Luận về cung Tật Ách
“Tam phương tứ chính” của cung Tật ách là cung Phụ mẫu, cung Huynh đệ và cung Điền trạch. Tổ hợp tinh hệ này là do trong chế độ đại gia đình, bệnh tật rất dễ lây nhiễm, thêm vào đó ở xã hội phong kiến cổ đại, thành viên của gia tộc mà phạm tội, thường thường có thể liên lụy đến người thân, vì vậy tổ hợp “tam phương tứ chính” này có một ý nghĩa đặc thù.
Hoàn cảnh xã hội diện đại tuy đã biến đổi, nhưng cung Tật ách đối xung với cung Phụ mẫu dùng để xem bệnh di truyền, và hội phương với cung Điền trạch để xem trạng thái sức khỏe của các thành viên trong gia đình. Thậm chí quan sát các sao thủ các cung hội hợp với cung Huynh đệ để xem “đời người” có hung ách hay không, theo kinh nghiệm của phái Trung Châu mà Vương Đình Chi đại diện thì vẫn hữu hiệu.
Cung Tật ách chủ về bệnh tật và tai ách. Nhưng liên quan đến vấn đề tai ách có xảy ra hay không, cung Tật ách thực ra chỉ có thể dùng để tham khảo. Bởi vì khi luận đoán tai ách, thường thường phải phối hợp thêm tinh hệ của cung Mệnh, hơn là dùng trực tiếp tinh hệ của cung Tật ách. Còn đối với việc luận đoán bệnh tật, thì nên xem xét cả tinh hệ của cung Mệnh lẫn tinh hệ của cung Tật ách, hai cung đều quan trong ngang nhau. Ví dụ như “Liêm Trinh Thất Sát” thông thường chủ về bệnh đường hô hấp, nếu cung Tật ách gặp tinh hệ này thì đương nhiên có ý nghĩa này, nhưng nếu cung Tật ách gặp sao Ác, mà cung Mệnh là “Liêm Trinh Thất Sát”, thì cũng chủ về đường hô hấp.
Có lúc thậm chí phải lấy tinh hệ của cung Mệnh và tinh hệ của cung Tật ách phối hợp lại để luận đoán một loại bệnh tật. Ví dụ cung Tật ách gặp “Liêm Trinh Thất Sát”, có Sát tinh hội chiếu, cung Mệnh gặp Hồng loan và Thiên hỷ, theo luận giải của Vương Đình Chi có thể phát hen suyễn, hoặc tạm thời không phát tác, đến khi cung Mệnh của đại hạn hoặc lưu niên gặp Hồng loan, Thiên Hỷ, lại có thêm lưu Sát tinh xung hội thì mới phát bệnh.
Thí dụ kể trên có thể biết, dựa vào các sao để luận đoán tật bệnh là rất khó. Trung Châu phái chỉ trình bầy một số kinh nghiệm bí truyền và nghiên cứu của Vương Đình Chi về tính chất các tinh hệ trong vấn đề bệnh tật và tai ách, khi nghiên cứu nên vận dụng linh hoạt, không nên quá câu nệ. Có lúc phải mang các sao của cung Mệnh và cung Tật ách, cùng với các sao hội hợp ở tam phương tứ chính ra đồng thời tham chiếu, thậm chí còn phải mang “Lưu diệu” của đại hạn hoặc lưu niên ra phối hợp để luận đoán, mới có thể chính xác.
Ví dụ trường hợp xem bệnh ung thư vòm họng, tinh hệ chủ yếu vẫn là “Liêm Trinh Thất Sát”, hành vận đến cung hạn Thiên đồng và Cự Môn đối nhau, nếu đại hạn có các sao Sát Kị cùng chiếu, mà còn gặp Long trì đồng độ hoặc xung chiếu cung Mệnh, còn “Liêm Trinh Thất Sát” lại hội hợp với Hỏa tinh Linh tinh, hoặc Thiên hình, thì trong đại hạn này sẽ phát bệnh. Lấy trường hợp này làm ví dụ, để người nghiên cứu có thể thấy được phần nào phép tắc luận đoán bệnh tật.
Dùng Đẩu Số luận bệnh tật hoàn toàn lấy nguyên lý Âm Dương Ngũ hành của Đông y làm căn cứ, cho nên rất khó luận đoán kết hợp với tên gọi các bệnh theo Y học hiện đại.
Tật ách là kho tích tụ những nghiệp xấu. Tật ách tiêu biểu cho tính tình tiềm táng kín đáo và cho những tham vọng của đương số.
Mệnh Thân sinh phù tật ách là mọi sự tai ương xảy ra là do mình tạo nghiệp xấu.
Tật ách sinh phù Mệnh Thân là mình phải gánh chịu những nghiệp xấu do mình tạo ra từ kiếp trước truyền sang kiếp này và cả nghiệp xấu do tiền nhân để lại.
Tật ách là cường cung, là Mệnh chủ của mình khi về già.
Cung Phúc có thể giúp ta thoát được hay giải được bệnh tật tai hoạ. Mệnh Thân Phúc tốt có thể cứu giải bệnh tật, họa, nhưng nếu ách xấu quá thì Mệnh Thân Phúc cũng bất lực nhất là khi lớn tuổi, sức cứu giải của Mệnh Thân Phúc yếu dần.
Cung Phúc như rễ cây, Mệnh như thân cây, Thân như cành cây, lá cây và hoa quả. Ách như sâu mọt, tỳ vết, dị vật. Rễ thân cành lá không bền vững thì cây phải chết. Cây chết vào thời điểm nào là do vận hạn đến năm tháng ngày giờ xấu nhất của đương số.
Mệnh Thân Phúc Ách đều có ít nhiều sao dự báo bệnh tật tai họa, chờ đến khi đại tiểu hạn xấu có nhiều hung ác sát hao phá bại – Ám tinh mới phát động. Bệnh, Hạn ở Mệnh Thân Ách phát động thì chỉ đương số gánh chịu, nhưng Bệnh , Hạn ỏ cung Phúc phát động thì đương số và vợ con, cha mẹ, anh chị em và có thể cả dòng họ phải gánh chịu.
Tật ách có Tử, Phủ, Vũ , Tướng, Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương, Cự, Nhật dự báo các bệnh về nội thương, các bện gậm nhấm bộ tiêu hoá.
Tật ách có Sát, Phá , Liêm, Tham dự báo các bệnh về ngoại thương, các tai họa sát phạt mau chóng, phải cần nhiều sao cứu giải để qua khỏi.
“Tam phương tứ chính” của cung tật ách là cung phụ mẫu, cung huynh đệ và cung điền trạch. Tổ hợp tinh hệ này là do trong chế độ gia đình, bệnh tật rất dễ lây nhiễm, thêm vào đó, ở xã hội phong kiến cổ đại, thành viên của gia tộc mà phạm tội thường thường có thể liên luỵ đến người thân, vì vậy tổ hợp tam phương tứ chính này có một ý nghĩa đặc thù.
Hoàn cảnh xã hội hiện tại tuy đã biến đổi, nhưng cung tật ách hợp với cung phụ mẫu dùng để xem bệnh di truyền, và hội hợp với cung điền trạch để xem trạng thái sức khoẻ của các thành viên trong gia đình. Thậm chí quanSát tinh hệ ở các cung hội hợp với cung huynh đệ để xem đời người có hung ách hay không, theo kinh nghiệm của Vương Đình Chi vẫn hữu hiệu.
Cung tật ách chủ về bệnh tật và tai ách, nhưng liên quan đến vấn đề có tai ách xảy ra hay không, cung tật ách thực ra chỉ có thể dùng để tham khảo. Bởi vì khi luận đoán tai ách thường thường phải phối hợp thêm tổ hợp của cung mệnh, hơn là dùng trực tiếp tinh hệ của cung tật ách, còn đối với việc luận đoán bệnh tật thì nên xem xét cả tinh hệ của cung mệnh lẫn tinh hệ của cung tật ách, hai cung đều quan trọng ngang nhau. Ví dụ “Liêm Trinh,Thất Sát” thông thường chủ về bệnh đường hô hấp, nếu cung tật ách gặp nó, đương nhiên là có ý nghĩa này, nhưng nếu cung tật ách gặp sao ác, mà cung mệnh là “Liêm Trinh, Thất Sát”, thì cũng chủ về bệnh đường hô hấp.
Có lúc thậm chí phải lấy tinh hệ của cung mệnh và tinh hệ của cung tật ách phối hợp lại để luận đoán một loại bệnh tật. Ví dụ như cung tật ách gặp “Liêm Trinh, Thất Sát”, có Sát tinh hội chiếu, cung mệnh gặp Hồng Loan và Thiên Hỉ, theo Vương Đình Chi, có thể phát hen suyễn, hoặc tạm thời không phát tán, đến khi cung mệnh của đại hạn hoặc lưu niên gặp Hồng Loan, Thiên Hỉ, lại có thêm lưu Sát tinh xung hội thì mới phát bệnh.
Từ ví dụ kể trên có thể biết, dựa vào các sao để luận đoán tật bệnh là rất khó. Tiết này trình bày một số kinh nghiệm bí truyền và nghiên cứu của Vương Đình Chi về tính chất các tinh hệ trong vấn đề bệnh tật và tai ách, nhưng bạn đọc vẫn nên vận dụng một cách linh hoạt, không được câu nệ. Có lúc phải mang các sao của cung mệnh và cung tật ách cùng với các sao hội hợp ở tam phương tứ chính ra đồng thời tham chiếu, thậm chí còn phải mang “lưu diệu” của đại hạn và lưu niên ra phối hợp để luận đoán, mới có thể chính xác.
Ví dụ trường hợp xem bệnh ung thư mũi họng, tinh hệ chủ yếu vẫn là “Liêm Trinh, Thất Sát”, hành vận đến cung hạn Thiên Đồng và Cự Môn đối nhau, nếu đại hạn có các sao Sát tinh, kỵ cùng chiếu, mà còn gặp Long Trì đồng độ hoặc xung chiếu cung mệnh, còn “Liêm Trinh, Thất Sát” lại hội hợp với Hoả Tinh, Linh Tinh hoặc Thiên Hình, thì trong đại hạn này sẽ phát bệnh.
Lấy trường hợp trên làm ví dụ, bạn đọc có thể thấy được phần nào phép luận đoán tật bệnh.
Dùng Đẩu Số luận đoán tật bệnh, hoàn toàn lấy nguyên lý ngũ hành âm dương của Đông y làm căn cứ, cho nên rất khó luận đoán kết hợp với tên gọi các bệnh theo y học hiện đại. Dưới đây xin trình bày một số nghiên cứu đối chiếu của Vương Đình Chi.
Liên quan đến tri thức về nguyên lý ngũ hành sinh khắc và ngũ tạng lục phủ, xin giới thiệu như sau:
“Tâm” (tim) thuộc hoả, “tiểu trường” (ruột non) cũng thuộc hoả; hoả cũng là hệ tuần hoàn và hệ thần kinh; ở ngũ quan là lưỡi.
“Can” (gan) thuộc mộc, “đảm” (mật) cũng thuộc mộc; mộc cũng là hệ nội tiết; ở ngũ quan là mắt.
“Tì” (tuyến tuỵ, lá lách) thuộc thổ, “vị” (dạ dày) cũng thuộc thổ; thổ cũng là hệ tiêu hoá; ở ngũ quan là miệng.
“Phế” (phổi) thuộc kim, “đại trường” (ruột già) cũng thuộc kim; kim cũng là hệ hô hấp; ở ngũ quan là mũi.
“Thận” thuộc thuỷ, bàng quang cũng thuộc thuỷ; thuỷ cũng là hệ thống bài tiết và cơ quan sinh dục; ở ngũ quan là tai.
Căn cứ ngũ hành sở thuộc này, đương nhiên có thể biết bệnh ở đâu, như gặp Vũ Khúc ở cung tật ách, có Sát tinh, vì Vũ Khúc thuộc âm kim, chủ về âm kim bị tổn thương, cho nên bệnh ở phế hoặc đại trường; nhưng vì cớ kim khắc mộc, nếu Vũ Khúc hội hợp với các sao quá mạnh, như Hoá Lộc, Hoá Quyền, Hoá Khoa và các sao cát, thì kim thịnh sẽ làm tổn thương mộc, có khả năng gan, mật, mắt sẽ mắc bệnh, do đó cũng có thể bị mắt vàng, viêm gan, v.v… Nếu cung mệnh gặp các sao sát, hình, kỵ thì có thể căn cứ vào đây mà suy ra để định.
Căn cứ nguyên lý ngũ hành tương khắc, có thể biết một số quy luật cơ bản để xem về tật bệnh:
Hoả bị thuỷ khắc, thuỷ quá mạnh, chủ về các bệnh ở tim và ruột non, hệ tuần hoàn và hệ thần kinh, hoặc đầu lưỡi và khoang miệng.
Mộc bị kim khắc, kim quá mạnh, chủ về các bệnh ở gan mật, hệ nội tiết, hoặc mắt.
Thổ bị mộc khắc, mộc quá mạnh, chủ về các bệnh ở dạ dày, tuyếb tuỵ, hệ tiêu hoá, hoặc khoang miệng.
Kim bị hoả khắc, hoả quá mạnh, chủ về các bệnh ở phổi và ruột già, hệ hô hấp, hoặc xoang mũi, khí quản.
Thuỷ bị thổ khắc, thổ quá mạnh, chủ về các bệnh ở thận và bàng quang, hệ bài tiết, hoặc khoang tai trong, tai ngoài.
Ngoài ra còn có thuyết “Mẹ nuông chìu quá thì con hư” (mẫu từ diệt tử), như hoả quá thịnh, hoả tuy sinh thổ, nhưng sinh thái quá thì trái lại sẽ làm thổ bệnh. Vì vậy, căn cứ vào thuyết này lại có thể định ra một số nguyên tắc như sau:
Hoả được mộc sinh, sinh thái quá thì hoả bệnh, như bệnh tim.
Mộc được thuỷ sinh, sinh thái quá thì mộc bệnh, như bệnh gan.
Thổ được hoả sinh, sinh thái quá thì thổ bệnh, như bệnh dạ dày.
Kim được thổ sinh, sinh thái quá thì kim bệnh, như bệnh phổi.
Thuỷ được kim sinh, sinh thái quá thì thuỷ bệnh, như bệnh thận.
Do đó, có thể thấy, dựa vào các sao để luận đoán tật bệnh là rất khó khăn, đòi hỏi phải có một số kinh nghiệm. Nhưng có một nguyên tắc chung là, gặp các sao ở cung tật ách trước tiên phải xét về âm dương ngũ hành của nó, như kim yếu, thì trước tiên phải nghi là kim bị bệnh; nếu kim mạnh thì phải nghi hành nó khắc là mộc bị bệnh; nếu sao kim quá mạnh thì phải nghi thuỷ bị bệnh.
Dưới đây xin liệt kê một số chứng bệnh chủ yếu của các sao theo nguyên lý âm dương ngũ hành để bạn đọc tham khảo.
Tử Vi là âm thổ, chủ về bệnh tì vị (dạ dày, tuyến tuỵ), bệnh cơ quan tiêu hoá.
Thiên Cơ là âm mộc, chủ về bệnh gan mật (can, đảm), bệnh hệ nội tiết.
Thái Dương là dương hoả, chủ về bệnh tim (tâm), mắt, hệ tuần hoàn và hệ thần kinh.
Vũ Khúc là âm kim, chủ về bệnh phổi, khí quản, hệ hô hấp.
Thiên Đồng là dương thuỷ, chủ về bệnh bàng quang, hệ bài tiết.
Liêm Trinh là âm hoả, chủ về bệnh tâm hoả, phụ khoa, hệ tuần hoàn.
Thiên Phủ là dương thổ, chủ về bệnh dạ dày, khoang miệng.
Thái Âm là âm thuỷ, chủ về bệnh âm hư, thận, hệ cơ quan sinh dục.
Tham Lang là dương mộc, chủ về gan mật, hệ nội tiết.
Cợ Môn là âm thổ, chủ về bệnh tuyến tuỵ (tì).
Thiên Tướng là dương thuỷ, chủ về bệnh ở mật, hoặc bệnh hệ bài tiết.
Thiên Lương là dương thổ, chủ về bệnh dạ dày, tuyến vú.
Thất Sát là âm kim, chủ về bệnh hệ hô hấp.
Phá Quân là âm thuỷ, chủ về bệnh âm hư và hê cơ quan sinh dục.
Tả Phụ là dương thổ, chủ về bệnh thống phong (gout).
Hữu Bật là âm thuỷ, chủ về bệnh thận yếu.
Văn Xương là dương kim, chủ về bệnh đại trường và tam tiêu.
Văn Khúc là âm thuỷ, chủ về bệnh ban đỏ, đường sinh dục.
Thiên Khôi là dương hoả, chủ về bệnh ở kinh dương minh.
Thiên Việt là âm hoả, chủ về bệnh viêm.
Lộc Tồn là âm thổ, chủ về bệnh tì vị.
Thiên Mã là dương hoả, chủ về bệnh dịch, huyết không nuôi được gân (cân), thấp hoả lưu ở gân (cân).
Kình Dương là dương kim, chủ về bệnh đại trường, bị côn trùng cắn, ngoại thương.
Đà La là âm kim, chủ về bệnh phổi, ngoại thương.
Hoả Tinh là dương hoả, chủ về bệnh thấp hoả, vết thương làm độc, u nhọt.
Linh Tinh là âm hoả, chủ về bệnh hư hoả bốc lên.
Địa Không là âm hoả, chủ về bệnh huyết hư, huyết áp thấp.
Địa Kiếp là dương hoả, chủ về đau dạ dày.
Hoá Lộc là âm thổ, chủ về bệnh tì vị.
Hoá Quyền là dương mộc, chủ về bệnh gan mật, hệ nội tiết.
Hoá Khoa là dương thuỷ, chủ về bệnh thận hư.
Hoá Kỵ là dương thuỷ, chủ về bệnh hệ cơ quan sinh dục, cũng chủ về chứng sưng tuyến tuỵ, chứng “khí phận bất hành”.
Thiên Thương là dương thuỷ, chủ về bệnh di tinh, bệnh lao.
Thiên Sứ là âm thuỷ, chủ về bệnh rối loạn nhịp tim, bệnh phụ khoa.
Thiên Hình là dương hoả, chủ về bệnh tim, còn chủ về bệnh dịch, ngoại thương.
Thiên Diêu là âm thuỷ, chủ về bệnh âm hư, bệnh bàng quang, bệnh hệ cơ quan sinh dục.
Thiên Khốc là dương kim, chủ về bệnh lao, ho dai dẳng.
Thiên Hư là âm thổ, chủ về bệnh hư tổn, phụ nữ âm hư.
Hồng Loan là âm thuỷ, chủ về bệnh thận hàn, thận hư, bệnh kín của phụ nữ.
Thiên Hỉ là dương thuỷ, chủ về bệnh thận, bệnh tử cung.
Tam Thai là dương thổ, chủ về bệnh rối loạn tiêu hoá, mụn trứng cá.
Bát Toạ là âm thổ, chủ về vì dinh dưỡng quá dư dẫn đến các bệnh béo phì, mỡ máu cao.
Long Trì là dương thuỷ, chủ về bệnh ở tai, tai điếc, tai ù.
Phượng Các là dương thổ, chủ về bệnh tàn nhang, bệnh béo phì.
Thiên Tài là âm mộc, chủ về bệnh nội tiết.
Thiên Thọ là dương thổ, chủ về bệnh cơ quan tiêu hoá.
Thiên Quan là dương thổ, chủ về bệnh ngoài da, bệnh thấp khí, rối loạn tiêu hoá.
Thiên Phúc là dương thổ, chủ về bệnh tì vị.
Ân Quang là dương hoả, chủ về bệnh kinh dương minh, hư hoả.
Thiên Quý là dương thổ, chủ về bệnh tì vị, rối loạn tiêu hoá.
Thai Phụ là dương thổ, chủ về bệnh tì vị.
Phong Cáo là âm thổ, chủ về bệnh đường ăn uống.
Cô Thần là dương hoả, chủ về bệnh nhiệt, huyết áp cao.
Quả Tú là âm hoả, chủ về chứng phong.
(Dẫn theo trang hoc-tuvi.blogspot.com)