Cách đa phu
CÁCH ĐA PHU TẠI CUNG PHU:
Cự Môn, Hóa Kỵ: cho dù đắc địa cũng nói lên bất trắc gia đạo đặc biệt là khi đồng cung. Bộ sao này gọi là “ngọc có vết”, ám chỉ duyên số phụ nữ phải gặp bất hạnh, từ tai nạn trinh tiết xảy ra cho người con gái chưa chồng cho đến hậu quả trên hạnh phúc gia đạo sau khi lập gia đình. Cự, Kỵ có nghĩa là có hai đời chồng, đồng thời cũng có nghĩa là gia đạo bất hòa, người đàn bà bị hắt hủi, phụ rẫy vì thất trinh trước khi lấy chồng. Nếu chỉ có Kỵ đơn thủ thì chỉ có nghĩa là bất hòa mà thôi.
Cự Môn hãm địa: nếu cung Phúc, Mệnh hay Thân xấu, Cự Môn hãm địa sẽ bất lợi cho gia đạo, thể hiện qua việc chắp nối vài lần. Trái lại, nếu ba cung trên tốt, thì có thể chỉ xung khắc mà thôi.
Cự Môn, Hỏa Tinh, Linh Tinh: khắc phá, dễ đi đến tan vỡ, chắp nối.
Phá Quân, Tuần hay Triệt: Phá Quân chủ sự hao tán phu thê dù là đắc địa. Tuần, Triệt báo hiệu sự xung khắc nặng. Cả hai sao thường báo hiệu sự gãy đổ, có khi đến ba lần. Chỉ riêng Tuần hay Triệt cũng đủ hủy hoại một lần hôn nhân.
Tuần, Triệt hoặc Tuần, Triệt đồng cung: chỉ sự gãy đổ một lần, nhẹ nhất có thể là bị hồi hôn sau khi có lễ hỏi, nặng nhất là tan rã sau khi hai người ăn ở với nhau. Nếu Tuần, Triệt đồng cung thì cái họa chia ly, sát phu, chắp nối hầu như khó tránh và có thể xảy ra ít nhất hai lần trong gia đạo. Nếu cung Phúc, Mệnh, Thân mà xấu nữa thì nữ số, ngoài việc chết chồng, mất chồng có thể lâm vào cảnh lẽ mọn, thứ thiếp, chưa kể đây có thể là trường hợp gái giang hồ hoặc là gái già không chồng, lỡ thời hoặc phải ở vậy nuôi con, dù có “lắm mối” mà tối vẫn “nằm không”. Trường hợp chồng bỏ cũng là một hình thái khả dĩ có. Hai sao này phá hoại cung Phu không kém gì Phá Quân hãm địa. Mức độ nặng nhẹ, số lần tan hợp còn tùy phẩm chất của Phúc, Mệnh, Thân.
Thất Sát ở Thìn, Tuất: khắc chồng và gián đoạn gia đạo nhiều lần, đặc biệt là khi Phúc, Mệnh, Thân xấu.
Tử Vi, Tham Lang hội Tả, Hữu: Riêng Tả, Hữu ở Phu ám chỉ sự song đôi, nghĩa là có hai đời chồng hoặc nếu Mệnh, Thân có nhiều sao tình dục thì có chồng và có cả nhân tình.
Đào Hoa, Thiên Hình: duyên số bị trắc trở nhiều lần. Vì Thiên Hình chỉ sự ghen tuông và bạo hành cho nên cách Hình Đào ám chỉ một vụ ngoại tình nào đó của người chồng (hay vợ) làm đổ vỡ gia đạo, sau một trận xô xát và mặt khác cũng chỉ cá tính quá ghen tuông của người vợ/chồng làm cho duyên phận hai bên bị gián đoạn. Vốn có Đào Hoa hiện diện ở Phu cho nên việc ngoại tình của chồng thường tái diễn và việc ông ăn chả bà ăn nem cũng khả hữu.
Thiên Riêu, Thiên Hình: ý nghĩa tương tự như trên nhưng có phần nặng hơn vì Thiên Riêu chỉ sự giao dịch sinh lý hẳn hoi, trong khi Đào Hoa có thể chỉ bay bướm lăng nhăng. Tuy Hình, Riêu ở Phu có nghĩa là chồng ngoại tình song đây cũng là cách gái hại chồng, phản chồng để thỏa mãn sinh lý hoặc để trả thù. Nghĩa này càng rõ khi Riêu thủ ở Mệnh, Thân, Di hay Quan của lá số phụ nữ: đàn bà dâm đãng, ngoại tình và bị chồng hay nhân tình đánh đập (Thiên Hình chỉ thương tích) hoặc kiện ly dị.
Đào Hoa hay Hồng Loan gặp Hóa Kỵ: không nhất thiết phải có hai chồng. Chắc chắn nhất là bộ sao này chỉ sự đắc mèo của chồng, đắc kép của vợ. Hội với Hóa Kỵ ở cung Phu là có sự lục đục, nghi ngờ lẫn nhau trong gia đạo. Nếu thiếu sao đoan chính thì vấn đề đắc kép của nữ số chỉ ngoại tình, đa “phu”. Nếu nhân duyên bị gián đoạn, người đàn bà tái giá rất nhanh, nhờ luôn có kép hờ.
Long Trì, Phượng Các, Tả Hữu: Long Phượng chỉ hôn nhân, còn Tả Hữu ngụ ý có sự song đôi hay tái sinh, tái hợp nhiều lần. Vì bản chất tốt đẹp của Long Phượng nên trong cả hai lần, phụ nữ đều gặp nhân duyên ưng ý.
Nhật, Nguyệt, Tả Hữu: Nhật Nguyệt tượng trưng cho chồng và vợ đi đôi với Tả Hữu có thể có tình trạng hai lần lập gia đình hoặc tình trạng có gia đình mà có nhân tình. Nếu Nhật Nguyệt cùng sáng, hai mối duyên có thể cùng tốt đẹp. Nếu mờ ám, thường là ngang trái, chia ly.
Thiên Mã, Tuần hay Triệt: chỉ sự đổ vỡ một lần.
Cự Môn, Thiên Đồng, Thiên Riêu: Cự ở Phu chỉ trắc trở gia đạo, Đồng chỉ sự thay đổi, Riêu chỉ sắc dục. Đây là trường hợp ngoại tình của người chồng hoặc người vợ vì Cự ở Phu thường chỉ hai đời chồng hoặc hai chồng. Vì Riêu chỉ mối tình xác thịt cho nên cả hai vợ chồng cùng chạy theo tiếng gọi của sinh lý.
Thai, Phục, Vượng, Tướng: hai vợi chồng lấy nhau rồi mới hợp thức hóa (tiền dâm hậu thú), đồng thời cũng có nghĩa là vợ hoặc chồng có một đời con trước rồi mới họp nhau.
CÁCH ĐA PHU TẠI CUNG MỆNH HAY THÂN:
Đào Hoa hay Hồng Loan với Thiên Riêu: đa tình, đa dâm, dù đã có chồng.
Đào, Thai hay Liêm Trinh, Tham Lang đồng cung: chỉ sự dâm đãng khá nặng, hiến dâng một cách dễ dãi và vô điều kiện. Riêng bộ Liêm Tham còn báo hiệu cả số kiếp giang hồ khả hữu. Sự hiện diện của sao Thai còn có nghĩa “không chồng mà chửa”.
Thiên Riêu, Thiên Đồng: chỉ sự thay cũ đổi mới trong vấn đề sinh lý và là biểu hiện của sự ngoại tình, bắt nguồn từ lý do thể xác. Nếu Đồng ở Hợi hay Tỵ mà gặp Riêu tại đó thì có thể là giang hồ, hư thân mất nết từ nhỏ.
Hoa Cái, Bạch Hổ, Mộc Dục: Mộc Dục và Hoa Cái chỉ sự chưng diện, se sua và háo dâm. Bạch Hổ là máu. Tính nết dâm đãng vào tận xương tủy, hầu như là một bệnh sinh lý. Đây là người chưng diện sắc sảo và khéo chiều chuộng đàn ông, làm cho mọi người phải chết mê, chết mệt vì họ.
Tướng, Khúc, Mộc, Cái, Đào: chỉ sự hoa nguyệt của hạng người quý phái, ngoại tình với các nhà tai mặt, quyền thế, sang trọng.
Tham Lang hay Thất Sát ở Dần, Thân: chỉ người con gái bạc tình, đôi khi ghen tuông từ tự ái hay quyền lợi hơn là vì tình yêu
Đào Hoa hay Hồng Loan: có nhan sắc, có duyên. Nếu hội thêm Tả Hữu, có thể có hai đời chồng.
Sát tinh và sao tình dục: báo hiệu nhiều nghiệp chướng trong tình trường, cụ thể như gặp nhiều mối tình hết sức ngang trái hoặc phải tan vỡ nhiều lần, thậm chí có thể là giang hồ lãng tử. Người đàn bà như vậy gặp nhiều mối tình liên tiếp, chóng hợp, chóng tan, mỗi lần như thế đều phải điêu đứng, đau khổ, có khi đến tự tử (sát tinh).
Chính tinh hãm địa ở Mệnh: cũng là một bất hạnh có thể có cho gia đạo. Sát Phá Liêm Tham không bao giờ hợp với phụ nữ về phương diện gia đạo. Nếu đắc địa thì có thể quyền quý cao sang nhưng cảnh chồng con không toàn, không bền, dễ bị gián đoạn, chắp nối.
CÁCH ĐA PHU Ở CUNG NÔ:
Đào Hoa hay Hồng Loan: chỉ nhân tình khả hữu, dù là có chồng.
Thiên Riêu, Đào Hoa hay Thiên Đồng: háo dâm, hay thay đổi tình nhân và ngoại tình. Duy chỉ có Riêu ở Mão, Dậu thì tương đối kín đáo, có tự chế, vì thế ít lụy đến danh giá, tai tiếng. Nếu có Tử đồng cung thì cuộc ngoại tình rất bí mật, cẩn thận, nhờ tài khéo léo che mắt thiên hạ. Đào với Tử còn có nghĩa là yêu trộm, thương thầm, có khi chỉ một chiều.
Thai Đào hay Thai Riêu: chỉ việc thụ thai khả hữu do lang chạ.
Thai, Phục, Vượng, Tướng: dâm bôn với người tình có thể có thai. Thông thường, có sự dụ dỗ của một bên nào đó vì có Phục Binh và Tướng Quân chỉ thủ đoạn, làm liều, táo bạo. Và cũng vì có Phục Binh nên có thể câu chuyện bị tiết lộ và cặp nhân tình bị bắt ghen tại trận. Nếu được Thiên Giải đồng cung, có thể chạy thoát.
CÁCH ĐA PHU Ở CUNG TỬ:
Khi cung Tử là âm cung thì bảy cách sau chỉ đàn bà hai chồng: Thiên Tướng, Tuyệt – Thái Âm, Thiên Phúc – Cự Môn, Thiên Cơ đồng cung – Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương thủ, chiếu – Phục Binh, Tướng Quân – Thai, Đế Vượng và Thai, Tả, Hữu.
CÁCH ĐA PHU Ở CUNG THÊ CỦA PHÁI NAM:
Đào, Hồng, Kỵ, Đà: lừa dối chồng để trăng hoa.
Đào, Hồng, Cái: vợ chồng bỏ nhau vì nguyên nhân loạn dâm hay ngoại tình.
Đào, Thai hay Hồng Riêu hay Riêu Thai: vợ ngoại tình, lang chạ, đôi khi mang con người về cho chồng nuôi.
Thất Sát hay Phá Quân ở Thìn, Tuất: vợ hai lòng.
(Dẫn theo trang hoc-tuvi.blogspot.com)