Tứ hóa quan hệ khái luận
“Cung vị định nhân sự, tinh tình đoán cát hung, tứ hóa luận khế cơ”, đây là pháp tắc cơ bản của việc luận mệnh bằng tử vi đẩu số.
Tứ hóa là dụng thần, là huyền cơ, cũng có thể nói tứ hóa chính là nút bấm cho sự phát sinh sự việc. Do đó, lúc suy đoán cát hung của hạn năm, cần xem trọng tác dụng của tứ hóa.
Năm sinh được ví như “Thiên”, tại Thiên mà thùy tượng (điềm báo sự tình, tượng còn chưa rõ ràng), đại hạn được xem như “Địa”, tại Địa mà thành hình (hình thành trong thai nghén), lưu niên ứng với “Nhân”, tại nhân mà thành sự (lúc này đã sinh ra).
Trong tứ hóa, quan hệ cơ bản của Năm sinh, Đại hạn, Lưu niên là:
Năm sinh là thể, năm hạn là dụng
Thượng truyền hạ ứng. Thượng truyền, nghĩa là Tứ hóa của cung này nhập vào và ảnh hưởng đến cung cấp trên của nó. Hạ ứng, nghĩa là lúc năm hạn (cấp dưới) chạy đến cung vị có Tứ Hóa của đại hạn, thì sẽ ứng với cát hung. Thông thường, cung đại hạn sẽ “thượng truyền” bản mệnh, “hạ ứng” lưu niên. Tức là lúc tứ hóa của đại hạn nhập vào cung nào đó của nguyên mệnh, sẽ phát sinh ảnh hưởng đến các cung này ; tứ hóa của đại hạn cũng tác dụng lên tiểu hạn lưu niên, tức là khi lưu niên chạy đến cung có tứ hóa thì sẽ ứng với cát hung. Tương tự tứ hóa của lưu niên thượng truyền đại hạn, hạ ứng lưu nguyệt.
Tứ hóa của một cung trước tiên sẽ tác dụng lên các cung đồng cấp với nó, thứ đến mới là thượng truyền và hạ ứng.
Do đó, tứ hóa là dùng cho “Tam Đại”, tức bản cấp, thượng cấp, hạ cấp.
Sao tứ hóa năm sinh, có ảnh hưởng suốt một đời người, điềm báo về bản chất của các cung viên của nguyên mệnh, cần xem trọng lúc luận đoán số mệnh. Tứ hóa năm hạn, biểu thị các tình huống biến hóa trong từng thời kỳ của đại hạn.
Lấy thiên can của đại hạn để tra xuất sao tứ hóa, là cửa ngõ của sự việc, rất quan trọng, trên có thể truyền tác dụng đến nguyên mệnh, dưới có thể truyền tác dụng xuống lưu niên, đối với lưu niên ảnh hưởng rất lớn. Lúc suy xét đại hạn, lấy tứ hóa đại hạn làm chủ, kết hợp với xem tứ hóa năm sinh. Cung đại hạn xuất tứ hóa là giai đoạn đã hình thành sự việc, bắt đầu chuyển chiết tác dụng thượng truyền hạ ứng, vô cùng trọng yếu, các việc cát hung sẽ hội ứng vào một trong mười năm này.
Lấy thiên can của lưu niên mà tra xuất sao tứ hóa, tác dụng cùng với tứ hóa của đại hạn, thượng ứng với đại hạn đem đến tác dụng rất lớn. VD sao Hóa Kị của lưu niên nhập vào mệnh cung của đại hạn, sự việc sẽ gặp đổ vỡ, chủ đen đủi, nhập vào cung lục thân cũng chủ bất lợi với lục thân . Truyền tác dụng xuống lưu nguyệt, khi lưu nguyệt chạy đến cung có Hóa Kị của lưu niên, chủ về tháng đó hung. Việc thành hay không chủ yếu xem lưu niên, lúc xét lưu niên, cần xem hai nhóm tứ hóa của đại hạn và lưu niên, nếu tứ hóa năm sinh xung hoặc trùng với đại vận và lưu niên thì mới khởi tác dụng, nếu không trùng hoặc xung thì tứ hóa năm sinh có thể không xem, việc xung hay trùng làm tăng hoặc giảm tác dụng của tứ hóa. Nếu năm hạn hóa cát (Lộc, Quyền, Khoa) cùng gặp năm sinh hóa cát, là tốt càng thêm tốt, tăng lực tác dụng. Nếu năm hạn hóa kị xung khởi với năm sinh hóa cát, tức từ tốt mà thành kém, cơ hội giảm sút. Nếu năm hạn hóa cát xung khởi với hóa kị năm sinh, tức là từ kém mà sang khá, thời cơ có thể đến. Nếu năm hạn hóa kị xung khởi với hóa kị năm sinh (sẽ được bàn đến ở chương 14), là xấu càng thêm xấu, cẩn thận đề phòng tai họa.
Cung tiểu hạn không có phi xuất tứ hóa, cần xem tình hình của sao trong cung, bao gồm xem tứ hóa của năm sinh, đại hạn, tiểu hạn, cho đến ảnh hưởng của lưu Kình Đà Khôi Việt… lên cung.
Quan hệ của tứ hóa rất phức tạp, sẽ bàn luận chi tiết tại chương 14.
Tứ hóa là dụng thần, là huyền cơ, cũng có thể nói tứ hóa chính là nút bấm cho sự phát sinh sự việc. Do đó, lúc suy đoán cát hung của hạn năm, cần xem trọng tác dụng của tứ hóa.
Năm sinh được ví như “Thiên”, tại Thiên mà thùy tượng (điềm báo sự tình, tượng còn chưa rõ ràng), đại hạn được xem như “Địa”, tại Địa mà thành hình (hình thành trong thai nghén), lưu niên ứng với “Nhân”, tại nhân mà thành sự (lúc này đã sinh ra).
Trong tứ hóa, quan hệ cơ bản của Năm sinh, Đại hạn, Lưu niên là:
Năm sinh là thể, năm hạn là dụng
Thượng truyền hạ ứng. Thượng truyền, nghĩa là Tứ hóa của cung này nhập vào và ảnh hưởng đến cung cấp trên của nó. Hạ ứng, nghĩa là lúc năm hạn (cấp dưới) chạy đến cung vị có Tứ Hóa của đại hạn, thì sẽ ứng với cát hung. Thông thường, cung đại hạn sẽ “thượng truyền” bản mệnh, “hạ ứng” lưu niên. Tức là lúc tứ hóa của đại hạn nhập vào cung nào đó của nguyên mệnh, sẽ phát sinh ảnh hưởng đến các cung này ; tứ hóa của đại hạn cũng tác dụng lên tiểu hạn lưu niên, tức là khi lưu niên chạy đến cung có tứ hóa thì sẽ ứng với cát hung. Tương tự tứ hóa của lưu niên thượng truyền đại hạn, hạ ứng lưu nguyệt.
Tứ hóa của một cung trước tiên sẽ tác dụng lên các cung đồng cấp với nó, thứ đến mới là thượng truyền và hạ ứng.
Do đó, tứ hóa là dùng cho “Tam Đại”, tức bản cấp, thượng cấp, hạ cấp.
Sao tứ hóa năm sinh, có ảnh hưởng suốt một đời người, điềm báo về bản chất của các cung viên của nguyên mệnh, cần xem trọng lúc luận đoán số mệnh. Tứ hóa năm hạn, biểu thị các tình huống biến hóa trong từng thời kỳ của đại hạn.
Lấy thiên can của đại hạn để tra xuất sao tứ hóa, là cửa ngõ của sự việc, rất quan trọng, trên có thể truyền tác dụng đến nguyên mệnh, dưới có thể truyền tác dụng xuống lưu niên, đối với lưu niên ảnh hưởng rất lớn. Lúc suy xét đại hạn, lấy tứ hóa đại hạn làm chủ, kết hợp với xem tứ hóa năm sinh. Cung đại hạn xuất tứ hóa là giai đoạn đã hình thành sự việc, bắt đầu chuyển chiết tác dụng thượng truyền hạ ứng, vô cùng trọng yếu, các việc cát hung sẽ hội ứng vào một trong mười năm này.
Lấy thiên can của lưu niên mà tra xuất sao tứ hóa, tác dụng cùng với tứ hóa của đại hạn, thượng ứng với đại hạn đem đến tác dụng rất lớn. VD sao Hóa Kị của lưu niên nhập vào mệnh cung của đại hạn, sự việc sẽ gặp đổ vỡ, chủ đen đủi, nhập vào cung lục thân cũng chủ bất lợi với lục thân . Truyền tác dụng xuống lưu nguyệt, khi lưu nguyệt chạy đến cung có Hóa Kị của lưu niên, chủ về tháng đó hung. Việc thành hay không chủ yếu xem lưu niên, lúc xét lưu niên, cần xem hai nhóm tứ hóa của đại hạn và lưu niên, nếu tứ hóa năm sinh xung hoặc trùng với đại vận và lưu niên thì mới khởi tác dụng, nếu không trùng hoặc xung thì tứ hóa năm sinh có thể không xem, việc xung hay trùng làm tăng hoặc giảm tác dụng của tứ hóa. Nếu năm hạn hóa cát (Lộc, Quyền, Khoa) cùng gặp năm sinh hóa cát, là tốt càng thêm tốt, tăng lực tác dụng. Nếu năm hạn hóa kị xung khởi với năm sinh hóa cát, tức từ tốt mà thành kém, cơ hội giảm sút. Nếu năm hạn hóa cát xung khởi với hóa kị năm sinh, tức là từ kém mà sang khá, thời cơ có thể đến. Nếu năm hạn hóa kị xung khởi với hóa kị năm sinh (sẽ được bàn đến ở chương 14), là xấu càng thêm xấu, cẩn thận đề phòng tai họa.
Cung tiểu hạn không có phi xuất tứ hóa, cần xem tình hình của sao trong cung, bao gồm xem tứ hóa của năm sinh, đại hạn, tiểu hạn, cho đến ảnh hưởng của lưu Kình Đà Khôi Việt… lên cung.
Quan hệ của tứ hóa rất phức tạp, sẽ bàn luận chi tiết tại chương 14.
(Tử vi đẩu số tinh hoa tập thành – Đại Đức Sơn Nhân