Hình thức lá số tử vi
Lá số Tử Vi được chia làm 12 cung, mổi cung mang tên gọi theo địa chi, được phân âm dương, ngũ hành, phương hướng, màu sắc, thời tiết và mang tên các quẻ khác nhau. Như vậy sự phân định trên từ đâu mà có? Sau đây là vài giả thuyết giải thích:
Phân định âm dương cung: tên của cung thì được đặt tên bằng 12 địa chi thành ra âm dương cung cũng có thể xác định bằng cách mang tính âm dương của địa chi
Phân định ngũ hành của cung, phương hướng và màu sắc: ngũ hành và phương hướng của cung và màu sắc trên lá số thì phù hợp với Hà Đồ. Trong Hà Đồ ta có:
Thủy (số 1, 6) ở phương Bắc mang hành Thủy, màu đen
Hỏa (số 2, 7) ở phương Nam mang hành Hỏa, màu đỏ
Mộc (Số 3, 8) ở phương Đông mang hành Mộc, màu xanh
Kim (Số 4, 9) ở phương Tây mang hành Kim, màu trắng
Thổ (số 5, 10) ở Trung Ương mang hành Thổ, màu vàng
Điểm khác biệt là trên Thiên Bàn thì Thổ tại Trung Ương của Hà Đồ được đưa ra bốn góc đặt xen kẽ với các hành Thủy Hỏa Mộc Kim.
Ta không cho rằng ngũ hành cung xuất phát từ Lạc Thư vì theo Lạc Thư thì:
Số 1 – 6 thuộc Thuỷ ở hướng Bắc
Số 3 – 8 thuộc Mộc ở Ðông
Số 5 thuộc Thổ ở giữa
Số 2 – 7 thuộc Hoả ở Nam cuả Hà Ðồ chuyển qua Tây
Số 4 – 9 thuộc Kim ở Tây cuả Hà Ðồ được chuyển qua Nam nghĩa là không có sự phù hợp ngũ hành: hành Hỏa tại hướng Tây và Kim tại hướng Nam
Vì có 12 cung nên có lẽ để cho phù hợ p với 12 cung ta gán ghép âm dương số trên Hà Đồ với âm dương của chi, thành ra:
Thủy (1, 6) tại phương Bắc gán cho chi Tí (1) Hợi (6)
Hỏa (2, 7) tại phương Nam gán cho chi Tỵ (2) Ngọ (7)
Mộc (3, 8) tại phương Nam gán cho chi Dần (3) Mão (8)
Kim (4, 9) tại phương Tây gán cho chi Thân (9) Dậu (4)
Thổ (5, 10) tại Trung Ương gán cho chi Thìn Tuất (5), Sửu Mùi (10)
Như vậy trên lá số ta có:
2 7 10 9
5 4
8 5
3 10 1 6
Đương nhiên đây chỉ là một cách giải thích trong nhiều cách giải thích. Với cách giải thích này thì chúng ta có thể giải thích thêm tại sao cung Dần là Dương Mộc mà không là Âm Mộc hay Âm Hỏa.
Phân định vị trí các đơn quẻ trên Thiên Bàn: nhìn vào vị trí các đơn quẻ sắ p xếp trên Thiên Bàn thì ta thấy các đơn quẻ này xuất phát từ Hậu Thiên Bát Quái. Theo thứ tự sắp xếp thì:
Càn: 1 Khảm: 2 Cấn: 3 Chấn: 4 Tốn: 5 Li: 6 Khôn:7 Đoài: 8
Khảm là Nước, hành Thủy, đặt ở chính Bắc (cung Tí), mùa Đông, nửa đêm, khí hậu lạnh
Chấn là Sấm, đặt ở chính Ðông (cung Mão), Tốn là Gió, đặt ở Ðông Nam. Chấn và Tốn ở Phương Đông, vùng giáp biển cả, cây cỏ xanh tốt nên thuộc Mộc
Li là Lửa, hành Hỏa, đặt ở chính Nam (cung Ngọ), mùa Hạ, giữa trưa, khí hậu nóng
Càn và Đoài ở Phương Tây, có nhiều núi non hầm mỏ kim khí nên thuộc Kim.
Cấn là Núi đặt ở Đông Bắc và Khôn ở Tây Nam là hai nơi có nhiều cao nguyên và núi lớn, đều là đất nên thuộc Thổ
Nhìn vào ngũ hành của Hậu Thiên Bát Quái ta có thế giải thích ngũ hành cung theo sự kết hợp của Hậu Thiên Bát Quái và Lạc Thư trong một đồ hình như sau:
Khảm Thủy, đặt ở chính Bắc (1)
Cấn Thổ, đặt ở Ðông Bắc
Chấn Mộc, đặt ở chính Ðông (cung Mão) (3)
Tốn Mộc, đặt ở Ðông Nam
Li Hỏa, đặt ở chính Nam (cung Ngọ) (9)
Khôn Thổ, đặt ở Tây Nam
Ðoài Kim, đặt ở chính Tây (cung Dậu) (7)
Càn Kim, đặt ở Tây Bắc
Về phương hướng thì trong Lạc Thư:
Số 1 – 6 ở hướng Bắc
Số 3 – 8 ở Ðông
Số 5 ở giữa
Số 2 – 7 thuộc ở Tây
Số 4 – 9 thuộc ở Nam
Kết hợp âm dương chi với âm dương số của Lạc Thư và ngũ hành của Hậu Thiên Bát Quái thì:
Tí (1) Hợi (6) hành Thủy
Dần (3) Mão (8) hành Mộc
Tỵ (4) Ngọ (9) hành Hỏa
Thân (2) Dậu (7) hành Kim
Thìn Tuấ t Sửu Mùi là do số 5 Thổ ra ngoài vận hành nên hành Thổ. Sửu thuộc Cấn Thổ, Mùi thuộc Khôn Thổ.
Như vật trên lá số ta có
4 9 5 7
5 2
8 5
3 5 1 6
Đương nhiên đây cũng là một cách giải thích dựa vào phỏng đoán với quan điểm Hà Ðồ thuộc về lí Thái Cực, vô hình, Lạc Thư thuộc về Khí Vũ Trụ, hữu hình. Hà Ðồ là Thể, Lạc Thư là Dụng, Tiên Thiên Bát quái thì nói về vũ trụ tạo hóa, còn Hậu Thiên Bát Quái thì nói về vạn vật con người.
Phân định vị trí của trùng quái trên Thiên Bàn: sử dụng trùng quái của Tiên Thiên Bát Quái
Trong 64 trùng quái thì có 12 trùng quái chính biểu thị cho qui luật Doanh Hư Tiêu Trưởng, Thành Thịnh Suy Hủy, Dương Thăng Âm Giáng, Tiêu Trưởng, Thuận Nghịch, Tiến Thoái trong sự chuyển hóa của Âm Dương. Mười Hai quẻ này được đặt trong Thiên Bàn, hòa hợp với 12 năm, 12 tháng, 12 giờ, 12 Địa Chi, và bốn Phương tám Hướng, Tứ Thời (Xuân Hạ Thu Đông), Thập Nhị Tiết:
Quẻ Phục ( Địa Lôi Phục) ở Tí, một vạch Dương ở dưới, là thời kỳ Dương bắt đầu sinh (Nhất Dương sinh. Cực Âm thì Dương sinh). Phục có nghĩa là trở lại, là Dương đã bắt đầu trở lại. Đặt ở giờ Tí, tháng 11, phương Bắc rất lạnh, tiết Đông Chí giữa Mùa Đông.
Quẻ Lâm ( Địa Trạ ch Lâm) ở Sửu, hai vạch Dương ở dưới, là thời kỳ Dương bắt đầu thịnh, Âm bắt đầu suy. Lâm có nghĩa là đến, đã tới, ra mặt, Dương đã đủ góp mặt rồi, đó là Dương tiến Âm thoái, Dương thịnh Âm suy, Dương trưởng Âm giáng. Đặt ở giờ Sửu lúc mặt trời bắt đầu đang lên (Dương tiến), tháng 12, phương Đông Bắc (thiên Bắc), tiết Tiểu Đại Hàn, cuối mùa Đông đã bớt lạnh (Âm thoái)
Quẻ Thái (Địa Thiên Thái) ở Dần, ba vạch Dương ở dưới và ba vạch Âm ở trên, là thời kỳ Âm Dương quân bình. Thái có nghĩa là hanh thông. Dương thì nhẹ lại ở dướ i nên bốc lên trên, Âm thì nặng ở trên hạ xuống dưới nên Âm Dương tiếp xúc, Âm Dương quân bình. Đặt ở giờ Dần lúc mặt trời đang lên, tháng 1, phương Đông Bắc (thiên Đông), tiết Lập Xuân, đầu mùa Xuân tiết trời bắt đầu ấm áp, cây cỏ tốt tươi
Quẻ Đại Tráng (Lôi Thiên Đạ i Tráng) ở Mão, bốn vạch Dương ở dưới, hai gạch Âm ở trên, là thời kỳ Dương thịnh, Âm suy. Đại Tráng là lớn mạnh, rất lớn, Dương đã lớn mạnh hơn Âm. Đặt ở giờ Mão, phương Đông, tháng 2, ứng với tiết Xuân Phân, giữa mùa Xuân, tiết trời ấm áp trong sáng
Quẻ Quải (Trạch Thiên Quải) ở Thìn, năm vạch Dương ở dưới, một gạch Âm ở trên, là thời kỳ Dương thịnh, Âm cực suy, sắp biến. Quải là quả quyết, dứt bỏ, Dương đã quyết dứt bỏ một Âm nằm một mình ở trên. Đặt ở giờ Thìn, tháng 3, phương Đông Nam (thiên Đông), tiết Thanh Minh, cuối mùa Xuân, tiết giao mùa, sắp sang mùa Hạ, tiết trời bắt đầu trở nên nóng nực, khí hậu bước sang mùa nắng nóng
Quẻ Càn (Càn Vi Thiên, Bát Thuần Càn) ở Tỵ, sáu vạch Dương, Toàn Dương, là thời kỳ Dương cực thịnh, Âm đã biến mất. Càn là Trời, tính cương kiện. Khí Dương cực thịnh. Đặt ở giờ Tỵ, tháng 4, phương Đông Nam (thiên Nam), tiết lập Hạ, đầu Mùa Hạ, tiết trời bắt đầu sang Hạ, nóng bức
Quẻ Cấu (Thiên Phong Cấu) ở Ngọ, một vạch Âm ở dưới, là th ời kỳ Dương đã cực nên Âm b ắt đầu sinh ở dưới. (Nhất Âm Sinh. Dương cực thì Âm sinh), năm gạch Dương ở trên. Cấu là gặp gỡ. Âm đã bắt đầu tới gặp Dương. Đặt ở giờ Ngọ, tháng 5, phương Nam, ứng với tiết Hạ Chí
Quẻ Độn (Thiên Sơn Độn) ở Mùi, hai vạch Âm ở dưới, bốn gạch Dương ở trên, là thời kỳ Âm bắt đầu thịnh, Dương bắt đầu suy, Âm trưởng, Dương giáng.
Độn là lẩn trốn, trốn tránh, Dương đã lẩ n trốn, bớt đi rồi. Đặt ở giờ Mùi, tháng 6, phương Tây Nam (thiên Nam), tiết Tiểu Đại Thử, cuối Mùa Hạ
Quẻ Bỉ (Thiên Địa Bỉ) ở Thân, 3 vạch Âm ở dưới và 3 vạch Dươ ng ở trên, tuy Âm Dương quân bình nhưng Dương ở trên cứ bốc lên, Âm ở dưới lại hạ xuống nên Âm Dương không gặp nhau nên b ế tắc. Bỉ là bế tắc. Đặt ở giờ Thân, tháng 7, phương Tây Nam (thiên Tây) tiết Lập Thu, đầu Mùa Thu, tiết trời trở nên mát mẻ với sự úa vàng của cây cỏ
Quẻ Quán (Phong Địa Quán) ở Dậu, bốn vạch Âm ở dưới, hai gạch Dương ở trên, là thời kỳ Âm trưởng Dương tiêu, khí Âm thịnh lấn át khí Dương. Quán là xem xét, Dươ ng phải xem xét hoàn cảnh không hay (đang suy giảm) của mình mà lo liệu. Đặt ở giờ Dậu, tháng 8, phương Tây, ứng với tiết Thu phân, tiết trời khô mát, sáng sủa
Quẻ Bác (Sơn Địa Bác) ở Tuất, năm vạch Âm ở dưới, một vạch Dương cheo leo ở trên, là thời kỳ Â thịnh, Dương sắ p suy biế n. Bác là rơi rụng, Dương nằm ở thế cheo leo (một vạch Dương) sắp sửa rơi rụng hết rồi. Đặt ở giờ Tuất, tháng 9, phương Tây Bắc (thiên Tây), tiết Hàn Lộ Sương Giáng, cuối Mùa Thu, giao mùa, trời bắt đầu trở lạnh, sắp bước sang mùa Đông
Quẻ Khôn (Khôn Vi Địa, Bát Thuần Khôn) ở Hợ i, sáu vạch Âm, toàn Âm, Âm khí cự c độ, Dương khí đã biến mất. Khôn là đất, tính nhu thuận. Đặt vào giờ Hợi, tháng 10, phương Tây Bắc (thiên Bắc), tiết Lập Đông, đầu mùa Đông, tiết trời trở sang lạnh giá.
Từ Phục đến Càn là sáu quẻ vớ i quá trình Dương bắt đầu sinh đến trưở ng, Âm bắt đầu suy đến tiêu dần. T ừ Cấu đến Khôn là sáu quẻ với quá trình Âm bắt đầu sinh đến trưởng, Dương bắt đầu suy đến tiêu dần
Trên Thiên Bàn, các Quẻ đối nhau qua tr ục Âm Dươ ng thì tính chất cũng đối nhau như Càn và Khôn, Phục và Cấu, Thái và Bỉ. Tốt nhất là quẻ Thái vì Âm Dương quân bình và vào lúc sớm mai. Xấu nhất là quẻ Bác vì Dương bị rơi rụng và vào lúc đêm tối. Từ quẻ Phục đến quẻ Càn thì Dương trưởng Âm tiêu. Từ Quẻ Cấu đến Quẻ Khôn thì Âm trưởng Dương tiêu. Âm Dương tiêu trưởng, tiến thoái như ng luôn luôn trở về thế quân bính tại Quẻ Thái và Bỉ. Hai quẻ này nằm trên trục Dần Thần là trục đẹp nhất, là đường đi của Mộc Tinh, tức Thái Tuế.
(Tử vi Trừ Mê Tín)