Các loại tứ hóa
Tứ hóa có thể chia thành bốn loại chính: Tứ hóa của thiên can năm sinh, tứ hóa của can 12 cung nguyên cục, tứ hóa của can 12 cung đại vận, và tứ hóa của can 12 cung lưu niên. Đây là các “dụng thần” của Tử Vi Đẩu Số, là các nhân tố dùng để tham khảo trong lúc luận đoán, bạn có thể đứng từ nhiều gốc độ khác nhau để quan sát tinh hình biến động thay đổi của đời người qua nhiều giai đoạn, nhờ đó mà nội dung dự đoán cực kỳ phong phú, độ chính xác của dự đoán cũng cao hơn.
Can năm sinh, can 12 cung nguyên cục, can 12 cung đại vận, can 12 cung lưu niên, can 12 cung lưu nguyệt, can 12 cung lưu nhật, can 12 cung lưu thời, đều có thể phi xuất tứ hóa, trong đó tứ hóa của can năm sinh và tứ hóa của can 12 cung nguyên cục có thời gian tác dụng giống nhau, tức đều có ảnh hưởng chung đối với mệnh vận của một đời người, chỗ khác nhau là: tứ hóa của can năm sinh là thuộc về thiên phú, kiến hiệu lộ rõ và mạnh; còn tứ hóa của can 12 cung nguyên cục là biểu hiện của hậu thiên, kiến hiệu ngầm và yếu.
Cùng một lý, tứ hóa của can các cung đại vận và lưu niên kiến hiệu lộ rõ và mạnh; còn tứ hóa của can 11 cung còn lại của đại vận và lưu niên kiến hiệu ngầm mà chậm, sức mạnh nhỏ.
Tứ hóa của vận hạn (bao gồm can các cung đại vận, lưu niên, lưu nguyệt, lưu nhật, lưu thời phi xuất tứ hóa), chủ yếu dùng để xem diễn biến cuộc đời của một người trong vận hạn nào đó. Tứ hóa của can đại vận chỉ có ảnh hưởng 10 năm trong đại vận đó; tứ hóa của can lưu niên chỉ có ảnh hưởng trong năm đó; tứ hóa của can lưu nguyệt chỉ có ảnh hưởng trong tháng đó; tứ hóa của can lưu nhật chỉ có ảnh hưởng nội trong ngày đó; tứ hóa của can lưu thời cũng chỉ có ảnh hưởng trong giờ đó (tức hai tiếng đồng hồ ngày nay). Các cung lưu niên, lưu nguyệt, lưu nhật, lưu thời xem trọng xung chiếu, mà không xem trọng phương tam hợp (Cung tiểu hạn không có tứ hóa, cũng chỉ xem trọng xung chiếu).
Các sao sau khi “hóa”, không thể lấy tính tình cố hữu của nó để luận đoán, nhưng vẫn phải lấy nó làm “thể”, lấy “hóa” làm “dụng”, tức là dựa trên cơ sở tình của sao gốc mà luận biến thành cát hay hung.
Tứ hóa của can cung nào thì cung đó là nguyên nhân của sự tình (lấy tên cung chức năng làm chỉ dẫn). Tứ hóa nhập cung nào, thì lấy cung đó làm sự thể, là kết quả.
Ví dụ: can cung Nô Bộc phi Hóa Kị nhập cung Tài Bạch, là biểu thị xảy ra xung đột với bạn bè (nguyên nhân của sự tình) về tiền tài (sự thể kết quả).
Lại ví dụ, can cung Tử Nữ phi Hóa Kị nhập cung Tài Bạch, có nghĩa là nguyên nhân là do con cái, mà gây ra phá tán tiền của, hao tài. Hoặc như can cung Tài Bạch phi Hóa Kị nhập cung Phúc Đức, có nghĩa là tiêu xài tiền bạc vào chuyện hưởng thụ, lãng phí tiền của, hao tài, khó tụ tài.
Lúc giữa tứ hóa với nhau xảy ra va chạm cũng vậy . Ví dụ như sao Hóa Lộc của can năm sinh nhập cung Phúc Đức, chủ về tự nhiên có phúc, nguồn để kiếm tiền khá tốt; nếu cung Tử Nữ lại phi Hóa Kị nhập cung Phúc Đức, vì sao Hóa Kị không cùng một nhóm, cho nên lúc này Lộc Kị gặp nhau không thể luận là “Song Kị”, một mặt chủ về có phúc, mặt khác lại chủ về con cái (nguyên nhân) làm hao tổn phúc phần của mệnh chủ (kết quả của sự thể), bị phá tán hao tổn tài vật (xung cung Tài Bạch).
(Tử vi đẩu số tinh hoa tập thành – Đại Đức Sơn Nhân)