Chương 12: Quẻ Phong Thiên Tiểu Súc
64 quẻ dịch lấy từ cuốn “Kinh Dịch – Đạo Của Người Quân Tử” của học giả Nguyễn Hiến Lê.
64 quẻ dịch lấy từ cuốn “Dịch Kinh Đại Toàn” của Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê.
“Kinh Dịch – Đạo Của Người Quân Tử” của học giả Nguyễn Hiến Lê.
|||:|| Phong Thiên Tiểu Súc (小畜 xiǎo chù)
Quẻ Phong Thiên Tiểu Súc, đồ hình |||:|| còn gọi là quẻ Tiểu Súc (小畜 xiao3 chu4), là quẻ thứ 09 trong Kinh Dịch.
* Nội quái là ☰ (||| 乾 qian2) Càn hay Trời (天).
* Ngoại quái là ☴ (:|| 巽 xun4) Tốn hay Gió (風).
Giải nghĩa: Tắc dã. Dị đồng. Lúc bế tắc, không đồng ý nhau, cô quả, súc oán, chứa mọi oán giận, có ý trái lại, không hòa hợp, nhỏ nhen. Cầm sắt bất điệu chi tượng: tiếng đàn không hòa điệu.
Tự quái truyện bảo đã nhóm họp, gần vũi với nhau (tỉ) thì phải có chỗ nuôi nhau, cho nên sau quẻ Tỉ tới quẻ Tiểu súc [ 小 畜 ]
Chữ súc này có nghĩa là nuôi (như mục súc); lại có nghĩa là chứa, dùng như chữ súc tích (chứa chất), và nghĩa: ngăn lại, kiềm chế.
Thoán từ
小 畜 . 亨 . 密 雲 不 雨 . 自 我 西 郊 .
Tiểu súc: Hanh: Mật vân bất vũ, tự ngã tây giao.
Dịch: Ngăn căn nhỏ (hoặc chứa nhỏ vì chứa cũng hàm cái nghĩa ngăn, bao lại, gom lại) hanh thông. Mây kịt (chưa tan) mà không mưa ở cõi tây của ta.
Giảng: Có ba cách giảng theo tượng của quẻ:
– Quẻ Càn (cương kiện) ở dưới quẻ Tốn (nhu thuận) có nghĩa là âm (Tốn) ngăn cản được dương (Càn), nhỏ ngăn cản được lớn.
– Hoặc: Gió (Tốn) bay trên trời (Càn) còn xa mặt đất, sức ngăn cản của nó còn nhỏ, cho nên gọi là Tiểu súc.
– Xét các hào thì hào 4 là âm nhu đắc vị; hào này quan trọng nhất trong quẻ (do luật: chúng dĩ quả vi chủ) ngăn cản được 5 hào dương , bắt phải nghe theo nó, cho nên gọi là Tiểu súc (nhỏ ngăn được lớn).
Ngăn được hào 2 và hào 5 đều dương cương thì việc chắc sẽ hanh thông. Nhưng vì nó nhỏ mà sức ngăn cản nhỏ, nên chưa phát triển hết được, như đám mây đóng kịt ở phương Tây mà chưa tan, chưa mưa được. Theo Phan bội Châu, chữ “ngã” (ta) ở đây trỏ Tốn, mà Tốn là âm, thuộc về phương Tây. Nhưng theo Hậu Thiên bát quái thì tốn là Đông Nam.
Chu Hi cho rằng chữ “ngã” đó là Văn Vương tự xưng. Khi viết thoán từ này, Văn Vương ở trong ngục Dữu Lý, mà “cõi tây của ta” tức cõi Kỳ Châu, ở phương Tây của Văn Vương.
Đại Tượng truyện khuyên người quân tử ở trong hoàn cảnh quẻ này (sức còn nhỏ) nên trau dồi, tài văn chương (ý văn đức) chẳng hạn viết lách, chứ đừng hoạt động chính trị.
Hào từ
1. 初 九 : 復 自 道 , 何 其 咎 ? 吉 .
Sơ cửu: Phục tự đạo, hà kỳ cữu? Cát.
Dịch: Hào 1, dương : trở về đạo lý của mình, có lỗi gì đâu? Tốt.
Giảng: hào này là dương cương lại ở trong nội quái Càn, có tài, có chí tiến lên, nhưng vì ở trong quẻ Tiểu Súc, nên bị hào 4, ứng với nó ngăn cản. Nó đành phải quay trở lại, không tiến nữa, hợp với đạo tùy thời, như vậy không có lỗi gì cả.
2. 九 二 : 牽 復 , 吉 .
Cửu nhị: khiên phục, cát.
Dịch: Hào 2, dương. Dắt nhau trở lại đạo lý thì tốt.
Giảng: hào này với hào 5 là bạn đồng chí hướng: cùng dương cương, cùng đắc trung, cùng muốn tiến cả, nhưng cùng bị hào 4 âm ngăn cản, nên cùng dắt nhau trở lại cái đạo trung , không để mất cái đức của mình.
3. 九 三 : 輿 說 輻 , 夫 妻 反 目 .
Cửu tam: Dư thoát bức, phu thê phản mục.
Dịch: Hào 3, dương : Xe rớt mất trục; vợ chồng hục hặc với nhau.
Giảng: Hào 3 quá cương (vì thể vị đều là dương) mà bất trung, hăng tiến lên lắm, nhưng bị hào 4 ở trên ngăn chặn, nên tiến không được, như chiếc xe rớt mất trục. Hào này ở sát hào 4, dương ở sát âm, mà không phải là ứng của hào 4, như một cặp vợ chồng hục hặc với nhau. Lỗi ở hào 3 vì không biết tùy thời, không nhớ mình ở trong thời Tiểu súc mà nhịn vợ.
4. 六 四 : 有 孚 , 血 去, 惕 出 . 无 咎 .
Lục tứ: hữu phu, huyết khứ, dịch xuất, vô cữu.
Dịch: Hào 4, âm: nhờ có lòng chí thành, nên thương tích được lành, hết lo sợ, mà không có lỗi.
Giảng: hào này là âm, nhu thuận mà đối với các hào dương thì khó tránh được xung đột, có thể lưu huyết và lo sợ, nhưng nó đắc chính (âm ở ngôi âm), ở gần hào 5 là thân với bậc chí tôn, lại ở vào thời Tiểu súc, có hào 1 ứng hợp với nó, hào 2 cùng giúp nó, nên nó tránh được lưu huyết, lo sợ, không có lỗi.
Tiểu tượng truyện giảng: hết lo sợ, nhờ hào trên ( hào 5) giúp đỡ nó.
5. 九 五 : 有 孚, 攣 如 . 富 以 其 鄰 .
Cửu ngũ: Hữu phu, luyên như, phú dĩ kỳ lân.
Dịch: Hào 5, dương. Có lòng thành tín, ràng buộc dắt dìu (cả bầy hào dương ), nhiều tài đức , cảm hóa được láng giềng.
Giảng: hào này ở ngôi chí tôn, có uy tín, làm lãnh tụ các hào dương khác; nó trung chính, tức có lòng thành tín, kéo các hào dương kia theo no, mà giúp đở hào âm 4 ở cạnh nó, ảnh hưởng tới 4, sai khiến được 4, khiến cho 4 làm được nhiệm vụ ở thời Tiểu súc.
Chữ [ 攣 ] có người đọc là luyến và giảng là có lòng quyến luyến.
6. 上 九 : 既 雨, 既 處 , 尚 德 載 . 婦 貞 厲 . 月 幾 望 , 君 子 征 凶 .
Thượng cửu: Ký vũ, ký xử, thượng đức tái.
Phụ trinh lệ. Nguyệt cơ vọng, quân tử chinh hung.
Dịch: Hào trên cùng, dương: Đã mưa rồi, yên rồi, đức nhu tốn của 4 đã đầy (ngăn được đàn ông rồi), vợ mà cứ một mực (trinh) ngăn hoài chồng thì nguy (lệ) đấy. Trăng sắp đến đêm rằm (cực thịnh), người quân tử (không thận trọng, phòng bị) vội tiến hành thì xấu.
Giảng: Đây đã tới bước cuối cùng của quẻ tốn mà cũng là bước cuối cùng của quẻ Tiểu súc. Hào 4 đã thành công đến cực điểm , các hào dương hòa hợp với nó cả rồi, như đám mây kịt đã trút nước, mọi sự đã yên. Tới đó, hãy nên ngưng đi, cứ một mực ngăn chặn các hào dương thì sẽ bị họa đấy. Mà các hào dương (quân tử ) cũng nên lo đề phòng trước đi vì sắp tới lúc âm cực thịnh (trăng rằm) rồi đấy. Âm có nghĩa là tiểu nhân.
***
Đọc quẻ Tiểu súc này chúng tôi nhớ tới Võ Hậu đời Đường và Từ Hi Thái Hậu đời Thanh. Họ như hào 4, thông minh, có tài, mới đầu nhu thuận, nhờ ở gần vua (hào 5), được vua sủng ái, che chở, lại lấy được lòng người dưới (hào 1, hào 2), gây phe đảng rồi lần lần “thống lĩnh quần dương “, cả triều đình phải phục tòng họ. Tới khi họ thịnh cực, sắp suy, bọn đại thần có khí tiết, mưu trí mới họp nhau lật họ. Ngoài đời không đúng hẳn như trong quẻ, nhưng cũng không khác mấy.
Ở các thời đó, chắc nhiều nhà Nho Trung Hoa đọc lại quẻ này.
“Dịch Kinh Đại Toàn” của Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê.
9. 風天小畜 Phong Thiên Tiểu Súc
Tiểu Súc Tự Quái | 小 畜 序 卦 |
Tỉ tất hữu sở súc dã | 比 必 有 所 畜 也 |
Cố thụ chi dĩ Tiểu Súc | 故 受 之 以 小 畜 |
Tiểu Súc Tự Quái
Tỉ là tương hợp, tương liên.
Người đông, phải biết chế kiềm, mới hay,
Thế nên, Tiểu Súc theo ngay.
Tiểu Súc là một quẻ khó giải của Dịch Kinh. Tiểu Súc có nhiều ý nghĩa: 1) Cản trở ít. 2) Nuôi dưỡng ít. 3) Hàm súc ít 4) Ảnh hưởng ít.
Tiên nho thường cho rằng quẻ Tiểu Súc mô tả nỗi niềm của Văn Vương, khi bị giam ở ngục Dũ Lý, tưởng về cổ quốc là Tây Kỳ, thương dân tình đang bị điêu đứng, mà mình còn bị vướng trở, chưa thi thố được đại công, đại nghiệp để cứu trợ chúng dân, ví mình như áng mây, còn vương trên khung trời, chưa sa thành mưa, để chúng dân thấm nhuần ơn vũ lộ.
Phân tác Quẻ ta thấy: Tiểu Súc, trên là Tốn là quẻ Âm Nhu, dưới là Kiền, là quẻ Dương Cương, có nghĩa là Âm ngăn chặn bước đường tiến của Dương.
Xét về Hào, ta thấy một Hào Âm nằm ở Hào Lục tứ, ngạn cản đà tiến của Hào Dương. Tuy nhiên, sự ngăn cản ấy không mạnh mẽ, mà chỉ tồn tại được nhất thời. Hào Tứ cùng là tượng trưng cho một hiền thần. Hiền thần mà muốn can gián vua, thời phải khéo léo, mềm dẻo.
Phân tách tượng quẻ, ta thấy Tiểu Súc là gió thổi trên khung trời cao, như vậ tức là ảnh hưởng tới vạn vật rất ít. Lời bình luận hay nhất về quẻ Tiểu Súc là lời bình luận của Tào Thăng, tác giả tập Chu Dịch Tân Giải.
Tào thăng viết: Súc là nuôi dưỡng. Tiểu Súc là nuôi dưỡng chưa được nhiều. Quẻ này một Âm ở Hào bốn là chủ của quẻ. Quẻ trên là Tốn, từ tốn ta công nuôi dưỡng sức lực của Kiền. Đại Súc là theo đúng thiên nhiên, Tiểu Súc là cố làm hết phận sự con người.
Tận phận sự con người, tức là súc tích lực lượng để chờ thời cơ. Nói theo cá nhân, tức là tiến đức tu nghiệp, nói theo quốc gia tức là quốc kế dân sinh, giáo huấn, tích tiểu thành đại, tích từng giọt nước để thành sông biển, tích từng đồng tiền để thành cự phú, đều là Tích tiểu thành đại. Cái bí quyết của sự tiến hóa là ở đó. Làm được như vậy, sẽ chuyển yếu thành mạnh, chuyện bại thành thắng. Cứ xem quẻ Tiểu Súc là biết đường lối để phục hưng vậy.
I. Thoán.
Thoán Từ.
畜 . 亨 . 密 雲 不 雨 . 自 我 西 郊 .
Tiểu Súc. Hanh. Mật vân bất vũ. Tự ngã tây giao.
Dịch.
Tiểu Súc hanh thông, quẻ rõ rồi,
Trời Tây, mây phủ, chửa mưa rơi.
Thoán Từ nói: Mây dầy mà chưa mưa, địa khí bốc lên, nhưng thiên khí chưa ứng hợp. Mây còn tích tụ trên phía trời Tây, có nghĩa là Âm xướng, nhưng Dương chưa họa. Bởii vì cứ theo trên, dưới mà phân Âm, Dương, thì địa khí là Âm, mà thiên khí là Dương. Lấy phương hướng mà phân Âm Dương, Tây là Âm, Đông là Dương. Âm cảm mà Dương chưa ứng, thế nên quẻ gọi là Tiểu Súc.
Thoán Từ đại khái nói rằng: Dẫu tiểu nhân có thể ngăn cản bước tiến của người quân tử, nhưng khi sự cản trở ấy không mạnh, thì người quân tử vẫn tiến bước được, đó là vì người quân tử, trong thì tinh thần vững mạnh, ngoài thì có sự nhún nhường khéo léo.
Suy rộng ra, thì đó là khi thời cơ chưa thuận tiện, lòng người dưới trên chưa ứng, chưa hòa, nên chưa thể làm nên được đại công, đại sự.
Thoán Truyện. Thoán viết:
彖 曰 . 小 畜 . 柔 得 位 . 而 上 下 應 之 . 曰 小 畜 . 健 而 巽 . 剛 中 而 志 行 . 乃 亨 . 密 雲 不 雨 . 尚 往 也 . 自 我 西 郊 . 施 未 行 也 .
Tiểu Súc. Nhu đắc vị nhi thượng hạ ứng chi. Viết Tiểu Súc. Kiện nhi tốn. Cương trung nhi chi hành. Nãi hanh. Mật vân bất vũ. Thượng vãng dã. Tự ngã tây giao. Thi vị hành dã.
Dịch. Thoán rằng:
Quẻ Tiểu Súc, Hào nhu đắc vị,
Dưới lẫn trên, nhất trí ứng theo,
Nên rằng cản ít, không nhiều,
Cương cường hoạt động, có chiều hanh thông.
Bền lòng, vững chí, ra công,
Mây dầy, còn chuyển nên không mưa rào.
Trời Tây mây phủ ngất cao,
Việc làm ảnh hưởng chưa bao lăm gì.
Thoán truyện nói: Thượng vãng, nghĩa là Âm khí còn bốc lên. Thi vị hành, nghĩa là âm khí chưa thành mưa để rơi xuớng. Nếu đem áp dụng vào nhân sự thì có nghĩa là bậc thần tử muốn đem tâm xây dựng nước non, mà bậc quân phụ chưa hưởng ứng…
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 . 風 行 天 上 . 小 畜 . 君 子 以 懿 文 德 .
Tượng viết: Phong hành thiên thượng. Tiểu Súc. Quân tử dĩ ý văn đức.
Dịch.
Tượng rằng: Gió thổi trên trời,
Nên rằng Tiểu Súc, chưa nuôi được nhiều.
Nên rằng quân tử y chiều,
Trau dồi phong thái mỹ miều, tài hoa.
Tượng truyện nối tiếp ý Thoán Truyện mà bảo rằng; hiện nay người quân tủ chưa thể nào gây được ảnh hưởng lớn khắp nơi chúng dân, có khác nào như gió còn thoảng bay trên khắp vòm trời cao, không có ảnh hưởng trực tiếp đến vạn vật, như vậy việc đáng làm hơn hết lúc này là trau dồi tài năng, đạo đức.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện.
1. Hào Sơ Cửu.
初 九 . 復 自 道 . 何 其 咎 . 吉 .
象 曰 . 復 自 道 . 其 義 吉 也 .
Sơ Cửu. Phục tự đạo. Hà kỳ cữu. Cát.
Tượng viết:
Phục tự đạo. Kỳ nghĩa cát dã.
Dịch.
Sơ Cửu quay về đường nẽo cũ,
Một lòng hướng thượng, lỗi chi đâu.
Tượng rằng: Đường cũ quay về,
Là hay là phải ai chê được nào?
Hào Sơ bàn rằng: Khi ngưòi quân tử bị tiểu nhân kiềm chế, không cho thi hành đại đạo, thì hãy quay về tu luyện bản thân. Y như đường lối của Mạnh Tử: Lúc đắc chí (làm quan, làm tướng), thì chung sức với dân, mà thi hành những đức Nhân, Lễ, Nghĩa. Khi chẳng đắc chí, thì ẩn dật mà tu thân hành đạo.
2. Hào Cửu Nhị.
九 二 . 牽 復 . 吉 .
象 曰 . 牽 復 在 中 . 亦 不 自 失 也 .
Cửu nhị. Khiên phục. Cát.
Tượng viết:
Khiên phục tại trung. Diệc bất tự thất dã.
Dịch.
Cửu nhị dắt nhau theo đạo lý,
Biết lam như vậy, vẫn là hay.
Tượng rằng: đạo lý quay về
Dắt nhau trở lại, chẳng hề hấn chi.
Hào Cửu nhị là trưòng hợp một người quân tử, ở gần thế lực khống chế của tiểu nhân hơn. tuy nhiên cửu nhị cương kiên, và đã quyết theo đạo lý, sẽ không e ngại sự cản trở của tiểu nhân, vần có thể tìm những người đồng tâm, đồng chí, tiến bước trên đường đạo lý.
3. Hào Cửu tam.
九 三 . 輿 說 輻 . 夫 妻 反 目 .
象 曰 . 夫 妻 反 目 . 不 能 正 室 也 .
Cửu tam. Dư thoát bức. Phu thê phản mục.
Tượng viết:
Phu thê phản mục. Bất năng chính thất dã.
Dịch.
Cửu tam: căm thoát trục xe,
Vợ chồng lườm nguýt, chẳng huề cùng nhau,
Tượng rằng: chồng vợ lườm nhau,
Làm sao gia đạo gót đầu êm xuôi.
Hào Cửu tam là trường hợp người quân tử vụng xử hơn, ít thức thời hơn, lại ở kề cận tiểu nhân, nên rất dề bị nó khống chế hãm hại. Nhất là người quân tử đó lại tỏ ra thất thố, sơ hở. Quân tử mà ở kề cận tiểu nhân, thời sẽ sinh đủ điều hung họa, phiền toái cho mình, có khác gì đi xe mà long bánh, ở trong gia đình, vợ chồng lườm nguýt, bất hòa với nhau đâu.
4. Hào Lục tứ.
六 四 . 有 孚 . 血 去 惕 出 . 無 咎 .
象 曰 . 有 孚 惕 出,上 合 志 也 .
Lục tứ. Hữu phu. Huyết khứ dịch xuất. Vô cữu.
Tượng viết.
Hữu phu dịch xuất. Thượng hợp chi dã.
Dịch. Lục tứ.
Nếu mình mà thành khẩn
Sẽ không lưu huyết, khỏi lo âu.
Thế thời đáng trách chi đâu.
Tượng rằng: thành khẩn, khỏi lo âu,
Bởi tại người trên cũng tâm đầu.
Hào Lục tứ. Dịch kinh đổi đề tài. Ở đây, lại đề cập đến một vị hiền thần, một lòng vì nhà, vì nước, muốn gián nghị bậc quân vương. Dịch kinh cho đó là một công trình nguy hiểm, cần phải khéo léo, và thành khẩn lắm mới khỏi bị máu rơi thịt nát. Đọc lịch sử, ta thấy biết bao nhiêu công thần chỉ vì can gián hôn quân, bạo chúa, mà phải chết oan.
– Mai Bá vì can Trụ Vương mà bị hình bào lạc,
– Hàng Sanh can Hạng Vương mà bị bỏ vào vạc dầu…
5. Hào Cửu ngũ.
九 五 . 有 孚 攣 如 . 富 以 其 鄰 .
象 曰 . 有 孚 攣 如 . 不 獨 富 也 .
Cửu ngũ. Hữu phu luyến như. Phú dĩ kỳ lân.
Tượng viết:
Hữu phu luyến như. Bất độc phú dã.
Dịch.
Chân thành thân thiết với hương lân,
Thế là giầu có gấp mấy lần.
Tượng rằng:
Xóm giềng, mà thực lòng thân,
Mình giầu, mà vẫn chung phần với ai.
Hào Cửu ngũ, theo Ngự Án (vua Khang Hy), chính là một vị quốc quân, biết nghe lời gián nghị. Thấy bề tôi thực tình can gián mình, thì cũng đem tình thực mà đáp ứng lại. Thế là biết lấy ý người làm ý mình, hiểu rằng mình ở cao ngôi, chính là để phục vụ dân nước, chứ không phải để riêng hưởng giầu sang.
Làm vua mà giầu cùng dân, vui cùng dân, mới được trường cửu. Làm vua mà giầu một mình, vui một mình, sẽ sớm bại vong. Đường lối của vua Văn, võ và Kiệt, trụ khác nhau ở chỗ đó.
6. Hào Thượng Cửu.
上 九 . 既 雨 既 處 . 尚 德 載 . 婦 貞 厲 . 月 幾 望 . 君 子 征 凶 .
象 曰 . 既 雨 既 處 . 德 積 載 也 . 君 子 征 凶 . 有 所 疑 也 .
Thượng Cửu. Ký vũ ký xử. Thượng đức tải. Phụ trinh lệ.
Nguyệt cơ vọng. Quân tử chính hung.
Tượng viết:
Ký vũ ký xử. Đức tích tải dã. Quân tử chính hung. Hữu sở nghi dã.
Dịch.
Thượng Cửu. Mưa rơi, thời nên nghỉ
Được vậy là nhờ tốn công phu.
Phụ nữ thắng rồi, còn chưa phỉ,
Rồi ra, chắc sẽ gặp nguy cơ.
Khuôn trăng sắp sửa tròn vo,
Được đà, quân tử phải lo nguy nàn.
Tượng rằng: Mưa xuống, thời ngơi,
Công phu tích tải lâu rồi mới nên.
Quá đà, quân tử nguy liền,
Là vì sẽ khiến người trên nghi ngờ.
Hào Thượng lục cho rằng khi mà can ngăn đã đạt, thì kẻ bầy tôi nên biết chiều ngưng lại mới hay. Muốn người trên ứng hợp với mình, mà người trên đã ứng hợp rồi, cũng như muốn mưa, đã mưa rồi, còn muốn gì hơn nữa? Đi quá trớn rồi, có khác gì phụ nhân đắc trí đâu? Trăng trước rằm mới là trăng đẹp, trăng quá rằm sẽ là trăng khuya, trăng khuyết, và sẽ hao mòn, mờ mịt dần với thòi gian.
ÁP DỤNG QUẺ TIỂU SÚC VÀO THỜI ĐẠI
Trên bước đường đời của chúng ta hiện nay, nhất là với người lữ thứ gặp biết bao nhiêu là cản trở, về đủ mọi phương diện: tiền tài, học vấn, nghề nghiệp, hôn nhân…
Khi bắt tay vào việc gì, nếu ta thấy bị cản trở, thì ta phải biết dừng chân lại. Phải soát xét lại tài đức mình, xem có khiếm khuyết sơ hở chỗ nào chăng, nên khiến bị người cản ngăn, phá phách. Người xưa cho rằng nếu có người chê trách mình, tì phải xét lại hành động, tác phong của chính mình chính là vì vậy. Ví dụ: khi ta ra trường, đi xin việc làm không đâu nhận, thì đừng đổ tại số xui, mà phải đi học tu nghiệp lại, vì ta xin việc không được là do khả năng nghề nghiệp của ta còn kém quá mà thôi. Hoặc hôn nhân của ta cứ lủng củng, thì ta phải xét lại ta, xem tính tình của ta có khó khăn không? cách xử sự của ta có lễ độ không? Sự đòi hỏi của ta có cao quá không?
Nếu xét thấy ta có đủ điều kiện mà vẫn bị cản trở, thì đó chỉ là những trở ngại bên ngoài, là tạm bợ nhất thời mà thôi, không nên quá bận tâm. Ta đừng bao giờ ngã lòng trước những trở ngại đó, ta cứ từ từ suy tính, từ từ giải quyết thì trước sau, ta cùng giải quyết được hết. Cái nút dù thắt khó đến đâu, nếu từ từ tháo gỡ, thì cũng tháo gỡ được.
Còn như muốn can ngăn người khác làm việc gì, thì cũng phải cẩn trọng. Can ngăn người phải biết lựa lời, lựa cơ hội, phải phân tích sự lợi hại của vẩn đề cho họ hiểu, cần nhất phải thành khẩn với họ, nếu không dễ làm mất lòng nhau.
(Dẫn theo trang huyenhocvadoisong.com)