Lá số mẫu Tướng Nguyễn Cao Kỳ (Nhật Lệ Trung Thiên cách và Liêm Sát Sửu Mùi)
Mệnh thổ được sao thái dương hỏa vị trí miếu vượng, cung Ngọ hỏa tương sinh là quá mạnh. Thái dương miếu ngọ cung lại thêm Thiên khôi, văn khúc, hóa lộc tam linh quá vượng. Quy luật của vận vật, quả bóng bơm căng quá ắt vỡ, “già néo thì đứt dây”. Triệt (ý nghĩa tháo bớt, xì hơi) ở đây thành đắc dụng giữ cho đương số không bị “cùng tắc biến” mà luôn ở trên đỉnh cao. Chính nhờ Triệt này mà đương số mới thọ đến 81 tuổi.
Nhưng Tuần trong lá số thì không tốt. Thiên tướng vướng Tuần (bó buộc) lên dù có lúc nắm toàn bộ quân lực Việt nam công hòa nhưng ông chỉ làm đến chức Thiếu tướng (gần đến tướng).Cung Quan (Thân) Cự môn hãm gặp Tuần nên giai đoạn 40 tuổi ông luôn bị điều tiếng và đứng bên hàng ngũ chính trị đối lập.
——————————-
Công danh và mầm mống cần đề phòng:
-Về danh vọng Thái Dương cư Ngọ mặc dù cực tốt cho công danh (Nhật Lệ trung thiên, ví như mặt trời giữa trưa) nhưng cơ bản có tì vết vì là số chuyên quyền, tức là khi nắm quyền khó được tính chính thống (bị người đời coi là chuyên quyền).
-(Theo cách xem riêng của người viết) Thiên Phúc tại mệnh hội tài quan, Thiên Quan tại nô thì đời phải trải qua thử thách trọng đại, mà thử thách ở ngay tại nô là kẻ dưới quyền hoặc dưới cơ mình.
Nguồn gốc của nguy cơ:
-Mệnh Phục Binh mà kiêu ngạo (đế tinh Nhật thêm Thái Tuế) thì trong đời có lúc phải chịu điều khuất tất đau đớn, chẳng thể nào công danh tốt đẹp mãi được.
-Thành nhờ là nhờ Tham đắc Hỏa Linh hạn 33-42, tiếc rằng (theo cách xem riêng của người viết) khắc tinh của Hỏa Linh là Thiên Trù ở trong mệnh tài quan, mặc dù không hội họp với hạn phát (Sát Phá Liêm Tham), nhưng mầm tan rã đã ở ngay trong chính bản thân mình rồi (tự mình làm giảm uy lực của Hỏa Linh, chuốc bại). Nhất là hạn phát lại là hạn Kiếp Không hãm địa. Tham Kình đào hồng hỉ nên hạn này mơ mơ hồ hồ trong thế giới lãng mạn hoang đường của Kim Dung (so sánh mình với Trương Vô Kị, cũng là điềm không tốt vì TVK được kẻ lông mày cho ái thê thì Chu Nguyên Chương được sơn hà).
-Mặc dù có lá số 4 Tí, người ta tin tài liệu chính thức hơn, theo đó Nguyễn Văn Thiệu sinh năm 1923 tuổi Quý Hợi. Dùng phép Thái Tuế nhập quái của phái Tử Vân thì Thiệu ứng vào ngay cung nô của Kỳ, ở đó có sao chỉ đường là Thiên Quan (ứng với thử thách ở mệnh là Thiên Phúc). Cung Hợi có Tướng độc thủ, đắc Phủ Tướng triều viên, lại xung Quyền, rõ là đối thủ đáng ngại vì có thời cơ và biết lợi dụng nó. (Nhưng nếu theo số mà đoán giả như NCK nhanh tay tuyên bố tranh cử tống thống năm 1967 thì Nguyễn Văn Thiệu sẽ đắc lực ở vai phó tổng). Tuổi Quý Hợi lại khiến Tham Lang, tức sao hộ mệnh của NCK trong thời bột phát, bị hóa Kị; nên Thiệu chính là khắc tinh của Kỳ vậy.
Hạn 73-82 đầy sát tinh, Liêm Sát thành cách “lộ thượng mai thi” (chết xa quê) lại vào cung tật, cũng là cung xuyên (tức lục hại) của mệnh, tức là mệnh Thái Dương gặp hại tinh Thất Sát (Thái Dương và Thất Sát luôn luôn lục hại), chưa kể là cơ bản Sát Phá Liêm Tham có đào hồng hỉ trong hạn phúc (Mão) mà tuổi cao khó thoát số trời. Lại thêm cung thân (ứng thân thể) ở Tuất có Cư hãm bị hai Kị chiếu (Đồng Kị nguyên thủy và hạn Kỷ Khúc Kị) cũng là dấu hiệu tai hại cho cơ thể. Năm Tân Mão Xương hóa Kị nên di của hạn cũng là di của tật thành cách song Kị giáp Đà, chính là một loại ứng kỳ, thành thử qua đời ở nơi xa (tức là xa 2 quê hương Việt Nam và Hoa Kỳ) nhưng không phải là chết quá đột ngột (vì ứng với tính chậm của Đà).
Hạn 33-42 vì sao lên xuống?
Ít lá số nào có nhiều cung rõ nét. Riêng lá số này lại có đến mấy cung. Một trong những cung đó là Dậu, chính là cung đại hạn 33-42 tuổi, ứng thời gian 1962-71. Cung này rõ nét vì:
-Biến động lớn, nhanh: Sát Phá Liêm Tham Đào Hồng Hỉ.
-Mâu thuẫn: Tử Tham Mão Dậu Kình Đào Hồng Hỉ Kiếp Không Hình (cách “đào hoa phạm chủ” chiến đấu với cách “thoát tục chi tăng”).
-Kình Hình Hỏa Linh Việt (tôi an Khôi Việt theo câu thiệu nguyên thủy “Ất Mậu Canh ngưu dương”) thêm “Đào Hồng Không Kiếp”: Sát phạt dữ dội, giả như bản mệnh không vững có thể thảm tử.
-Kình Lực: Hung hăng thì rất dễ “xôi hỏng bỏng không”.
Yếu tố thành công là ở hai hóa: Hóa Quyền nguyên thủy ở hạn tài là kỳ cách (Vũ Phá hãm địa), hợp với hạn Khoa (cung Ất Cơ Lương Tử Nguyệt) là yếu tố điều chỉnh, làm bằng phẳng các góc cạnh gập ghềnh. Cung Dậu lại là cung Điền nguyên thủy, mà với yếu nhân thì cung Điền cũng ứng với giang sơn nên ứng với chuyện nắm quyền, hung hăng sát phạt, rồi lại xìu đi để mất quyền lãng xẹt vào tay Nguyễn Văn Thiệu.
Nay xét hai năm rõ nét là 1963 (lên) và 1967 (xuống):
1963: Năm Quý Mão Tuế xung chiếu hạn, vô chính diệu song có Hình Hỏa, tiểu hạn ở Sửu có Linh (hoặc tam hợp Linh nếu an Hỏa Linh cùng thuận chiều) cùng Khôi Việt, đại hạn Tham mà Tuế gặp Hỏa, tiểu hạn gặp Linh, thêm trùng phùng Đào Hồng Hỉ (nhanh chóng) thì đúng là đến thời rồi (còn năm 1962 là đầu hạn thì chẳng có gì đáng nói vì Trù ở Dần làm Hỏa Linh bốc không nổi, vui chơi thì được). Đó là chưa kể năm Quý khiến hạn tài có Lộc Quyền, chính hạn bị Kị nhưng lại có Khoa Quyền giáp.
1967: Năm Đinh Mùi vẫn có thế mạnh (Hỏa Linh Khôi Việt hội họp). Tiếc thay Đinh khiến Cự (quan nguyên thủy) hóa Kị, lại làm cho hạn bị song Kị giáp sát (hạn Ất Nguyệt hóa Kị cùng Cự niên Kị song giáp Kình của cung hạn). Kình trở thành yếu tố phá hoại. Đó là chưa kể hạn nhị hợp với hạn tật ách, lại có sẵn Đồng là sao nhị hợp của Tham đã hóa Kị sẵn. Tức là năm ấy bị ba Kị giáp công một cách âm thầm (giáp và nhị hợp, không phải trong tam hợp xung chiếu), chính là lúc vì toan điều chỉnh (hóa Khoa) cho phù hợp hoàn cảnh mà chẳng bị ai bắt lại tự đào hố chôn sự nghiệp của mình cho phù hợp với tính Kình Lực (vô công) Kiếp Không (dễ lên dễ xuống) của hạn.
————————————-
Cung thê này là tiêu chuẩn lắm vợ (Tả Hữu), khó ở với ai trọn đời (Đồng Kị lại tự Kị nữa), chính cung có Phượng (ứng phương xa) lại hợp Mã (cũng ứng phương xa, nhanh chóng v.v…) có lấy vợ ngoại quốc hoặc lấy bỏ soành soạch đều là hợp số cả.
Cung Tử Tức (chính là cung đào hoa, ứng chuyện phòng the và con cái) thì khỏi nói xung cách đào hoa phạm chủ (Tử Tham đủ đào hồng hỉ) Thai Vượng Đào Riêu Hồng Hỉ
May mà tử có Hình trấn thay vì Riêu, không thì khi ngài nắm quyền e bao nhiêu trinh nữ phải thất tiết. Con cái thì sợ rơi rớt chính mình chẳng biết có mấy đứa là đằng khác.
Số này đúng là thân yếu hơn mệnh (vì thế ba mươi mấy tuổi đã xuống), nhưng mệnh “Nhật Lệ trung thiên” (chuyên quyền, địch quốc) mà bảo là “không có quyền gì” sao được (Vấn đề Triệt ở đây khá thú vị, có dịp bàn thêm sau). Phải đoán là nếu có quyền thì khó lâu dài, thế mới là đúng số Nhật Lệ lại phù hợp cách mệnh mạnh hơn thân.
Thế nhưng cần ghi chú rằng thân yếu là yếu hơn mệnh thôi, chứ cũng chẳng dở, người khác mà được quan thế này là mừng hết lớn rồi (Cự hãm nhưng đắc Tả Hữu Xương Long Phượng Hổ Cái Quang Quí song Long, Thanh Long hóa Kị), chỉ hiềm thiếu sát tinh (lục sát đều nằm ở nhược cung, chỉ được một sao là hổ cư hổ vị, không đủ) thành ra thiếu “nội lực” để duy trì quyền bính.
—————————————
Những người có thêm Triệt cư mệnh là những người ngay thẳng, kiên quyết, không bao giờ biết quỳ gối, uốn cong mình để vụ lợi. Lúc nào cũng chăm chắm đi theo sứ mệnh truyền kiếp cho đến hơi thở cuối cùng. Nhất là Thái Dương cư mệnh thì đặc tính này cành rõ nét hơn bao giờ hết.
—————————————
Ô NCK có mệnh thái dương ,THÂN THIÊN TƯỚNG !!!chứ ko phải cự môn mồm mép luật pháp! = Cái danh TƯỚNG + KỲ. ls Ô Kỳ là nằm trên vùng giao giữa tháng 7 và tháng 8,nên mệnh theo tháng 7,mà thân tháng 8!
Bởi vậy đ/s theo nghề võ ,làm tướng ,dù mệnh là thái dương,nhất thời mà .
Thân Thế Phủ Tướng làm đến PTT thì ko có gì ngạc nhiên rồi !
Đang vận tang môn, năm Thân lại gặp Tang hổ ,ra đi là đúng số !
—————————————
– Nhật lệ trung thiên: Thái dương cư Ngọ cho mệnh Thổ (Triệt tác dụng nhẹ nhàng, khoáng đạt ở Ngọ Mùi- theo sách Tử vi thực hành và phân tích của Vũ Tài Lục về Thái dương trong Tử vi tinh điển.)
– Tam hợp Thái Tuế ở mệnh – thân
– Thân cư Quan tại Tuất có Cự môn.
Lá số cung mệnh vượng hơn thân chẳng phải phù hợp với tiền vận > hậu vận của ông ấy hay sao. Ngoài ra, CR cũng không nghĩ lá số ông Nguyễn Cao Kỳ nghèo, chỉ vất vả vì tiền do Tài đóng Dần mộc khắc mệnh thôi.
(Dẫn theo trang vuihoctuvi.blogspot.com)