Thuật đoán mệnh
Thuật đoán mệnh và cơ may của con người.
Thuật đoán mệnh là dựa vào ngày, tháng, năm và giờ sinh của một người để suy đoán điềm cát hung hoạ phúc một đời của người đó.
Theo lí luận của các nhà đoán mệnh ”Con người thụ mệnh ngay từ khi cha mẹ thụ khí, đã có cát hung rồi… Giàu sang, nghèo hèn đã có từ lúc bẩm sinh, không phải là sau khi lớn lên theo tiết tháo của mình mà có được”, (thiên “Mệnh nghĩa”). Vương Sung cũng nói : “Mệnh, cái đã có ngay từ lúc bẩm sinh, con người sinh ra từ lức thụ tính (giống), đã thụ mệnh”.
Vì thế, “Mệnh”, các nhà đoán mệnh nói, cũng chính là “Thời”.
Thuật đoán mệnh bắt nguồn từ thuật chiêm bốc. Trải qua 2 thời nhà Hán, Đường sự sáng tạo của các nhà tinh mệnh học phát triển, phương pháp ngày càng thành thực, lí luận cũng trở nên hệ thống hơn. Phương hướng tìm tòi của nó là vấn đề đời người với thời gian, vấn đề nó giải đáp không phải là con người từ đâu đến, mà là những đáp án hiện thực chỉ ra làm thế nào để sống được khá hơn.
Sự tìm tòi của đáp án là sự ra đời của con người, tức là sự bắt đầu của sinh mệnh. Các nhà đoan mệnh dùng Thiên can, Địa chi để sắp xếp giờ, ngày, tháng, năm sinh của con người, tiếp sau dùng ngũ hành thay can chi để suy diễn mối quan hệ giữa 8 chữ can chi và tìm được lời giải cần tìm.
Các nhà đoán mệnh phân chia toàn bộ quá trình đời người thành 12 giai đoạn hay là 12 trạng thái :
- Trường sinh: tức mới sinh.
- Mộc dục: Sự tắm rửa sau khi đứa trẻ sinh ra.
- Quan đới: sau khi lớn lên có thể đội thêm mũ.
- Lâm quan: khi trở thành trai tráng có thể học hành thành đạt và làm quan.
- Đế vượng: Khi cực thịnh có thể phò tá Đế vương.
- Suy: sau trung niên, từ cực thịnh chuyển sang suy.
- Bệnh: càng thêm suy yếu hơn.
- Tử: khí tận và đến chết.
- Mộ: Đưa hài cốt chôn cất vào lòng đất.
- Tuyệt: Sinh khí đã hoàn toàn hết hẳn.
- Thai: bắt đầu thai nghén một thai mới.
- Dưỡng: dần dần bồi dưỡng phôi thai lớn lên.
Chỉ cần đem ngũ hành mà mỗi thiên can đại diện từng cái một đối chiếu với địa chi, sẽ có thể suy diễn vận mệnh của con người tốt hay xấu, có gặp thời hay không.
Phương pháp suy diễn này bắt nguồn từ nhận thức đặc trưng của vật chất. Ví dụ Mộc tại tháng Hợi (tức tháng 12) là trạng thái Tràng sinh. Cây cối lúc này hơi bắt đầu sinh trưởng từ trong trạng thái đất trời đầy băng tuyết, đang chờ đón mùa xuân đến.
Người dùng ngày, tháng, năm sinh của người để đoán mệnh đầu tiên là Lý Hư Trung Thời nhà Đường. Đến thời Ngũ Đại có một người tên là Từ Tử Bình ẩn cư tại động ngọn núi Tây thường Thái Hoa đã cải tiến thủật đoán mệnh. Xác định lập luận lấy bốn mục : năm, tháng, ngày, giờ sinh của người để đoán mệnh.
Lãnh tụ Đạo học thời Tống là Chu Hi rất tin tưởng thuật đoán mệnh. Ông nói : “Người đời lấy can chi của giờ, ngày, tháng năm sinh của con người để nạp âm’ để suy diễn ; biết được mọi việc cát hung, thọ yểu, cùng cực và thành đạt của người đó. Thuật đó tuy có chỗ còn nông cạn, song những người có học cũng vẫn chưa tạo được gì tinh vi hơn. Mọi cái bao trùm cả trời đất, sinh vật thảy đều không vượt khỏi âm dương ngũ hành ; Các thông tin lúc khuất lúc hiện của nó, đan xen nhau biến đổi, vốn đã không thể khảo cứu hơn. Còn trời phú cho muôn vật có sự khác nhau hiền, ngu, sang hèn, đặc biệt sai khác nhau chút đỉnh về tối tăm hoặc thông minh, điều đó có thể dễ hiểu được.”
Không chỉ có Chu Hi tin tưởng thuật đoán mệnh, mà từ nhà Đường trở về sau, mọi người không kể giàu nghèo, sang hèn, già trẻ, trai gái, mọi việc không kể là làm quan, thi cử, kinh doanh, hôn nhân, hầu như ai ai cũng đều tin vào số mệnh. Ngay cả đến Hoàng đế cùng đoán mệnh. Làm việc đó không ngoài mục đích để tìm ra hoặc xác định cơ may thành công của mình.
Định nghĩa vận mệnh
”Vận mệnh” có hai hàm ý. Một là Mệnh, tức là sinh mệnh hoặc tính mệnh. Hai là vận, tức là vận khí. Sinh mệnh có sống chết, thọ yểu, còn vận khí thì có thịnh suy, thông suốt và bế tắc. Mệnh phần nhiều chỉ về tính tự nhiên hoặc tính bẩm sinh, tức là trạng thái sinh tử, thọ yểu sẵn có và có thể có, kết cục và xu thế của nó. Còn vận thì phần nhiều chi tính xã hội hoặc lúc trưởng thành, tức là mọi phương thức, mức độ và khả năng mà đời người phải trải qua. Nhưng trong vận dụng thực tế; thì cả hai cái đều phải đi kèm nhau, hoặc khi tính mệnh hoặc vận thì cũng phải bao gồm cả giàu sang, nghèo hèn, phúc hoạ, cát hung. Vì thế, mệnh vận chính là chỉ ra trạng thái cách cục của giàu sang, nghèo hèn, sinh tử thọ yểu và tất cả đặc điểm kết cục và xu thế chung từng gặp của phúc hoạ, cát hung, thịnh suy hưng phế, thông cùng, tiến hóa, vinh nhục, buồn vui.
Ví dụ, nếu một người trong cả cuộc đời không có tai nạn lớn, hoặc gặp tai nạn lớn nhưng không chết, gia đình hạnh phúc hòa hợp, cuộc sống đầy đủ, tiền tài không thiếu, khoẻ mạnh trường thọ, quan vận hanh thông thanh danh thành gia, “bách mưu bách thành”, mọi việc như ý, thường dễ dàng đạt được những cái mà người khác phải bỏ ra sức lực lớn hơn vẫn không với tới được. Những gì chúng ta thường nói anh ta có mệnh vận tốt chính là nói kết cục và trạng thái một đời của người đó tốt. Có thể người này xuất thân từ địa vị thấp hèn, có thể thời trai trẻ không ngờ phải trải qua cuộc sống long đong, có thể tài năng không có gì kiệt xuất, nhưng lại được tất cả hạnh phúc của đời người. Ngược lại, có một số người trong cả cuộc đời gặp nhiều tai nạn, cuộc sống gia đình bất hạnh, khốn khó buồn chán, mọi việc trắc trở, mưu sự không thành, thậm chí bất hạnh chết sớm, gặp nhiều thảm hoạ ngang trái, có thể người này rất có tài năng, rất thành thạo, lăn lộn móc nối ; có thể xuất thân từ gia đình cao sang, được đào tạo bồi dưỡng rất cao, nhưng cuối cùng vẫn không được như ý ; có người có thể đã từng có chức tước to, nhỏ, nhưng không phải là vừa được đề bạt đã bị mất chức hoặc vì nguyên nhân khác phải vội vàng dờí nhiệm. Tất cả những trường hợp này, ta sẽ nói anh ta số phận long đong, chính là nói kết cục và trạng thái cuộc đời của người này là không tốt.
Từ ví dụ này ta thấy, mặc dù vận mệnh là đặc điểm và xu thế chung của tất cả những gì đã gặp trong đời người, nhưng cũng giống như sự cảm thụ của cuộc sống hàng ngày, hầu như vận mệnh lại là một sức mạnh, một sức mạnh mà con người rất khó nắm vững và chi phối, mà từ đầu đến cuối nó sẽ chi phối hoạt động lựa chọn của con người, đồng thời đã định sẵn kết cục một đời. Bởi vì người ta thường suy ngẫm : Tại sao cũng là người mà lại có mệnh vận hoàn toàn khác nhau ? Tại sao cái phải bỏ ra và cái thu được lại không tỉ lệ với nhau ? Tại sao sự việc lại thường đi ngược với ý nguyện ? Tại sao con người không có cách nào để hiểu biết tương lai, khó tránh khỏi hiếm họa ? Tại sao con người không thể theo ý chí của mình đế sinh tồn, để hoàn thiện mình và tự do chi phối sinh mệnh của chính mình ? Tất cả các điều đó khó tránh làm cho người ta có sự hiểu sai, hầu như có một sức mạnh âm thầm nào đó mà sức người không thể bì kịp, đã chi phối và thao túng tất cả mọi cái của con người. Nói cách khác, tất cả đều là do cuộc sống an bài. Loài người không có cách nào khác đối với sức mạnh này, tất cả mọi hoạt động đều không thể tránh khỏi sự sắp đặt của cuộc sống, mà đây chính là vận mệnh. Cho nên, cho dù thời kì đương đại này, nhiều giải thích cũng không thoát khỏi điều còn nghi hoặc này, ta hãy xem một giải thích trong sách “Luân lí tôn giáo bách khoa toàn thư” bản tiếng Anh đối với vận mệnh như sau : “Mệnh là một loại thế lực mà khả năng của chúng ta không thể nào chống cự lại được, thường là một thế lực vô ý thức, vật chất, cơ giới. Loại thế lực này có thể quản lý cả thế giới, mà ngay cả con người cũng nằm trong “hàng ngũ bị quản lý này”.
Thực chất của vận mệnh
Như vậy, rốt cuộc liệu có loại sức mạnh hay vận mệnh mà sức người không dễ có thể chi phối được không ? Nếu có, thì thực chất của nó là gì ? Nói khác đi là vận mệnh do cái gì tạo thành, do cái gì chi phối ? Dựa vào trình độ nhận thức của loài người ngày nay. Đành rằng trong cuộc sống thực tế, mỗi người đều có cảnh ngộ cuộc sống khác nhau, kết cục khác nhau, mả cảnh ngộ và kết cục này lại khó bị bản thân cá thể đó chi phối, như thế thì chúng ta phải nên thừa nhận sức mạnh bản thân con người đó cũng khó chi phối, tức vận mệnh. Nhưng chúng ta lại cho rằng, thật ra vận mệnh không phải là một sức mạnh thần bí. Trên thực tế, nó là “hợp lực” của quy luật tự nhiên, quy luật xã hội và đặc điểm sinh mệnh cá thể. Chính hợp lực này đã chi phối phương thức, xu thế và trạng thái sự sinh tồn và hoạt động của một con người. Đối với một cá thể được chỉ định, phương thức và mức độ chịu lực khác nhau sẽ biểu hiện ra cảnh ngộ và kết cục đời người khác nhau. Đó là vì sự sinh tồn và phát triển của loài người quyết định bởi quy luật tự nhiên và xã hội, quyết định bởi đặc điểm sinh mệnh cá thể và sự di truyền bẩm sinh của nó. Loài người chỉ có thể sinh tồn và hoạt động, chọn lựa và thích nghi trong quyết định thời gian, không gian chỉ định này, mà sự sinh tồn và hoạt động, sự chọn lựa vào thích nghi này chính là vận mệnh.
Từ khía cạnh quy luật tự nhiên để xét, như mọi người đều biết, người là sản phẩm của tự nhiên, mọi sự sinh tồn và hoạt động của con người chỉ có thể tiến hành trong thời gian, không gian mà tự nhiên tạo cho, tất cả mọi nhu cầu sinh tồn cũng chỉ có thể hấp thụ trong tự nhiên, Nghĩa là quy luật tự nhiên quyết định sự sinh tồn và phát triển của loài người, quyết định sự chọn lựa và hoạt động của cá thể chỉ định trong thời gian không gian chỉ định của tự nhiên. Sự chọn lựa và hoạt động này có thể xem như là vận mệnh. Còn đối với tự nhiên to lớn bao la và vĩnh hằng, không kể là toàn bộ hay là quần loại mãi mãi vẫn là bé nhỏ, mãi mãi cũng chỉ là một trẻ thơ trung thực của tự nhiên. Định vượt qua hoặc không tuân thủ quy luật tự nhiên, cứ bành trướng bản thân mình một cách không kiềm chế, thì kết cục của nó hay nói cách khác là vận mệnh nhất định phải bi thảm. Thế giới ngày nay, do những cuồng vọng và mù quáng của loài người tạo nên như làm mất cân bằng và phá hoại sinh thái, làm ô nhiễm bầu khí quyển và cái gọi là “hiệu ứng buồng nóng”, v.v… đã làm cho chúng ta cảm thấy loài người đang đứng trước vận mệnh bi thảm, như vô vàn sự chết chóc, đói rét do hạn hán và lụt lội gây ra. Tóm lại là xem xét từ khía cạnh quy luật tự nhiên, vận mệnh chính là sự thích nghi và mức độ tôn trọng của con người đối với quy luật tự nhiên.
Xét từ khía cạnh xã hội, cá thể con người là sản phẩm của quần loại, cũng là một phần tử tạo thành quần thể. Cũng giống như loài người không tách rời đại tự nhiên, sự tồn tại của cá thể cũng không tách rời xã hội. Quy luật xã hội tất nhiên sẽ quyết định sự chọn lựa và hoạt động của một người, trong thời gian không gian chỉ định trong xã hội. Sự chọn lựa và hoạt động, tương tự cũng có thể xem nó như là vận mệnh. Nếu cá thể đó vi phạm quy tắc giá trị, quan niệm luân lí, phương thức sinh hoạt của quần thể, như thế thì tất nhiên sẽ gặp phải sức mạnh xã hội lớn hơn gấp nhiều lần sức mạnh cá thể lạnh nhạt, ruồng bỏ thậm chí trừng phạt. Ví như một người có cá tính quá quái dị, làm việc quá thiên tư, làm cho người bình thường không ai hiểu nổi mà cũng không có cách nào chấp nhận nổi, mọi hành vi của họ tất nhiên chỉ có thể gặp cản trở khắp nơi, do đó vận mệnh nhất định phải long đong lận đận. Không có sự tôn trọng của xã hội, không có sự tu dưỡng phong độ tốt sẽ không thể có địa vị và danh vọng hiển hách. Không có sự bồi dưỡng văn hóa, quan niệm kinh doanh tối thiểu, tất nhiên không thể chọn được nghề nghiệp và ngành kinh doanh của mình thích hợp, không những không thể trở thành một nhà doanh nghiệp, một giám đốc, ngược lại sẽ khuynh gia bại san, vận mệnh long đong lận đận. Tóm lại từ khía cạnh xã hội, vận mệnh chính là trình độ nắm bắt thông tin của con người đối với xã hội.
Từ khía cạnh sinh mệnh để xét, sinh mệnh con người chịu hạn chế của kết cấu sinh lí của cá thể chỉ định, cần phải tiến hành tuyển chọn và hoạt động trong phạm vi công năng về sinh lí của nó có thể đạt tới, cũng có thể xem nó là vận mệnh. Vi phạm thiên tính của con người, không yêu quý sinh mệnh, đương nhiên sẽ không mạnh khoẻ sống lâu, dùng những phương thức vi phạm thiên tính của con người để chọn lựa, để hoạt động, đương nhiên sẽ không có được “bách mưu bách thành”, mọi việc đều trôi chảy. Ví dụ, mặc dù chúng ta không thể làm cho mình “trường sinh bắt tử”, cũng không thể nắm vững một cách hữu hiệu tuổi thọ và sống chết của mình, nhưng nếu mỗi người chúng ta dựa theo quy luật sinh mệnh để sinh tồn, như thế thì việc kéo dài tính mệnh của mình, thực tế chứng minh rõ ràng là có khả năng. Tóm lại, từ khía cạnh sinh mệnh để xét vận mệnh chính là trình độ thích nghi đối với quy luật sinh mệnh.
Đây chính là thực chất của vận mệnh, nó được biểu hiện ra qua mọi trạng thái hoạt động của cá thể.
Đặc điểm của vận mệnh
Trong đời sống thực tế, vận mệnh rất khó nắm chắc. Nguyên nhân của nó là xã hội do vô số cá thể tạo thành, mỗi một cá thể sai khác nhau quá nhiều, không tài nào đồng nhất được. Đồng thời, một khi xã hội hình thành, tất nhiên sẽ sản sinh một sức mạnh có công năng của bản thân cả hệ thống xã hội to lớn. Nó tồn tại trong từng cá thể, lại vừa trôi nổi ở trên từng cá thể. Lực lượng chi phối mạnh mẽ của tự nhiên luôn hiện ra bất kì lúc nào và bất kì ở đâu, từ đó sẽ làm cho hoàn cảnh sống của con người hoàn cảnh tự nhiên và hoàn cảnh xâ hội nằm trong trạng thái biến động không ngừng, tạo nên những khó khăn của việc chọn lựa và hoạt động của sinh mệnh cá thể trông không gian, thời gian chỉ định và ‘khó dự đoán trước đối với kết cục và xu thế.
Do vận mệnh được xem là đặc điểm và xu thế chung của cảnh ngộ của đời người, được quyết định một cách tuyệt đối bởi quy luật của tự nhiên, xã hội và sinh mệnh, nên trạng thái tư chất bấm sinh tự nhiên và tình hình hun đúc tái năng của xã hội khi trưởng thành, cũng sẽ tạo thành quan hệ tỉ lệ thuận với trạng thái vận mệnh. Có nghĩa là có được tính hợp tự nhiên, hợp xã hội đầy đủ, ắt sẽ có vận mệnh tốt. Không có tính hợp tự nhiên, hợp xã hội đầy đủ thì tất nhiên không có được một đời người tốt đẹp. Cũng đúng như chúng ta không có cách nào trông chờ một người trí lực bẩm sinh không hoàn hảo lại có thể giành được danh vọng, một người ốm yếu bệnh tật lại có thể sống lâu. Chúng ta cũng không thể mong đợi một người thần thái suy nhược, dung mạo bủn xin, hình dáng ti tiện có được vận mệnh tốt đẹp. Đấy chính là do không có tính hợp tự nhiên, hợp xã hội đầy đủ. Song, đối với đại đa so người, muốn phán đoán trình độ và trạng thái nắm bắt thông tin của bản thân với tự nhiên và xã hội có tính hợp tự nhiên, hợp xã hội hay không, thật không dễ dàng chút nào. Vì thế, dự đoán chuẩn xác và nắm chắc kết cục và xu thế một đời đối với tương lai như xem lòng bàn tay thì hầu như không thể làm được.
Huống hồ bản chất của loài người quyết định loài người mãi mãi không thể đi đến tận cùng bí ảo của tự nhiên, mãi mãi không thể làm chúa tể tự nhiên, chi phối xã hội, làm chúa tể sinh mệnh, chi phối sinh mệnh, cho nên cũng sẽ khó chọn lựa được phương vị không gian thời gian chỉ định, trong phương vị này hoạt động và thực hiện giá trị tự thân, vì vậy cũng khó dự đoán được xu thế chung, kết cục chung của đời người của chinh mình.
Đồng thời trong nhiều nhân tố quỵêt định vận mệnh một người, cố nhiên có những nhân tố người ta vẫn mãi mãi không có cách nào để chi phối và nắm chắc, nhưng cũng có những nhân tố người ta có thể chi phối và nắm chắc, chẳng qua vì trình độ nhận thức của loài người chưa đạt được yêu cầu, với tư cách là cá thể thì tầng nấc lại càng bất nhất. Vì thế cũng sẽ quyết định khó khăn của việc chọn lựa và hoạt động của cá thể trông không gian, thời gian được chỉ định và cái khó nắm chắc và dự đoán đối với kết cục và xu thế của đời người.
Song, cố nhiên vận mệnh không dễ nắm chắc, nhưng không phải là không có thể nhận thức, cải biến và nắm chắc. Điều đó tạo nên cái chúng ta gọi là vận mệnh quan và vận mệnh quan truyền thống (tức cho rằng vận mệnh đã được định sẵn lúc mới sinh, không thể chi phối được). Chỉ bàn về mấy nhân tố kiềm chế vận mệnh khó nắm chắc nêu ở trên, thì trong phạm vi nhất định cá thể có thể chi phối sinh từ thọ yểu, bần tiện, phú quý, cát hung, ví dụ biết mình thân thế suy nhược bệnh tật thì phải dùng phương pháp dưỡng sinh để bù đắp, phân tích mọi nhân tố mình sắp sửa tiến hành hoạt động, từ đó để chọn lựa những cái có lợi cho mình, quyết định theo cái thuân lợi tránh cái phiền phức. Lại như về kinh doanh, thì phải nhắm đúng ngành hàng trong thương trường và tình hình nhu cầu của mọi người, phán đoán chuẩn xác sẽ làm tăng tỉ lệ vận may, phán đoán không chuẩn xác thì cơ hội vận may đã mỏng manh lại càng mỏng manh. Nếu như xuất hiện tình huống ngược lại, tất nhiên lại như không hẹn mà gặp được một số nhân tố có lợi nào đó một cách không tự giác. Tóm lại, chúng ta khó chi phối kết cục chung của các việc như sinh tử thọ yểu, phú quý bần tiện của chúng ta, nhưng chúng ta có thể thông qua sự cố gắng của lúc trưởng thành nắm chắc cơ hội, làm theo điều lành, tránh điều dữ thì không nghi ngờ gì nữa làm cho vận mệnh của mình hướng tới mặt tốt của nó. Nếu ngược lại, vận mệnh tất nhiên sẽ hướng tới mặt xấu kém. Tác giả trong tác phẩm này đã nhiều lần cho rằng làm điều thiện và tích đức, có thể làm thay đổi vận mệnh không tốt đẹp hiện ra do bản thân tướng mạo bẩm sinh, căn cứ của nó chính là ở chỗ này.
Điều đó sẽ quyết định vận mệnh có những đặc điểm như sau :
- Vận mệnh là căn cứ chắc chắn của kết cục và xu thế chung đối với đời người, nó được biểu hiện qua mọi trạng thái hoạt động của cá thể.
- Vận mệnh là phương thức, đặc trưng lựa chọn và hoạt động của cá thể trông không gian thời gian chỉ định và khái quát kết quả của nó.
- Vận mệnh không phải là một sức mạnh thần bí, cũng không phải do một sức mạnh vô hình nào quyết định, mà là do hoàn cảnh và bản thân quyết định. Là sản phẩm của tác dụng hợp lực của nhân tố bẩm sinh và nhân tố lúc trưởng thành.
- Vận mệnh là sụ tồn tại khách quan.
- Vận mệnh là một loại nhận biết đối với quy luật sinh mệnh.
- Vận mệnh không dễ dự đoán, cũng không dễ nắm chắc, nhưng không có nghĩa là không có thể dự đoán, không có thể nắm chắc.
- Vận mệnh có thể biến đổi, không phải là mô thức và khung cố hữu, đã hình thành là không thể thay đổi.
- Vận mệnh là một loại miêu tả trạng thái động, mà không phải là sự miêu tả trạng thái tĩnh.
- Vận mệnh không phải là “vận may” giống như tính chất đánh bạc.
Phê phán đối với vận mệnh quan xưa
Vận mệnh quan xưa vừa bao gồm vận mệnh quan trong sách và tài liệu cổ đại của Trung quốc vừa bao gồm cả vận mệnh quan thế tục.
Cách nhìn truyền thống của người Trung Quốc đối với vận mệnh là : “vận mệnh là một mô thức cố định của người sinh ra đã có, quyết định sự sinh tử thọ yểu, phú quý bần tiện, cát hung vinh nhục của một đời. Một con người vừa mới thoát ra khỏi bụng mẹ đã có vận mệnh, nó chi phối đặc điểm, trạng thái kết cục và xu thế chung của một đời. Nó là do sức mạnh thần thánh làm chúa tể loài người và vạn vật quyết định. Sức mạnh vô hình này, người ta không thể làm thay đổi nó, nắm chắc nó, cho nên đứng trước sức mạnh thần bí của vận mệnh con người này chỉ có thể vô điều kiện nghe theo nó, tiếp thu sự chi phối của nó. Đương nhiên người ta cũng có thể nhận biết nó, thông qua phương thức nhất định để miêu tả nó và dự đoán nó”.
Vận mệnh quan cổ xưa này rõ ràng đã biến vận mệnh thành một sức mạnh vô hình, làm cho vận mệnh phủ lên một lớp màu sắc thần bí. Như Vương Sung đã cho rằng vận mệnh là một sức mạnh thần bí quyết định sự sinh tử thọ yểu và phú quý bần tiện của con người. Nó được quyết định bởi bào thai chịu ”khí” khác nhau ngay từ khi trong bụng mẹ, mà sức người không thể làm thay đổi được. “Mệnh là cái chính để khử hung, là lẽ tự nhiên, là số ngẫu nhiên bắt gặp, cũng không có bất cứ khí vật nào khác có thể áp đão và lay chuyển được mệnh vận”. Trong sách “Luận hành – Ngẫu hội”, Khổng Tử cũng nói “Sống chết có số mệnh, giàu sang do Trời”. Còn trong dân gian thì lại càng xem vận mệnh đồng nghĩa với ý trời. Như vậy, không còn nghi ngờ gì nữa đã làm cho người ta không thể dùng thái độ lí tính đế phân tích vận mệnh, từ đó cải biến vận mệnh, mà chỉ có thể bằng thái độ sợ hãi để xem xét vận mệnh và tiếp thụ vận mệnh.
Nhưng cũng có không ít các học giả đã nhận thức được vận mênh chịu đặc tính kiềm chế này của quy luật tự nhiên và bẩm sinh tự nhiên, như trong cách nhìn của Vương Sung đã nhận thức được vận mệnh là một loại thể hiện của quy luật tự nhiên. Nhưng Vương Sung lại dẫn dắt từ điểm xuất phát đúng đắn đến một kết luận không chính xác, chưa nhận thức được vận mệnh cũng là một loại thể hiện của quy luật xã hội, chưa nhận thức được vận mệnh có thể thay đổi. Về điểm này thì nhận thức của các nhà tướng học cổ đại Trung quốc có bước tiến hơn rất nhiều. Tướng học cổ đại Trung Quốc cùng cho rằng vận mệnh do trình độ và phương thức của tính hợp tự nhiên quyết định và thông qua đặc điểm hình thế, thần thái cử chỉ biểu hiện ra. Nhưng lại cho rằng việc chọn lựa và hoạt động thời trưởng thành của một người có thể làm thay đổi vận mệnh, ảnh hưởng vận mệnh, điều họ gọi là “Hữu tâm vô tướng, tướng tùy tâm sinh, hữu tướng vô tâm, tướng tùy tâm diệt” (có tâm mà không có tướng, thì tướng phát triển theo tâm, nhưng có tướng mà không có tâm, thì tướng bị diệt theo tâm). Song điều đáng tiếc là tướng học cổ đại Trung Quốc lại không tiến hành giải thích mới và nhân mạnh đối với vận mệnh.
Chúng tôi cho rằng vận mệnh quan cũ xưa không nghi ngờ gì nữa đã ràng buộc nghiêm trọng tính năng động chủ thể của con người, làm cho con người trở thành kẻ nô lệ tiếp thụ bị động vận mệnh và nghe theo sự sắp đặt của vận mệnh, từ đó đã trở thành công cụ góp thêm vào và nảy sinh ngu muội và lạc hậu. Vì thế vận mệnh quan cũ xưa là một quan niệm ràng buộc thiên tính tự do và tính sáng tạo của con người, làm trở ngại văn minh tiến triển, nên cần phải hoàn toàn vứt bỏ. Có điều đáng quý là người Trung Quốc mặc dù hết sức lo sợ dưới sự bao phủ của vận mệnh quan cũ xưa, nhưng vẫn luôn tiến hành đấu tranh không ngừng với vận mệnh. Sự phát triển của tiến hóa và văn minh của cả loài người, có thể nói là lịch sử phấn đấu không ngừng để cải thiện vận mệnh của mình. Những lời hô hào dân chủ và tự do cũng chính là những lời hô hào của loài người cải thiện vận mệnh của mình. Mặc dù người ta vẫn còn chưa hiểu hết hàm nghĩa của vận mệnh, dẫn đến cuộc đấu tranh này có tính chất mù quáng và giới hạn rất lớn, làm cho loài người thường xuyên rơi vào cảnh không biết làm sao đối với vận mệnh, nhưng tinh thần dũng cảm dám đấu tranh với vận mệnh là đáng được khẳng định.
Tóm lại, chúng ta thừa nhận có sự sinh tồn của loài người thì sẽ có vận mệnh, bởi vì không kể đối với toàn thể loài người hay đối với sinh mệnh cá thể, đều là sự miêu tả đối với một quá trình và xu thế. Nó là do sự hoạt động sinh tồn của loài người tất nhiên dẫn ra, nó chịu sự kiềm chế của cả hai quy luật tự nhiên và xã hội, mà sự kiềm chế này là đã được định và khách quan. Vì thế việc khái quát, phán đoán và miêu tả đối với kết cục và đặc điểm chung này cũng là khách quan. Thật ra nó không phải là một sức mạnh thần bí, mà là một sức mạnh khách quan có thể miêu tả và phân tích, nó có thành phần của “tiên thiên” mà cũng có thành phần của “hậu thiên”, vừa do sức mạnh của vận mệnh là to lớn, không có sức người nào có thể khống chế nổi, vì vậy vừa không dễ nắm chắc, không dễ làm thay đổi. Nhưng đồng thời, chúng ta còn cho rằng vận mệnh là có thể nhận thức, có thể miêu tả, vì vậy lại có thể nắm chắc và thông qua phương thức nhất định để đự đoán nó. Đồng thời, chỉ cần mỗi người chúng ta tôn trọng quy luật tự nhiên và xã hội, tiến hành chọn lựa và phấn đầu tích cực và bằng lí trí, vận mệnh lại sẽ có thể biến đổi trong một chừng mực và phạm vi nhất định. Đây chính là sự phân biệt căn bản và ranh giới giữa cái chúng ta gọi là vận mệnh quan với vận mệnh quan cũ xưa.
Cũng cần phải kể lể rườm rà một chút là : Vận mệnh đã là tồn tại khách quan, như thế chúng ta sẽ không thể không chú ý đến nó, không thể vì vận mệnh thấu lộ ra màu sắc thần bí, mà đã mù quáng phủ định nó, vứt bỏ nó ngay. Ngược lại, chúng ta nên tích cực nghiên cứu nó, phải giải thích một cách khoa học đối với thực chất của vận mệnh, làm cho người ta được thoát ra khỏi sự ràng buộc của vận mệnh cũ xưa. Đồng thời, nhận thức và dự đoán đối với vận mệnh đã là có thể thông qua thủ đoạn đoán mệnh, xem tướng để thực hiện, như thế chúng ta nên tích cực nhìn thẳng vào và nghiên cứu những phương thức độc đáo này, từ đó dùng luận chứng khoa học mạnh mẽ làm cho người ta rút khỏi vũng lấy mê tín thần bí, thúc đẩy bước tiến văn minh. Mặt khác, qua lịch sử lâu dài đằng đẳng làm cho vấn đề “vận mệnh” đề cập đến hàng loạt đặc trưng có liên quan đến sinh lí và tâm lí sẵn có của loài người, mà các đặc trưng sinh lí tâm lí này lại chuyển hóa thành cơ chế văn hóa tâm linh, tham dự vào kết cấu của nền văn hóa dân tộc và hình thành một hiện tượng văn hóa đặc biệt, tỏ rõ sức sống mãnh liệt của nó. Vì thế, cho dù xét từ khía cạnh nghiên cứu văn hóa tâm linh cũng phải dùng thái độ tích cực để nghiên cứu nó, chứ không thể không chú ý đến sự tồn tại của hiện tượng văn hóa này, đối xử thô bạo với nó.
(Thiên thời – Bạch Huyết)