: Chủ người này mắc nợ anh chị em, sẽ vì anh chị em mà chi trả (vật chất hoặc tinh thần). Mà trùng hợp là Hóa Kị ở cung Huynh Đệ cùng sao Đà La (hóa khí cũng gọi là Kị) cho nên cung Huynh Đệ hứng cả cặp Hóa Kị, trong số anh chị em phải có sự tổn hại, hơn nữa vận trình của anh chị em cũng kém.
Lại xem tam phương, hội chiếu vào có Hóa Quyền và Hóa Lộc theo Can năm sinh, thì người này mặt mang quý khí, có sự uy nghiêm, đây là tính chất đặc biệt của Tứ Hóa dụng thần biểu hiện trên thân thể con người. Còn nói về Hóa Kị cảm quan là người trầm mặc ít nói; hơn nữa, cung Tài Bạch có Can là [Giáp] cùng với Thiên Can năm sinh tương đồng, cho nên biết người này là cách tự lập.
Can cung Mệnh tọa Bính: Liêm Trinh hóa Kị ở cung Thiên Di, đại biểu cái tâm ở bên ngoài, người này rất thẳng thắn, lòng dạ không sâu, dễ chung sống, đáng tiếc thường quên lời hứa; Thiên Cơ hóa Quyền ở cung Phụ Mẫu, Quyền tinh là chấp chưởng uy nghiêm, là sao về quyền thế, cho nên lúc nói năng với trưởng bối đương nhiên không khách khí, có lý thì cãi đến cùng, hơn nữa giỏi ăn nói, chẳng qua là cung Phụ Mẫu tọa can Đinh, khiến Cự Môn hóa Kị, dù có khéo tranh cãi cũng không có cửa, người ta không tha.
Đem các đặc trưng nói trên sắp xếp điểm khởi đầu, sau đó có thể giải thích nhiều đặc tính khác của người này, cho nên bảng Thiên can Tứ Hóa phải nhớ thành thục, mới có thể dùng dụng thần của Đẩu Số, chính là Tứ Hóa, vận dụng như thần.
(Dẫn theo trang www.huyenhocvadoisong.com)