Tiết 3: Suy Đoán, phân tích tiên thiên mệnh số

Một, Xem về tướng mạo, tính cách, tài hoa của mỗi con người

Luận tướng mạo, tính cách tài năng của mỗi người, chủ yếu luận cung Mệnh, sau là đến Phụ Mẫu, Phúc Đức, Tật Ách.

Thông thường, nhìn cá tính bộc lộ của một người ra bên ngoài thì xem cung Mệnh là chính, cung Di là phụ; Tính cách ẩn bên trong thì luận cung Tật; Khí chất tập tính, hứng thú đam mê, tiềm thức (có liên quan đến tổ truyền) thì luận cung Phúc, cả bốn cung này đều xem. Mệnh vô chính diệu thì luận cung Di và Phúc, nếu Phúc vô chính diệu nốt thì khán Tật, tất bốn cung đều đưa ra kết luận. Xem tướng mạo và tài hoa (năng lực suy nghĩ) lấy cung Mệnh làm chính, xem thêm cung Phụ. Khán vóc người lấy cung Mệnh và Tật để xem.

Cung chủ yếu và chính tinh làm mạch nguồn chủ, cung thứ yếu và phụ tinh làm mạch nguồn phụ trợ, từ đó quy nặp tổng kết ra tướng mạo, tính cách tài hoa của người đó. Mỗi sao đều chứa một tính chất đặc thù, Cho nên các tinh diệu mà mệnh cung sở hữu đều phải tham khảo thêm, cái giống nhau thì không nhắc lại nữa, cái không giống nhau thì tăng thêm vào hoặc tăng cường, giảm nhược tính tình của chính tinh. v. v. v., rồi sau đó mới tiến hành quy nạp. Cụ thể thế nào, mời xem thêm “Luận đoán nhiều sao nhập cung”. Khi luận, phải linh hoạt xem xét để lấy cái ý chính; Lấy chủ tinh là trọng, nên xem xét tỉ mỉ; Phụ tinh thì nên giản lược, luận tác dụng chính của nó, chủ yếu là xem xem với chính tinh là giúp đỡ hay ức chế, lại xét đối với tính chất của chính tinh chọn lọc lại, tổng hợp và đưa ra kết luận. Ví dụ, chính tinh miếu vượng hoặc gặp nhiều cát, ác cũng đổi thành thiện; Đã hãm hoặc gặp nhiều hung tinh, thiện cũng đổi thành ác.

Nguyên tắc quan trọng, sao Nam Đẩu đa nhu mà nhanh nhạy, sao Bắc Đẩu đa cương mà thiếu suy nghĩ. Chính tinh nhu, mừng khi gặp tam phương có sao cương và ngược lại; dạng này là tài năng kết hợp cương nhu, bằng không là quá cương hoặc quá nhu. Phàm quý tinh nhập mệnh đa phần thanh tú, đào hoa tinh nhập mệnh đa phần diễm lệ, phá bại tinh nhập mệnh tướng mạo thô tục, quá mức thì hung bạo cố chấp.

(Dịch lại: Nguyên tắc là: Nam đẩu tinh nhu nhiều mà minh mẫn nhạy cảm, Sao Bắc đẩu cương nhiều mà thiếu suy nghĩ. Chính tinh ở cung mệnh nhu hòa, hỉ tam phương có các sao cương cường; Chính tinh ở cung mệnh cương cường, hỉ tam phương có sao nhu mền; như vậy mới có thể cương nhu phù giúp lẫn nhau, nếu không là qúa cương hoặc quá nhu, người quá cương dễ gãy, người quá nhu lại nhu nhược. Phàm là quý tinh nhập mệnh là đa phần thanh tú, Đào Hoa tinh nhập mệnh thì đa phần xinh đẹp, phá bại tinh nhập mệnh tướng mặt thô bỉ, nếu quá nhiều thì gàn bướng nhiều tai ương.)

Như thế nào là xem tính tình thiện ác của mỗi người? Điều này chủ yếu dựa vào lý tính và sự vượng suy của sao trong Mệnh cung để xem, đồng thời kiêm xem luôn sự vượng suy của tinh diệu trong cung Phúc Đức. Cơ bản là, gặp cát tinh thiện tinh, thì bản chất người đó nhiều thiện lương; gặp hung sát tinh, thì bản chất người đó đa số tồi tệ, xấu xa, tầm thường; người gặp Sát nói chung đa số có tập tính bất lương. Trong Tử Vi thông thường đôn hậu đến kiêu ngạo yếu đuối, Nhật Nguyệt Tả Hữu hiền từ nhất (Thái Âm tao nhã xinh đẹp mà yếu đuối thâm trầm, Thái Dương bác ái mà cương trực nôn nóng, Tả Phụ rộng lượng mà cô độc, Hữu Bật trung thực mà tự phụ), tính tình của Phủ Tướng Đồng Lương thì hiền lành mà bảo thủ (Thiên Phủ ôn hòa thận trọng mộc mạc nho nhã, Thiên Tướng nho nhã, giàu có sang trọng, Thiên Đồng lỗi lạc hòa nhã lại lười biếng, Thiên Lương từng trải trung hậu mà kiêu ngạo), Xương Khúc Lộc Cơ thanh tú nhanh nhẹn khéo léo (Văn Xương chánh trực mà kiêu ngạo, Văn Khúc đa tài mà lãng mạn, Lộc Tồn thận trọng mà tham lam keo kiệt ích kỷ, Thiên Cơ nhanh nhạy thiện lương mà ảo tưởng khoe khoang tính toán), Cự Phá Dương Đà tính tình cương cường mà lắm thị phi (Cự Môn khôn khéo có sở trường về tranh luận biện giải nhưng khắt khe bạc bẽo mà lắm khẩu thiệt thị phi, Phá Quân to gan lớn mật khỏe mạnh mà đầu tóc góc cạch dữ tợn hung ác, Kình Dương cứng rắn mà tàn bạo hiếu chiến, Đà La cơ mưu mà lắm thay đổi thích tranh giành cướp đoạt), Hỏa Linh Tham Không Kiếp tính vô thường (Hỏa tinh giỏi giang mà nóng nảy, Linh Tinh nhanh nhẹn mà dễ thay đổi, Tham Lang phóng khoáng mà tham lam lật lọng, Địa Kiếp nghiêm khắc lừa dối bịp bợm, Thiên Không nhanh trí; tháo vát mà dối trá), Liêm Vũ Sát cương liệt ngoan cố mà hiếu chiến (Liêm Trinh kiên cường buông thả mà phù phiếm phóng túng, Vũ Khúc cương nghị quyết đoán mà tâm địa thiện lương, Thất Sát cương dũng mà đa nghi nhiều thay đổi). Cung Mệnh Thân đều có Tứ Sát là kẻ tham hoa luyến tửu.

Không cá nhân nào là thập toàn thập mỹ, ai cũng có tính tốt tính xấu, trong đó cũng có mặt điển hình mặt ít lộ, ưu khuyết chuyên biệt. Chủ tinh miếu vượng, nhiều cát tinh, tính tình phát triển theo hướng tốt; Chủ tinh thất hãm, nhiều sát, tính tình theo mặt yếu kém mà phát triển.

Ích kỉ và gian trá khác nhau, nặng nhẹ cũng khác, ích kỉ thì chưa chắc đã có mưu đồ hại người, nhưng nếu ích kỉ quá … thì dễ biến thành gian trá, gian trá thì không chỉ là ích kỉ, nó còn thể hiện sự ngụy tạo, trước mặt một kiểu, sau lưng một cách, thậm chí âm mưu hại người hoặc bán rẻ bạn hữu, đây là loại người không thể kết thâm. Cung mệnh mà có tứ sát là biểu hiện sự gian trá.

Bộ vị trên cơ thể: cung mệnh đi nghịch đến cung tật ách là bên trái, cung phụ mẫu thuận đến cung nô bộc là bên phải. Mệnh, phụ là đầu; thiên di, nô là hạ bộ. Can cung dương là ở mặt lưng; can cung âm là ở phía trước.

Nhận định về các nốt ruồi, bớt, thẹo: Xương Khúc là có nốt ruồi lớn, Đà La là có bớt, Vũ Khúc có sẹo, Liêm TrinhThái Dương có bớt, đốm. Thiên Cơ Hóa Quyền nhập thiên di, lông mi có nốt ruồi. Dựa vào thuật tinh diệu rơi vào cung nào để đoán trên các bộ vị cơ thể nơi nào có nốt ruồi, bớt, thẹo.

Hai, phân tích sơ bộ mệnh số trọn đời

Mệnh số trọn đời, tức xu thế tổng quan của vận mạng đời người.

Phân tích mệnh số cuộc đời, là phương pháp phân tích lập thể đa tầng, đầu tiên lấy cung mệnh làm tụ cột là nội lực chính, khán bản cung cùng tinh tình vượng suy cát hung để xác mức độ mạnh yếu của nội lực; sau đó lại lấy tam phương tứ chính của cung mệnh, tả hữu lân cung là điều kiện ngoại lực, là tác nhân bên ngoài; Khán tam phương tứ chính, tả hữu lân cung tinh tình vượng suy cát hung tình huống; Kết hợp với cung mệnh cho ra cách cục gì không? Để xác định mức độ mạnh yếu của ngoại lực, quan trọng là phải căn cứ vào cách cục cung mệnh mà đo đếm đánh giá toàn bộ.

Lấy cung mệnh làm trụ cột phân tích sơ bộ mệnh số trọn đời.

Cung mệnh, ví như đầu não con người, linh hồn, khung xương, là hạt nhân chính của vận mạng, là nền móng tiên thiên, năng lực thiên phú, cùng sang quý phúc khí có liên quan, cung mệnh tốt xấu ảnh hưởng số phận cả đời người, quản lý thành tựu cả đời, nhất là từ niên thiếu đến tiền trung niên (trước 40 tuổi) giàu nghèo tình huống là ảnh hưởng lớn nhất.

Cung mệnh mạnh hay yếu là then chốt của một người giàu sang hay nghèo hèn, cung mệnh mạnh yếu phân tích tổng quan nhân tố nội bộ và ngoại bộ. Nội bộ nhân tố chính là chỉ cung mệnh mạnh hay yếu, ngoại bộ nhân tố là chỉ tam phương tứ chính của cung mệnh cùng tả hữu lân giáp cung tác dụng lực mạnh hay yếu lên cung mệnh.

(1), Sự mạnh yếu của nhân tốt bên trong, tức là phân tích phán đoán Mệnh cung bản cung

Mức độ manh yếu của nhân tốt bên trong cung Mệnh, chủ yếu từ lực lượng tổ hợp tinh diệu, sự vượng suy của sao ở trong cung mệnh, tình hình tam phương suy tuyệt sinh vượng mà các tinh diệu đóng tại các cung đó đế phân tích phán đoán.

Làm sao để phân tích sự vượng nhược của Mệnh cung bản cung? Dưới đây là xét năm loại tổ hợp:

① Tổ hợp mạnh nhất: Có được cách cục tốt, có chính tinh miếu vượng nhập cung, lại có được cung ngũ hành tương sinh, rơi vào cung có Trường Sinh, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng. Trong cung phó tinh đều là giúp đỡ chủ tinh, không sát tinh, hoặc tuy có sát tinh, nhưng lại miếu vượng và được cung khắc hoặc cát tinh khác khắc chế, nội bộ này đương nhiên là một pháo đài phi thường kiên cố, năng lực thập phần cường đại.

② Tổ hợp mạnh: Chủ tinh miếu vượng, cát tinh đông đảo, nhưng rơi cung không được vượng hoặc không được cung sinh. Chủ tinh miếu vượng mà có sát tinh xung phá. Vô chính diệu, có cát vô sát, đối cung tốt hoặc cấu thành cách cục tốt, có được cung vượng hoặc tướng sinh cho.

③ Tổ hợp trung bình: Chủ tinh miếu vượng, cát hung tinh hỗn tạp, ác sát tinh có hai. Chủ tinh bình, nhưng không sát tinh, vừa có được cung sinh, cung vượng hoặc cát tinh giúp đỡ. Chủ tinh hãm, có cát không sát. Cung mệnh vô chính diệu, không sát, cung đối cũng tương tự; hoặc vô cát còn đối cung tốt nhưng đây không phải cách cục tốt, đều thuộc tổ hợp trung bình.

④ Tổ hợp yếu: Chủ tinh bình, cát hung hỗn tạp. Mệnh vô chính diệu, cát hung hỗn tạp, đối cung cũng tương tự. Chủ tinh hãm, không sát, hoặc cát hung hỗn tạp nhiều sát ít cát.

⑤ Tổ hợp yếu nhất: Cách cục nghèo hèn. Chủ tinh hãm, không cát mà sát tinh thì đông đảo, lại rơi vào cung Suy Tuyệt Tử. Vô chính diệu, không cát nhiều sát tinh, rơi vào Suy Tuyệt Tử, mà đối cung cũng yếu, đây là tổ hợp xấu nhất, căn cơ không có, cho dù cung thân cùng tam phương cát tinh đông đảo, cũng khó có cơ hội phát triển.

(2), Phân tích nhân tố ngoại bộ mạnh yếu

Sự vật phát triển, nhân tố nội bộ là chủ yếu, nhưng cũng không thể sao nhãng các nhân tố ngoại bộ. Cung mệnh tam phương tứ chính, tả hữu lân cung và tinh diệu của chúng, chính là điều kiện ngoại bộ, lực ảnh hưởng ngoại bộ. Tam phương tứ chính cũng biểu hiện thành tựu tương lai, ưu khuyết của hoàn cảnh ngoại vi và mức độ có thể cải tạo được số phận. Tam phương tứ chính cùng tả hữu lân cung cường thì ngoại bộ điều kiện tốt mà trợ lực lớn (cấu thành cách cục thì trợ lực lớn hơn nữa), ngược lại thì trợ lực yếu, thậm chí đến mức phá hư tác dụng.

Các phương pháp tham khảo dùng để phân tích phán đoán lực mạnh yếu của tam phương tứ chính, tả hữu lân cung lên mệnh bàn.

(3) Tổng kết phán đoán cung mệnh mạnh hay yếu

Làm sao để khán cung mệnh cùng tam phương tứ chính, tả hữu lân cung quan hệ tốt? Ở đây, tam phương tứ chính cùng tả hữu lân cung các loại tinh diệu, chủ yếu khán lực mạnh yếu, không cần tra cặn kẽ tinh tình, chỉ cần biết diều kiện thiên phú, cát tinh hung tinh cùng chủ tinh cung mệnh phối hợp ra sao (cách cục cấu thành ra sao) là được.

Cung mệnh cùng tam phương tứ chính, tả hữu lân cung phối hợp, quan hệ tốt xấu, có thể phân làm bốn trường hợp dưới đây:

① Tổ hợp mạnh nhất: Cung mệnh cường, tam phương tứ chính, tả hữu lân cung (gọi chung ngoại vi cung, như trên) đều cường, mà lại đa số thiện tinh cùng Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt Khoa Quyền Lộc loại các cát tinh hội tụ vây quanh trợ giúp chính tinh, không có hung tinh, hoặc tuy có sát tinh, nhưng chúng lại miếu vượng hoặc bị chế phục hoặc có phối hợp tốt, thì nội ngoại đều tốt, tất có thể đại triển kế hoạch lớn, suốt đời trôi chảy, cấu thành phú quý cách cục lại càng hay.

② Tổ hợp khá mạnh: Cung mệnh cường, ngoại vi cung giống nhau, cát hung hỗn tạp; cung mệnh giống nhau, ngoại vi cung cường hoặc cấu thành phú quý cách cục; cung mệnh khá cường, ngoại vi cung cũng khá cường.

③ Tổ hợp phổ biến: Cung mệnh không tốt lắm, ngoại vi tinh diệu cát chúng mà hữu lực, phố hợp đồng thời, thì dựa vào nỗ lực hậu thiên và lực lượng bên ngoài mà có được sự phát triển; Cung mệnh cường, ngoại vi cung hung, chủ tinh hãm hoặc ác sát tinh nhiều, cát tinh ít, hoặc ngoại vi tinh diệu giữa phối hợp không tốt, thì luận là hoàn cảnh bên ngoài không tốt, điều kiện bên ngoài kém, tứ cố vô thân, chỉ có dựa vào tự nhiên hoặc tay làm hàm nhai; cung mệnh đồng nhất, ngoại vi cung cũng đồng nhất, cát hung hỗn tạp. Tam phương gặp Sát Phá Liêm Tham đồng nhất đa không tốt (nếu thành cách cục tốt thì ngoại trừ), hãm thì có thể coi là hung tướng, nhưng so sánh Thất Sát tinh là nhẹ.

④ Tổ hợp yếu: Cung mệnh yếu, ngoại vi cung cũng yếu, dữ nhiều lành ít, mà lại đa số sát tinh tụ hội, giữa các sao lại phối hợp không tốt (cấu thành cách cục nghèo hèn), vậy là trong ngoài đều khốn đốn, khó có thể có điều kiện phát triển.

Ở trên là tổng hợp các phương pháp phán đoán cung mệnh mạnh yếu, cái này cũng là phương pháp phân tích đấu sổ cơ bản. Phương pháp phân tích này cũng áp dụng cho cung thân, cùng với đại hạn, lưu niên, lưu nguyệt, lưu nhật, lưu thời.

(4) Phán đoán suy luận tam giáp mệnh và lục giáp mệnh

Tam giáp mệnh hung cách: Tức Không Kiếp, Hỏa Linh, Kình Đà tổ hợp hung thần ở cung mệnh và tả hữu lưỡng lân cung. Gặp cách cục này, dữ nhiều lành ít, cung mệnh cho dù có cát tinh thủ chiếu, cũng luận yếu. (chú: Kình Đà giáp thân mệnh, luận hung trong các trường hợp sau, khi xảy ra tình huống Lộc bị xung phá thì mới tính là hung, bằng không Lộc Tồn thủ thân mệnh, luận là phú quý, các trường hợp đó là: Kình Đà giáp Kỵ, Kình Đà giáp Không Kiếp, Không Vong, thì Lộc Tồn bị xung phá mà vô dụng, là bại cục, cát tàng hung). Hỏa Linh giáp Kình Đà, Không Kiếp giáp Kỵ, Kình Đà giáp Hỏa Linh là đại hung, cho dù tam phương nhiều cát cũng chủ nghèo hèn yểu mệnh. Nếu có hai tổ hợp cùng giáp mệnh, nhất là Không Kiếp cùng Kình Đà, lại càng hung, cho dù chính tinh cung mệnh là Tử Phủ Lộc Tồn, cũng chủ yểu bại nghèo hèn, lại gặp chính tinh cung mệnh Hóa Kỵ, thì càng hiểm, cũng chủ chết non hoặc nghèo hèn. Hành hạn đến đó thì ứng hung.

Lục giáp mệnh cát cách: Tức Tử Phủ, Tả Hữu, Xương Khúc, Khôi Việt, Nhật Nguyệt, Khoa Quyền Lộc sáu tổ cát tinh ở cung mệnh tả hữu lưỡng lân cung giáp. Mệnh gặp, chủ cát nhiều hung ít, cung mệnh nếu hung thì cũng nhẹ, cát cái lại thêm cát, tam phương cát vây quanh thì dệt hoa trên gấm, nhưng cụ thể thì phải xem thêm miếu hãm tình huống mà định.

(5) Một số nhận định sơ bộ về cung mệnh:

1) Người sinh năm dương, địa chi cung mệnh là dương thì cát lợi; Người sinh năm âm, cung mệnh địa chi là âmm cũng tốt. Tí, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất là sáu giờ sinh dương, nếu cung mệnh an đúng cung địa chi giờ sinh là tốt. Tương tự Sửu, Mão, Tỵ, Mùi, Dậu, Hợi là sáu giờ sinh âm, nếu cung mệnh an đúng vào địa chi giờ sinh là tốt. Ở trên là có được địa lợi; những người này, cung mệnh cát thì thêm cát, hung thì giảm hung.

② Người sinh năm dương, cung mệnh địa chi là âm thì không được cát; tương tự với người sinh năm âm. Người sinh giờ dương, cung mệnh an vào cung âm thì không được cát, tương tự với giờ âm…. Ở trên là đối xứng phản bối, không có được địa lợi, những người này, cung mệnh cát thì giảm cát, hung thì tăng hung.

③ Cung mệnh an ở vị trí tứ sinh (Dần Thân Tỵ Hợi), chủ suốt đời bôn ba, phải luân chuyển thì mới có niềm vui, thể xác và tinh thần đều động, hay suy nghĩ, thông minh cần cù, thái độ làm người đem niềm vui

để dung hòa, làm việc trải qua tính toán lao tâm mà thu hoạch thành công.

4) Cung mệnh ở tứ bại (Tý Ngọ Mão Dậu), chủ nhiệt tình rộng rãi, lạc quan, đa tình, cơ biến, thích đầu cơ trục lợi,sự nghiệp nhờ có cơ trí nhanh nhẹn mà dễ thành công. Cơ duyên tốt với người khác giới.

⑤ Cung mệnh ở tứ mộ (Thìn Tuất Sửu Mùi), thái độ làm người bảo thủ, cần lao tiết kiệm, trung thành chân thật, chịu được mệt mỏi, khó khăn, hiền lành tiết kiệm, không giỏi phối hợp, làm việc dựa vào quyết tâm bền chí kiên định mà thành, trải qua gian nan mà thành công.

⑥ Cung mệnh có các sao hao tổn, chủ thanh thiếu niên nghèo khó, lãng phí tiêu hao, sự nghiệp phát triển gian nan.

⑦ Cung mệnh nặng sát tinh, tài quan cát, dù có tài quan cũng khổ cực, tất trải qua gian khổ phấn đầu mà lấy được thành công.

8) “Nếu gặp bại địa, khán các sao tương trợ, có kỳ công”: Như mệnh ở bại (Mộc Dục) và Suy Tuyệt, nếu có Lộc Tồn, Hóa Lộc đến tương trợ thì luận là cát mỹ.

(6) Phương pháp xem Mệnh vô chính diệu:

Cung mệnh vô chính tinh, nếu bản cung cát nhiều vô sát, tài thiên di quan tam cung có cát tinh vây quanh chiếu, cấu thành cách cục tốt, trải qua nỗ lực cùng năng lực đạt phú quý vinh hiển, nhưng cũng chủ lúc nhỏ nhiều đau khổ, nên xuất ngoại phát triển. Nếu bản cung có sao Hóa Kỵ tọa thủ, là hạ cục, cho dù tam phương có cát cũng chủ thành bại đa đoan; tam phương lại có ác sát xung chiếu, là mệnh phá hoại tài sản tổ tiên, cách ly tổ nghiệp mới có khả năng thành gia phát triển. Nếu cung tài bạch không tốt, thì sẽ phá tàu rất mạnh.

Mệnh vô chính diệu, trong tính cách có điểm trống rỗng không thật tính hoặc chần trừ khó quyết định, hỉ nộ ái ố thường bị ngoại cảnh tác động mạnh (Tức cung thiên di ảnh hưởng), đến đây thì cung mệnh không tính mạnh yếu, tuy có thể mượn các sao cung đối để xem, nhưng cả cát và hung sẽ suy giảm nhiều (nếu dùng số mà định lượng, ước chừng ảnh hưởng khoảng 50%)

Mệnh vô chính diệu, duyên với lục thân mỏng, lúc nhỏ dễ rời nhà hoặc do người khác nuôi, nếu cung phụ mẫu cũng vô chính diệu hoặc không tốt thì càng ứng, nếu cung di là Phá Quân, Cự Môn thì mới có thể duy trì, nhất là nữ mệnh mới khá có thể, còn lại thì đều xấu, nên ly hương để phát triển.

Mệnh vô chính diệu, ngoài việc xem thêm cung thiên di, thì nên xem thêm cung thân.

(7) Hai mươi cách cục giàu sang nghèo hèn (Đây chỉ là liệt kê điềm báo, mang tính khuynh hướng, cụ thể phải phân tích cả lá số cùng hành hạn thì mới đưa ra được nhận định chính xác được)

Phú quý: Cung mệnh có Tử Phủ Vũ Tướng Nhật Nguyệt Xương Khúc Tả Hữu hội Khoa Quyền Lộc đủ loại cát tinh hội hợp, chính tinh miếu vượng không bị phá, là phú quý mệnh (Tử Vi tam phương tụ họp Tả Hữu hai sao, không được gặp Không Vong sát kỵ xung phá mới được). (Chú: Tài quan cũng phải không bị xung phá).

Giàu có: Vũ, Âm nhập miếu thủ tài cung, không bị phá bởi hao hung tinh, thì tài sản vô số. Còn lại xem thêm “Định phú cục”

Phúc thọ: Người sinh phương Nam với dương nam âm nữ, trong cung Mệnh có Đồng, Lương miếu vượng tọa thủ, vô Sát xung phá chủ về phú qúy song toàn; người sinh ở phương Bác với âm nam dương nữ, trong cung Mệnh có Tử Vũ Tham miếu vượng tọa thủ vô sát chủ phúc thọ. (chú ý: cung Phúc Đức vô phá mới đúng).

Văn chức (chức quan văn): Trong cung Mệnh có Xương Khúc Tả Hữu Khôi Việt, mà cung chúng đóng lại vượng, còn tam phương tứ chính có Khoa Quyền Lộc củng chiếu, thì là Quan văn. Cung Mệnh thân tọa Tử Phủ Tướng gia hội thêm Tả Hữu Xương Khúc, không phùng Không Kiếp Sát Kị xung phá, thì kim bẳng đề danh, có thể là chức vụ quan văn tương đối cao.

Quan võ: Mệnh cung có Vũ Sát Liêm miếu vượng, lại được Tam Thai Bát Tọa Khôi Việt Quyền Lộc củng chiếu, làm quan võ (sĩ quan quân đội) hoặc tùy viên quân sự (trong sứ quán). Tử Vi Hóa Quyền tọa mệnh thân, có hai sao Tả Hữu củng chiếu, là mệnh đại tướng. Sát Phá Liêm Tham thủ mệnh, bản cung vô sát hợp với võ chức, gia hội thêm cát tinh, thì uy chấn biên cương. (Vũ Sát phá Liêm Tham miếu vượng thủ mệnh, vô Sát đồng cung, tam phương hội Sát, đương nhiên là võ chức, có Sát đồng cung có nguy hiểm)

Uy dũng: Trong cung Mệnh có Vũ, Sát, Dương, lại thêm Quyền Lộc, tam phương có Tử Phủ Tả Hữu củng chiếu, chủ nhân uy dũng.

Thông minh: Trong cung Mệnh và cung Phụ Mẫu có Xương Khúc Khôi Việt Tả Hữu Phủ Tướng Tam Thai Bát Tọa Hóa Khoa tọa thủ củng chiếu, vô phá chủ nhân vô cùng thông minh.

Bần tiện: Mệnh cung có Dương Đà Liêm Sát Cự Phá Không Kiếp Kị… thủ chiếu củng xung, nhiều hung lại gặp hãm địa, chủ bần tiện. Đúng gọi là “Mệnh trung cát diệu bất lai lâm, hỏa kị Dương Đà tứ chính xâm, Tham Liêm Cự Phá lai hội hợp, nhất sinh bạo táo hựu bần tiện (ND: Trong mệnh cát diệu không thấy đến, Hỏa Kị Dương Đà 4 phương về, Tham Liêm Cự Phá đến hội hợp, cuộc đời nóng nảy thêm bần hàn)”. (Không Kiếp và Dương Đà cùng hội).

Quan Pháp luật: Mệnh cung gặp Dương, Đà, Hỏa, Linh, Vũ, Phá, Sát, miếu vượng cát củng, tam phương không có hung tinh, là người làm về pháp luật, có thể làm công việc như tư pháp cảnh sát. (Vũ Phá Sát miếu vượng thủ mệnh, vô Sát đồng cung, tam phương hội Sát hợp với võ chức, có Sát đồng có hữu nguy hiểm).

Bệnh yểu: Mệnh cung hoặc cung Tật ách hoặc cung Phụ mẫu có nhóm hỗn tạp tinh gồm Tham Liêm Dương Đà Không Kiếp Hỏa Linh Kị thất hãm thủ chiếu củng xung, chủ bệnh tật thương tàn, thậm chí là chết yểu. (hội thêm có sao Âm Sát, Đại Hao, Thiên Hư, Thiên Nguyệt càng đúng)

Tăng đạo: Mệnh cung Cơ Lương Sát Phá Không Kiếp hội tụ; Tử Vi cư Mão Dậu ngộ Không Kiếp, lại có Sát Hao; mệnh Vô Chính Diệu lại phùng Sát Kỵ, lại kiêm 3 cung Phụ Mẫu Phu Thê Tử Tức thất hãm hoặc có Sát, chắc chắn là mệnh tăng đạo.

Công chức (thời nay gọi là nhân viên công vụ): Nhật Nguyệt miếu vượng hóa cát nhập cường cung, cả đời làm nhân viên giấy tờ, Cơ Nguyệt Đồng Lương nhân viên phục vụ.

Thương nhân: Thiên Cơ Tị Hợi và Tham Âm Sát Kị tọa mệnh, đa số là người giảo hoạt cơ mưu, xa rời quê hương buôn bán. Người có cung Tài Bạch mạnh hơn cung Mệnh cũng có thể là mệnh thương nhân. Lương vũ cư Thiên Di, có lợi thế về buôn bán.

Đạo tặc: Mệnh gặp Cự Phá và Liêm Tham, Thất Sát ở tam phương hội chiếu, lại ngộ Vũ Khúc thêm Sát tinh cùng lâm cung Thiên Di, là mệnh đạo tạc. Mệnh gặp Cự Phá Liêm Tham thêm Dương Đà Kiếp Sát tụ hợp, tam phương lại có các sao hung hiểm, không phải trộm cướp thì cũng bần tiện. Tham Lang Đại Hao thủ 2 cung Mệnh, Quan, suốt đời trộm cướp.

Phóng đãng: Mệnh Thân có Liêm Tham Sát diệu thêm Đào Hoa, tham hoa luyến tửu mối họa nhiều. Nguyệt Lương hãm cung tọa mệnh, trôi dạt xứ người, tửu sắc dâm loạn.

Phá tướng: Trong cung Phụ Mẫu phùng Sát tinh, lại thêm tam phương có hình sát, Dương Đà Thương Sứ lâm cung Tật, ngã thương thân thể tứ chi tàn tật. Chính tinnh cung Mệnh thân thất hãm lại có Thất Sát, Cung Tật Ách lại thất hãm thêm Sát, chủ có thương tật.

Thợ thủ công (người thợ): Thiên Cơ Thiên Tướng lâm thân Mệnh, Tử Vi Tài tinh nhập Mộ khố, Thiên Phủ lại ở cung Thiên Di, nếu có sát, là mệnh người thợ.

Kỹ Nghệ: Tham Lang Tị Hợi tọa Mệnh thân, Liêm Phá Mão Dậu tọa Mệnh thân, là người có kỹ nghệ. Tham Vũ thêm Sát Kỵ, Phá Vũ cư Mùi, Liêm Phá cư Mão Dậu và Cơ Tướng tọa mệnh, Thiên Phủ cư Thiên Di, đều là người có kỹ năng kỹ xảo.

Hỗn tạp: Cát tinh tương phù hung diệu lâm, kỹ năng kỹ xảo đủ loại mà không hanh thông, nếu mệnh thân còn gặp gặp ác diệu đến, chỉ là người làm nghề giết mổ gia súc. (Mệnh cung cát hung hỗn tạp, hoặc trước giàu sau tham ô, hoặc sự nghiệp có trở ngại, ác sát tụ tập lại càng đổ bại, hoặc hạ tiện).

Kỹ nữ hầu gái: Ba cung Mệnh thân Phúc của nữ mệnh thất hãm lại gặp sao Đào Hoa cùng sát tinh tụ hội, hoặc mệnh tọa Cơ Nguyệt ở Dần Thân lại thêm sát, hoặc Sát Phá Cự Tham thủ mệnh ở hãm cung mà thêm sát, Thiên Lương hãm địa ngộ Thiên Mã… , đa số là loại xướng tì dâm đãng, hoặc là phụ nữ giao tế nghèo hèn.

2、 Phương pháp xem cung thân

Cung thân là cung trợ giúp cho cung Mệnh, cũng thuộc nhân tố bên trong. Cung thân cũng là đất sống của mỗi người, là tình hình nỗ lực và nơi chốn mà năng lực phát triển hậu thiên của mỗi người, có quan hệ với tài phú, quản về tình hình giầu nghèo những năm trung vãn niên (sau 40 tuổi) (nhưng liên quan đến quý khí và thành tựu vẫn cần tham khảo thêm cung Mệnh). Mệnh cung cần những sao phúc thọ tọa thủ, thân cung cần những sao thanh quý tọa thủ. Phương pháp phân tích cụ thể thân cung và mệnh cung là giống nhau, có thể tham khảo them. (chú ý: Bản thân cho rằng, trong luận đoán phân tích thực tế, vai trò của thân cung ngoài rơi vào hai cung Tài Bạch và Quan Lộc vừa phải tương đối phù hợp với những tình trên, còn lại cung độ cũng không phải là thực tế như vậy, chủ yếu nó hiển thị nơi chấp chưởng mê hoặc của cuộc đời hậu thiên, tức là chỗ cần xem trọng nhất hoặc chỗ có tiền đồ phát triển nhất, theo cách xem dưới đây có liên quan đến thân cung ký gửi ở các cung để xem thì đã có thể, khi ở mệnh cung vô chính tinh thì cũng cần xem thêm thân cung. Thân cung là hư cấu, cung Tật Ách mới là đại biểu cho tình hình sức khỏa thân thể chính thức, cái tốt xấu của thân thể sức khỏe có quan hệ lớn nhất, trực tiếp nhất với cung Tật Ách, cho nên cần xem trọng nhiều hơn với cung Tật Ách. Thân cung không có cung độ độc lập, ý nghĩa thực tế là nên lấy cung mà thân cung ký gửi để xem).

“Tam giáp thân hung “, “Lục giáp thân cát” (giải thích vềTam giáp, lục giáp xem thêm tam giáp mệnh và lục giáp mênh).

Thân cung có các sao ác sát xung phá như Sát phá Dương Đà Hỏa Linh, thường thườn là phá tướng thương tổn, thậm trí là tàn tận; (Chú ý: Xem ra ứng vào cung Phụ Mẫu hoặc cung Tật ách mới đoán như thế, còn nếu thân cung ở cung Tài cung Quan thì khó vướng mắc đến Tật Ách).

Dương Đà kẹp thân, dễ gây ra oán hận, nếu thân cung lại Hóa Kị, thì tia họa bệnh tật phá bại.

Không Kiếp kẹp Thân, cả đời trắc trở, hoặc thân thể có khuyết hãm

Hỏa Linh kẹp thân, thân thể tàn phế, hoặc cả đời trắc trở vất vả cực nhọc, phát triển khó khăn. (ứng với kẹp cung Tật Ách cung Phụ Mẫu mới luận như vậy).

Mệnh cung tốt, thân cung cũng tốt, thì phú quý song toàn, cả đời cát lợi. Mệnh cung tốt, thân cung không tốt, thì thủa nhỏ hanh thông, nhưng nguồn tài không tụ, chỉ có quý khí mà không có thực lợi, về già cũng không tốt, giống như anh hùng không có đất dụng võ. Mệnh cung không tốt, thân cung tốt, thì thủa nhỏ gian khổ, trải qua được gian khổ của bản thân là có thể xây dựng được sự nghiệp, sau trung vãn niên có thể phát phúc, nhưng quý ít phú nhiều. Mệnh cung không tốt, thân cung lại không tốt, thì cả đời bất lợi, nghèo khó đến cuối đời. (Chú ý: Thân cung nhập cung Tài cung Di mới đoán như thế, nhập những cung khác thì lấy luận thuận mà thân cung ký gửi để xem).

Thân cung không có cung độc lập riêng của nó, nó luôn ký gửi ở các cung Mệnh, Tài, Di, Phúc, Cự Nghiệp, Phu Thê, Thân cung ký gửi ở cung nào thì quan hệ với cung đó đặc biệt mật thiết, báo hiệu xu hướng trọn đời của mỗi người. Tình huống mà thân cung ký gửi như sau.

Phương pháp xem thân cung.

1. Mệnh thân đồng cung (người sinh giờ Tý Ngọ): Có cá tính mạnh, cố chấp, nhưng thẳng thắn ngay thẳng, lời nói cứng rắn mà tâm địa nhu mềm; tiên hậu thiên đều ở một cung, mệnh vận có khuynh hướng tốt thì rất tốt, xấu thì rất xấu; Cung cát, được tam phương cát củng, thì có thể rất tốt; Cung hung, mà tam phương lại hung thì không ổn định, xem tinh diệu cát hung và sựu phối hợp mà cung độ hành vận mà xác định, có cát tinh thì hơi tốt, có hung tinh thì cực xấu. Nói chung để giải thích, thì suốt đời vất vả.

2, Thân cung nhập cung Phúc Đưc (người sinh giờ Sửu Mùi): Tương đối xem trọng sự hưởng thụ cá nhân, tổ hợp sao cát thì có hưởng thụ, còn hung thì không. Bản thân có tiền tiêu, thì thỏa mãn vui chơi giải chí, khi hai cung Tài Phúc đều không tốt, thì cả đời vất vả cực nhọc, cuộc sống sinh hoạt quá buồn bực không vui. Khi cung Tài tốt cung Phúc không tốt, có tiền mà không biết tiêu, là kể nô lệ của đồng tiền. Khi cung Tài không tốt, cung Phúc tốt, có thể thỏa mãn hưởng lạc.

3. Thân cung nhập cung Sự nghiệp (người sinh giờ Dần Thân): Đối với sự nghiệp đặc biệt cố chấp, có tinh thần trách nhiệm với sự nghiệp, rất coi trọng vinh dự, có dã tâm. Tổ hợp tinh hệ tốt thì có thể sáng lập sự nghiệp, năng lực làm việc tốt, cuộc đời thuận lợi, khí chất cao thượng, ngược lại thì xấu.

4. Thân cung nhập cung Thiên Di (người sinh giờ Mão Dậu): Thân nhập vào không gian hoạt động xã hội, giao du rộng, có thể thích ứng với nhiều hoàn cảnh biến đổi, mệnh vận cuộc đời thay đổi lớn, thân tâm tương đối bận bịu, khó được thanh nhàn, thích ra ngoài lêu lổng. Do Mệnh Di đối cung, mà ảnh hưởng lẫn nhau, Mệnh, Di đều tốt, bản thân có tài năng, mà có thể phát huy tài năng bản thân được tốt đẹp. Mệnh tốt mà Di không tốt, bản thân tuy có tài năng, nhưng ban đầu khó phát huy, cần phải trải quan nỗ lực của bản thân mới có thể được sự ngưỡng mộ của mọi người, từ đó mới có chỗ để phát huy. Người có Mệnh cung không tốt mà thân cung tốt, thì tuổi nhỏ sức khỏe yếu nhược nhiều bệnh, cho uống sữa của người khác hoặc cho làm con nuôi, người này rời xa quê hương sẽ phát triển hơn khi ở quê hương.

5. Thân cung nhập cung Tài Bạch (người sinh giờ Thìn Tuất): Nói chung đa số không thiếu tiền, cuộc đời thường xem trọng việc sử dụng tiền bạc, sẵn có đầu óc kinh doanh, tính toán tỉ mỉ, thiên về quản lý tiền tài. Phần lớn là thương nhân, nếu tổ hợp tinh hệ tốt, có thể thành người đại phú. Ngược lại thì không (tổ hợp tinh hệ xấu), thì cả đời buôn tẩu vất vả vì tiền, cuộc sống quá gian khổ khó khăn.

6. Thân cung nhập cung Phu thê (người sinh giờ Tị Hợi): Có quan niệm về gia đình tương đối nặng, có mẫn cảm đối với ái tình. Người có tổ hợp tinh hệ tốt, thì tình cảm vợ chồng tốt, cực kỳ quan tâm đến người phối ngẫu của mình, sự quan tâm một cách tỉ mỉ tinh tế; có thể dành lợi ích bởi hôn nhân; người có tổ hợp tinh hệ không tốt, dễ bị khó khăn trong vấn đề tình cảm, dễ rơi vào sự tương tư đơn phương, buồn khổ vì tình cảm, hôn nhân không đầm ấm. Nữ mềnh đều rất quan tâm đến chồng và mẹ đẻ.

Phân tích toàn vẹn mệnh cung và tam phương tứ chính của nó và hai cung bên cạnh phải trái, sau sự cát hung tốt xấu của thân cung, chỉ có thể tổng hợp phán đoán địa vị xã hội cao thấp, mức độ vinh hoa phú quý của một người đó, gọi chung là mệnh số tiên thiên. Mệnh số tiên thiên chỉ là một loại dấu hiệu, chiều hướng có thể hay không biểu đạt, còn phải xem vận hạn có trợ giúp được hay không.

1、Đẳng cấp năng lực trọn đời

Loại mệnh thượng đẳng, phù hợp với tổ hợp mệnh cung mạnh nhất

Mệnh cung cường, năng lực của Chính tinh cường lại miếu vượng, không có sát tinh xung phá, cung Sự Nghiệp, cung Tài Bạch, cung Thiên Di cũng tốt, cát tinh đông đúc mà Sát tình ít, chính là mệnh tạo thượng đẳng. Ví dụ cung Mệnh thân có cường tinh và cát tinh tọa miếu vướng, vô sát tinh; tam phương tứ chính hoặc hai hai cung bên cạnh phải trái lại có nhiều cát tinh hội tụ, cát tinh tụ tập này nhiều là các tinh diệu như Tử Phủ Nhật Nguyệt Tướng Đồng Lương Tả Hữu Khôi Việt Khoa Quyền Lộc, cát nhiều sát ít (vô sát càng đẹp), đây nhất định là mệnh thượng đẳng.

Mệnh thượng đẳng lại được vận hạn cũng là cát vận, nhất là trung vãn niên là cát vận, mới là thập toàn thập mĩ, phú quý phúc lộc thọ đều đẹp. Nếu hành vận thất hãm Hình Tù Kị Kiếp Sát…. , chính là trong cái đẹp vẫn còn có chỗ khiếm khuyết, nhưng vận qua thì hết.

(2)、中等之命,与命宫较强的组合相对应

Phù hợp với tổ hợp mệnh cung tương đối mạnh

Chính tinh cung Mệnh thất hãm, nhưng có cát mà vô sát, hoặc tuy có Sát tinh mà có thể sinh chính tinh, tam phương lại có cát tinh củng kẹp hội chiếu, là mệnh trung bình.

Chính tinh cung Mệnh tuy miếu vượng, nhưng có hạt sát tinh đồng cung, thân cung và tam phương lại có nhiều cát tinh củng kẹp hội chiếu, đây có thể đạt loại mệnh cục trung bình.

Chính tinh cung Mệnh miếu vượng, vô sát có cát, hoặc tuy có sát mà có thể sinh trợ Chình tinh, nhưng tam phương lại có ác sát hội chiếu giáp, thì cũng là mệnh trung bình.

Mệnh vô chính diệu, có cát vô sát, còn thân cung và tam phương tứ chính có nhiều cát tinh củng chiếu, có thể là mệnh trung bình.

Mệnh cung có Sát, lại được Khoa Quyền Lộc và cát tinh giải cứu, tam phương lại có nhiều cát tinh cũng chiếu, cũng là mệnh trung bình.

Xem từ các cung Mệnh thân, thì cung mệnh thân tốt, mà cung Sự Nghiệp, Tài Bạch, Phúc Đức không tốt, thì phú quý không toàn, cung Sự nghiệp tốt mà cung Tài bạch không tốt, chỉ quý mà không phú; cung Tài bạch tốt mà cung Sự nghiệp không tốt chỉ phú không quý; cung Phúc đức không tốt, thì phúc ấm kém, khó có hưởng thụ tốt, mức phú quý cũng bị ảnh hưởng đến.

(3)、下等平常之命,与命宫一般的组合相对应

Mệnh thấp hèn bình thường Tương đối phù hợp với tổ hợp cung mệnh bình thường.

Chính tinh Mệnh cung thất hãm, không có cát tinh và sát tinh, tam phương cát hung hỗn tạp, đây thuộc loại mệnh bình thường. Mệnh cung tuy miếu vượng mà cát hung tinh hỗ tạp, cũng thuộc loại mệnh bình thường (nếu tổ thành các cục tốt thì cũng có thể là mệnh trung trung bình hoặc thượng đẳng).

Từ lý tính của sao ở cung thân mệnh để xem, thì cung mệnh thân tốt, nhưng tam phương tứ chính, hai lân bên cạnh phải trái không tốt, cát hung hỗn tạp, thì chỉ được cuộc đời thanh nhàn, mà không có phú quý thực lợi; hoặc cung mệnh thân rất không tốt, mà tam phương tứ chính và hai cung bên cạnh tốt, thì trải qua gian khổ mà sáng lập được sự nghiệp, cũng có thể đạt được mức độ trên trung bình, cát tinh đông đúc thì cũng có thể phú quý.

Loại mệnh tạo này, nói chung, không có trở ngại về cơm áo, chỉ là bất túc về mức độ phú quý, hoặc bệnh tật tương đối nhiều

Mệnh bền tiện yểu chiến, tương ứng với tổ hợp mệnh cung yếu nhược

Các cung Mệnh thân, Phúc Đức, Tài Bạch, Sự Nghiệp, Thiên Di đều không tốt, ví dụ như cung mệnh thân có hung tinh tọa thủ, cát hung hỗn tập, hoặc chính tinh thất hãm, hoặc mệnh vô chính diệu có sát, mà tam phương tứ chính lại có cát hung tinh hỗn tạp; nhất là cung Mệnh thân có các sao Không Kiếp Dương Đà Hao Tử Tuyệt đồng thủ, tam phương tứ chính lại là cát hung hỗn tạp; hoặc tổ thành các nhóm hung cách như Không Kiếp giáp mệnh, Dương Đà giáp mệnh (Lộc phùng xung phá mới luận), Hỏa Linh giáp mệnh, tam phương tứ chính lân cung lại có cát hung hỗn tạp, đó chính là mệnh bần tiện, chắc chắn là mệnh yểu chiết.

2, Đoán định phẩm vị của đời người (Tức là đẳng cấp cao thấp có thể đạt được trong địa vị xã hội)

Đây là phép xem của cổ nhân, trong xã hội hiện tại thì phức tạp hơn nhiều, do vậy mà chỉ có thể cung cấp cho người đọc tham khảo

(1). Đầu tiên đoán định đẳng cấp “phẩm chất của sao” (phẩm chất của sao chủ về quý khí) trong mệnh cung (với thứ bậc năng lực đời người cơ bản tương đồng):

1. Mệnh nhập cách, tức là thành các cục phú quý không bị phá; hoặc chính tinh mệnh cung miếu vượng, cát tinh tụ tập, có Khoa Quyền Lộc thủ chiếu, tam phương tứ chính đều là cát tinh, cũng thượng cách (tương đương với mện thuộc loại thượng đẳng)

2. Chính tinh mệnh cung không nhập miếu, nhưng đắc địa ngang bằng mà cát tinh tụ tập, có Khoa Quyền Lộc thủ chiếu, tam phương tứ chính đều là cát tinh, là trung cách. (tương đương với mệnh trung đẳng). Chính tinh cung mệnh nhập miếu, nhưng bản cung và tam phương tứ chính đều có cát hung tinh tương bán hỗn tạp, cùng là cách trung bình.

Mệnh cung vô chính tinh, bản cung và tam phương tứ chính đều nhiều cát tinh mà không có Sát Kị, cùng là cách trung bình.

3, Chính tinh thất hãm hoặc rơi vào nhàn cung, bản cung và tam phương tứ chính đều có ác sát, là hạ cách. (tương đương với mệnh hạ đẳng bần tiện yểu chiết)

(2), Sau đó đoán định đẳng cấp “phẩm chất số” (phẩm chất số chủ về phúc khí) của cung mệnh.

① Sao nào được rơi vào cung mà âm dương ngũ hành của cung tương sinh, cung mà sao đó đóng lại là cung Trường Sinh, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, thì là thượng cách.

② Ngữ hành âm dương của sao va cung tương đồng, mà cung mà sao đóng là cung Thai, Dưỡng, thì là trung cách; cung mà sao tọa vượng tướng, nhưng âm dương lại tương khắc, thì cũng là trung cách; âm dương tương sinh, mà sao đóng ở cung Mộc Dục Suy Tuyệt, cũng là trung cách.

③ Cung mà sao đóng bị âm dương ngũ hành của cung tương khắc, mà sao cung đóng lại ở Suy Tuyệt Tử, chính là hạ cách

(3), Từ sự phối hợp giữa đẳng cấp của “phẩm chất sao” và đẳng cấp của “phẩm chất số” để mà đánh giá phẩm vị mỗi người.

①Phàm là các lá số có sao được thượng cách, số được thượng cách, sẽ đạt được ngôi vị đầu tiên như quân vương, thủ tướng, nguyên thủ.

② Phàm lá số có sao được thượng cách, số được được trung, là ngôi vị thứ hai như chức vị đến Tam công. Đảm nhiệm từ chức thủ tướng trở lên.

③ Phàm lá số có sao được thượng cách, số được hạ cách, là ngôi vị thứ 3, như chức vị Lục khanh. Đảm nhiệm từ cấp Bộ trưởng trở lên.

Ba cấp vị trên đều là người thuộc cách thưởng đẳng có số hưởng phúc

④ Phàm lá số có sao được trung cách, số được thượng cách, thuộc cấp vị thứ tư, đảm nhiệm chức vị từ cấp tỉnh trở lên.

Phàm các lá số mà sao được trung cách, số được trung cách, ở cấp độ 5, thì chỉ cán bộ,

⑥ Phàm lá số có sao được trung cách, số được hạ cách, thuộc cấp vị thứ 6, đảm nhiệp chức vị từ khoa trưởng trở lên, ông chủ, hoặc triển vọng tương lai hiển quý theo một con đường khác biệt nào đó.

Ba cấp vị loại trên đều thuộc loại người bậc trung hưởng phúc.

⑦ Phàm lá số có sao thuộc hạ cách, số được thượng cách, thuộc cấp vị thứ 7, người này y lộc đầy đủ, giàu có.

⑧ Phàm lá số có sao thuộc hạ cách, số được trung cách, thuộc cấp vị thứ 8, người này y thực không thiếu, thường thường bậc trung.

⑨ Phàm lá số có sao thuộc hạ cách, số bị hạ cách, thuộc cấp vị thứ 9, gian khổ vất vả, bần tiện yểu chiết.

(Tử vi đẩu số tinh hoa tập thành – Nhóm Thiên Hỏa Đồng Nhân biên dịch)

Trusted by some of the biggest brands

spaces-logo-white
next-logo-white
hemisferio-logo-white
digitalbox-logo-white
cglobal-logo-white
abstract-logo-white
white-logo-glyph

We’re Waiting To Help You

Get in touch with us today and let’s start transforming your business from the ground up.