Chương 12: Quan Hệ Giữa Thiên Can và Tứ Hóa Tinh
Mười Thiên Can là Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỉ, Canh, Tân, Nhâm, Quý, trong môn Tử Vi Đẩu Số đại biểu cho mối quan hệ của không gian, ở đây thì cái gọi là Không Gian, mang ý nghĩa:
Không gian sinh tồn
Không gian hoạt động
Phạm vi hoạt động
Hoàn cảnh trong các thời gian khác nhau
Tâm cảnh (cõi lòng)
Tưởng pháp (Lối suy nghĩ)
Nói về con người, trong một thời gian ngắn nào đó, nắm lấy một không gian riêng biệt, tức là, người đang sống thì chiếm giữ một khoảng không gian nhất định; trong khoảng thời gian này, tâm cảnh và lối suy nghĩ sẽ chi phối những hoạt động của người đó, để mà: kết giao hẹn hò, đi kiếm tiền, mua nhà, hôn thú phối ngẫu, dưỡng dục con cái, phụng dưỡng tôn trưởng, tùy thời mà chú ý sức khỏe, bảo dưỡng xe cộ. Những hoạt động này cấu thành một loại không gian khác của sinh hoạt cuộc sống, bởi vị sự tồn tại của những không gian này, hoàn cảnh sinh tồn mới có thể muôn màu muôn vẻ, phong phú đầy ý nghĩa. Mọi người làm việc đều tuân theo cái trình tự mà thi hành:
Suy nghĩ – Thực hiện – Kết quả – Thu liễm (Thu dọn).
Tử Vi Đẩu Số sử dụng sự đối ứng:
Hóa Lộc – Hóa Quyền – Hóa Khoa – Hóa Kị.
Thế nhưng, mọi người trong lúc tham gia một hoạt động nào đó, đều là tuân theo cái thứ tự: Suy nghĩ – Thực hiện – Kết quả – Thu dọn (tương tự lý thuyết quản lý học PDOA), suy nghĩ, đem ý tưởng trở thành hành động, lấy được thành quả, sau cùng là hưởng thụ thành quả. Ví dụ: Việc mua nhà, đầu tiên, sẽ phải nghĩ đến việc mua nhà, các loại yếu tố về bố cục của căn nhà, môi trường xung quanh, giá cả,… đều sẽ ở trong tư tưởng mà cùng được cân nhắc, sau một phen suy nghĩ sâu xa và so sánh các khả năng có thể xảy ra, sẽ đưa ra quyết định mua một căn nhà, đặt cọc, trả tiền, sau đó dọn vào ở, hưởng thụ niềm vui.
Trong Tử Vi Đẩu Số, dùng 4 cái trình tự Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Hóa Kị, để mà đại biểu hàm nghĩa như sau:
Hóa Lộc – nguyên nhân, tư tưởng.
Hóa Quyền – hành động, chấp hành, ước thúc, quản chế.
Hóa Khoa – công thành danh toại thu hoạch
Hóa Kị – hưởng thụ, tiềm tàng, thu liễm.
Tất cả quá trình này tựa hồ mỗi một cung nhân sự đều tồn tại, cho nên mỗi một cung đều có Thiên Can để diễn sinh Tứ Hóa, biểu thị thứ tự của quá trình 4 giai đoạn ấy. Tứ hóa có ảnh hưởng xâu chuỗi các cung vị cùng loại mà không cùng khoảng thời gian, và liên kết với các cung vị không cùng loại, biểu thị hệ thống mắt xích Nguyên nhân – Kết quả qua lại một cách chặt chẽ.
Mỗi một hành vi mà cung nhân sự sẽ kéo dài về sau, 1 năm, 2 năm, thậm chí 10 năm, 20 năm,… Thế nhưng, có những tư tưởng lại như phù dung sớm nở tối tàn, căn bản là do chưa biến thành hành động. Do đó Tứ Hóa có tác dụng sự xâu chuỗi các Không gian, giai đoạn khác nhau, nếu như gặp đại hạn dịch chuyển, liền do Can cung của Đại Hạn khác đi mà diễn sinh Tứ Hóa, lấy biểu hiện về mặt tâm tính có sự cải biến. Cái việc diễn sinh Tứ Hóa theo Can cung của Đại Hạn kế tiếp và cái việc diễn sinh Tứ Hóa của Can cung Đại hạn hiện hành, có tính liên tục, biểu thị ra tư tưởng hoặc hành động, sẽ kéo dài. Giả sử nó là không liên tục, đó là dấu hiệu cho rằng, ắt sẽ thấy có sự giữa đường đứt gánh hoặc mất hứng thú.
Ví dụ như mệnh tạo có Can cung Đại Hạn là Ất, thì Tứ Hóa của nó như sau: Thiên Cơ hóa Lộc, Thiên Lương hóa Quyền, Tử Vi hóa Khoa, Thái Âm hóa Kị. Đi sang Đại Hạn tiếp theo có Can là Bính, thì Tứ Hóa như sau: Thiên Đồng hóa Lộc, Thiên Cơ hóa Quyền, Văn Xương hóa Khoa, Liêm Trinh hóa Kị. Do đó, nếu là người cách cục [Cơ Nguyệt Đồng Lương], gặp 2 Đại Hạn này, Hóa Lộc, Hóa Quyền ở tam phương của Mệnh gốc hoặc chiếu tam phương, cho nên nếu thi thố công danh, mưu chức gây dựng sự nghiệp, đều có thể trôi chảy như ý.
Mọi người có thể quan sát từ 10 Thiên Can Tứ Hóa trong ngoài xuất ra, tổ hợp cách cục của các sao ở tam phương tứ chính với thập can Tứ Hóa có quan hệ rất lớn. Vì sao lại nói cái người [Cơ Nguyệt Đồng Lương cách] làm việc có kế hoạch, có trình tự, hơn nữa còn là cách cục từng bước từng bước hướng tới thành công? Bởi vì 3 Thiên can liên tục là Ất, Bính, Đinh diễn sinh Tứ Hóa đều nếu không phải là ở tam phương của cách Cơ Nguyệt Đồng Lương thì cũng là tới chiếu vào tam phương.
Từ chỗ Tứ Hóa của Can cung Đại hạn gốc phi Hóa phát động Tứ Hóa của Đại hạn ngay trước đó mà có hay không tính liên tục? Có thể dùng để xem xét mệnh tạo thuộc loại mệnh cách bạo phát bạo tàn hay từ từ mà tiến dần đến thành công.
Người mang cách Vũ Tham thì thường giầu có sau một đêm, số phận bạo phát bạo tàn, bởi vì can Kỉ khiến cho Vũ Khúc Hóa Lộc, Tham Lang Hóa Quyền cùng đóng ở Mệnh – Quan hoặc hội hợp trục Mệnh – Di, cho nên sẽ phát đạt nhanh, nhưng qua Đại Hạn tiếp theo, thì sự tình sẽ là:
Can Mậu – Tham Lang Hóa Lộc.
Can Canh – Vũ Khúc Hóa Quyền.
Lúc này chỉ có Hóa Lộc hoặc Hóa Quyền nhập mà thôi, biểu thị không có lý tưởng, không có cách thay đổi hành động; hoặc chẳng màng thế sự, làm càn một phen, không có kế hoạch: Tuy rằng đối với Vũ Khúc Tham Lang, cũng có ảnh hưởng, nhưng không có Hóa Khoa nhập tam phương của cách Vũ Tham cho nên đây là hiện tượng bạo phát bạo tàn.
Từ hình thái tổ hợp các sao mà hóa thành Tứ Hóa theo Can cung, kết hợp với cách cục của Mệnh cách, chúng ta cũng có thể thấy được chủ nhân mệnh bàn là mẫu người thuộc dạng bạo phát bạo tàn hay từ từ tiến tới thành công.
Về phần dựa vào đâu để phát đạt? hoặc vì cái gì mà thất bại, thì cần xem xét [Hóa tinh] là cái sao nào đã hóa? Mỗi một sao, đại biểu cho một loại ý tượng (hình ảnh), mà nó nằm ở các cung nhân sự khác nhau cũng có ý nghĩa khác nhau. Ví dụ: Liêm Trinh hóa Lộc mà độc tọa tại cung Quan Lộc, bởi vì Liêm Trinh thuộc Đinh hỏa, là điện năng, về vật phẩm mà nói là đồ dùng điện khí, như ti vi, máy giặt, nồi cơm điện, các loại máy móc, cho nên thích hợp làm các công việc liên quan đến ngành điện, bên cạnh đó tham khảo các phụ tinh đồng cung, sẽ có thể đưa ra kết luận tinh tế về hạng mục nghề nghiệp.
Cho nên, thập can tứ hóa nhất định phải tùy thuộc vào cung nhân sự khác nhau để mà thay đổi sự giải thích, sau đó lại phải xem xét cả Chính tinh đồng cung, các trạng thái tổ hợp của trợ tinh, sát tinh, chú ý từng chi tiết mà giải thích tỉ mỉ chính xác. Bởi vậy, việc tham khảo ý tượng (hình ảnh) mà các tinh tú đại biểu của thập can Tứ Hóa thì cần phải hiểu rõ trong lòng, mới có thể ứng dụng linh hoạt. (về ý nghĩa của thập thiên can hóa diệu mời tham khảo chương 25: Giải thích sự vận dụng linh hoạt Tứ Hóa phi tinh).
(Dẫn theo trang www.huyenhocvadoisong.com)