Chương 31: Quẻ TRẠCH PHONG ĐẠI QUÁ
64 quẻ dịch lấy từ cuốn “Kinh Dịch – Đạo Của Người Quân Tử” của học giả Nguyễn Hiến Lê.
64 quẻ dịch lấy từ cuốn “Dịch Kinh Đại Toàn” của Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê.
64 quẻ dịch lấy từ cuốn “Bát Tự Hà Lạc – Lược Khảo” của Học Năng.
“Kinh Dịch – Đạo Của Người Quân Tử” của học giả Nguyễn Hiến Lê.
:||||: Trạch Phong Đại Quá (大過 dà guò)
Quẻ Trạch Phong Đại Quá, đồ hình :||||: còn gọi là quẻ Đại Quá (大過 da4 guo4), là quẻ thứ 28 trong Kinh Dịch.
* Nội quái là ☴ (:|| 巽 xun4) Tốn hay Gió (風).
* Ngoại quái là ☱ (||: 兌 dui4) Đoài hay Đầm (澤).
Giải nghĩa: Họa dã. Cả quá. Cả quá ắt tai họa, quá mực thường, quá nhiều, giàu cương nghị ở trong. Nộn thảo kinh sương chi tượng: tượng cỏ non bị sương tuyết.
Tự quái truyện giảng rất mù mờ, “Di là nuôi, không nuôi thì không thể động (bất dưỡng tức bất động) (?) cho nên sau quẻ Di đến quẻ Đại quá (lớn quá) “Phan Bội Châu giảng: “Có nuôi rồi sau mới có việc lớn quá”
Chúng tôi nghĩ có thể giảng: Có bồi dưỡng tài đức thì sau mới làm được việc lớn quá (rất lớn), phi thường.
Chữ “đại quá” có hai cách hiểu: Phần dương trong quẻ tới 4 (phần âm chỉ có hai) mà dương có nghĩa là lớn (âm là nhỏ); vậy đại quá có nghĩa là phần dương nhiều quá; – nghĩa nữa là (đạo đức công nghiệp) lớn quá.
Thoán từ
大過: 棟撓, 利有攸往, 亨.
Đại quá: đống nạo, lợi hữu du vãng, hanh.
Dịch: (Phần dương ) nhiều quá (phần âm ít quá) như cái cột yếu, cong xuống (chống không nổi). Trên di thì lợi, được hanh thông.
Giảng: Nhìn hình của quẻ, bốn hào dương ở giữa, 2 hào âm hai đầu, như cây cột, khúc giữa lớn quá, ngọn và chân nhỏ quá, chống không nổi, phải cong đi.
Tuy vậy, hai hào dương 2 và 5 đều đắc trung, thế là cương mà vẫn trung; lại thêm quẻ Tốn ở dưới có nghĩa là thuận, quẻ Đoài ở trên có nghĩa là hòa, vui, thế là hòa thuận, vui vẻ làm việc, cho nên bảo là tiến đi (hành động) thì được hanh thông.
Đại tượng truyện bàn rộng: Đoài là chằm ở trên, Tốn là cây ở dưới, có nghĩa nước lớn quá, ngập cây. Người quân tử trong quẻ này phải có đức độ, hành vi hơn người, cứ việc gì hợp đạo thì làm, dù một mình đứng riêng, trái với thiên hạ, cũng không sợ (độc lập bất cụ); nếu là việc không hợp đạo thì không thèm làm, dù phải trốn đời, cũng không buồn (độn thế vô muộn).
Hào từ
1. 初六: 藉用白茅, 无咎.
Sơ lục: Tạ dụng bạch mao, vô cữu.
Dịch: Hào 1, âm: Lót (vật gì) bằng cây cỏ mao trắng, không có lỗi.
Theo Hệ tự thượng truyện Chương VIII, Khổng tử bàn về quẻ này: “Nếu đặt vật gì xuống đất cũng được rồi mà lại còn dùng cỏ mao trắng để lót thì còn sợ gì đổ bể nữa? Như vậy là rất cẩn thận”.
2. 九二: 枯楊生稊, 老夫得其女妻, 无不利.
Cửu nhị: Khô dương sinh đề, lão phu đắc kì nữ thê, vô bất lợi.
Dịch: Hào 2, dương : cây dương khô đâm rễ mới, đàn ông già cưới được vợ trẻ, không gì là không lợi.
Giảng: Dương cương mà ở vị âm (hào 2), như vậy là cương mà có chút nhu, lại đắc trung. Nó thân cận với hào 1 âm, thế là cương nhu tương tế, bớt cứng đi, như cây khô mà đâm rễ mới, rồi cành là sẽ tươi tốt. Có thể ví với một người già cưới được vợ trẻ. . .
3. 九三: 棟橈, 凶.
Cửu tam: Đống nạo, hung.
Dịch: Hào ba, dương: cái cột cong xuống, xấu.
Giảng: Hào 3 dương ở vị dương, thế là quá cương, định làm công việc lớn quá (thời Đại quá), quá cương thì cong xuống, gẫy, việc sẽ hỏng.
Chúng ta để ý: Thoán từ nói về nghĩa toàn quẻ, nên dùng hai chữ “đống nạo” mà vẫn khen là tốt (lí do đã giảng ở trên). Còn Hào từ xét riêng ý nghĩa hào 3, chê là xấu, vì hào này quá cương, mặc dầu ứng với hào trên cùng (âm nhu), cũng không chịu để hào đó giúp mình.
4. 九四: 棟隆, 吉.有它, 吝.
Cửu tứ: Đống long, cát. Hữu tha, lận.
Dịch: Hào 4, dương : như cây cột lớn, vững , tốt. Nếu có ý nghĩa gì khác thì hối tiếc.
Giảng: cũng là hào dương nhưng ở vị âm (4), vừa cương vừa nhu, như cái cột lớn vững đỡ nổi nhà. Ý nói làm được việc lớn, không lo thất bại.
Nó lại ứng hợp với hào 1 âm, tiểu nhân ở dưới, như vậy e nó quá nhu chăng, cho nên Hào từ khuyên: chớ quyến luyến quá với 1, có ý nghĩ khác, mà đáng xấu đấy.
5. 九五: 枯楊生華, 老婦得其士夫, 无咎, 无譽.
Cửu ngũ: Khô dương sinh hoa, lão phụ đắc kì sĩ phu, vô cữu, vô dự.
Dịch: Hào 5, dương : Cây dương khô ra hoa, bà già có chồng trai tráng, không chê cũng không khen.
Giảng: Hào 5, dương cương, trung chính. Ở ngôi chí tôn, đáng lẽ làm được việc rất lớn, nhưng ở thời đại quá, thì quá cương, quá cương mà ở gần hào trên cùng, âm ở âm vị, là một người quá nhu, không giúp nhau được việc gì, cũng như cây dương đã khô mà ra hoa cuối mùa, sắp tiều tụy đến nơi rồi. Không khác gì bà già mà có chồng trai tráng, chẳng mong gì sinh đẻ nữa.
Hào này khác với hào 2 ở chỗ hào 2 vừa cương vừa nhu, nên tốt, ví với cây dương khô đâm rễ mới; hào 5 thì quá cương, xấu, ví với cây dương khô, không dâm rễ mà ra hoa, nhựa sắp kiệt rồi.
6. 上六: 過涉, 滅頂, 凶, 无咎.
Thượng lục: quá thiệp, diệt đính, hung, vô cữu.
Dịch: Hào trên cùng, âm. Lội qua chỗ nước sâu, nước ngập đầu, xấu: nhưng không có lỗi.
Giảng: Bản chất âm nhu, tài hèn mà ở vào cuối thời Đại quá muốn làm việc lớn thì rất nguy thân, như người lội chỗ nước sâu lút đầu. Nhưng làm công việc nguy hiểm đó để cứu đời, cho nên không gọi là có lỗi được. Hào này trỏ hạng người “sát thân di thành nhân” (tự hi sinh để làm nên điều nhân), đáng phục chớ không chê được.
Tên quẻ là Đại quá (lớn quá), mà Hào từ lại ghét những người quá cương, (hào 3, 5) quá nhu như hào trên cùng tuy không có lỗi, nhưng cũng cho là xấu. Vây Kinh Dịch có ý trọng đức trung (vừa cương vừa nhu) hơn cả.
“Dịch Kinh Đại Toàn” của Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê.
28. 澤 風 大 過 Trạch Phong Đại Quá
Đại Quá Tự Quái | 大 過 序 卦 |
Di giả dưỡng dã. | 頤 者 養 也 |
Bất dưỡng tắc bất khả động. | 不 養 則 不 可 動 |
Cố thụ chi dĩ Đại Quá. | 故 受 之 以 大 過 |
Đại Quá Tự Quái
Di là di dưỡng muôn loài trước sau,
Có nuôi, chuyển động mới mầu.
Cho nên Đại Quá, lẽ âu tiếp vào.
Đại Quá là quẻ có 4 Hào Dương bên trong, còn Sơ và Thượng là Âm. Dương quá nhiều hơn Âm, mà Dương là Đại, nên gọi Đại Quá.
Vì vậy, Đại Quá là thời kỳ Quân tử mạnh hơn Tiểu nhân. Nhưng Đại Quá, vì trên dưới là hào Âm cả, nên ví như cái cột mà trên, dưới 2 đầu đã yếu, đã oẻ, khó lòng đứng vững, hay như một cái cây đã khô, vì sinh lực không còn ở gốc, hay ở ngọn nữa. Như vậy Đại Quá chính là một trường hợp khẩn trương phi thường, cần phải có người tài đức phi thường, làm những công chuyện phi thường mới cứu vãn nổi.
Vì thế Đại Quá vừa là phi thường chi thế, vừa là phi thường chi nhân, chi sự. Đại Quá là quá cương, nên trong quẻ bàn rằng: muốn làm nên đại công, đại nghiệp, thời cương là hay, nhưng quá cương đến mức quá tự tín, quá khinh thường, khinh thị là dở, phải cẩn trọng mới nên công.
Cương quá mức, làm vượt quá thời, hoạt động mà đến phải rơi xuống hồ (Đại Quá, trên có Đoài là Hồ, dưới có Tốn = Nhập = rơi vào). Tuy là những người phi phàm, có tư cách xuất chúng, nhưng đời thường chẳng dung! Cho nên phải biết cẩn thận, lo lắng, đề phòng, xét mình sửa sai, thì mới có thể đáp ứng được Thiên Mệnh.
Hào Âm mà ở vị âm là quá Nhu.
Hào Dương mà ở vị Dương, là quá Cương, không hay. (Âm hào ở Dương vị, Dương hào ở Âm vị mới tốt.) Thế là dạy con người phải biết lúc Cương, lúc Nhu, lúc Tiến, lúc Thoái, chứ đừng khăng khăng một mực.
I. Thoán.
Thoán Từ.
大 過 . 棟 橈 . 利 有 攸 往 . 亨 .
Đại Quá. Đống nạo. Lợi hữu du vãng. Hanh.
Dịch.
Đại Quá là cột yếu chân.
Hiền nhân thịnh đạt, tiểu nhân suy tàn.
Công trình hãy liệu tính toan,
Mưu cầu, rồi sẽ đường hoàng, hanh thông.
Đại Quá là thời quân tử thịnh, tiểu nhân suy, vì vậy đó chính là lúc để làm những đại công, đại nghiệp (Lợi hữu du vãng. Hanh).
Thoán Truyện.
彖 曰 : 大 過 . 大 者 過 也 . 棟 橈 . 本 末 弱也 . 剛 過 而 中 . 巽 而 說 行 . 利 有 攸 往 . 乃 亨 . 大 過 之 時 大 矣 哉.
Thoán viết.
Đại Quá. Đại giả quá dã. Đống nạo. Bản mạt nhược dã. Cương quá nhi trung. Tốn nhi duyệt hành. Lợi hữu du vãng. Nãi hanh. Đại quá chi thời đại hĩ tai.
Dịch.
Đại Quá, ấy là to lớn quá,
Cột đã cong, thượng hạ yếu mềm.
Cương cường, nhưng vẫn chính chuyên.
Dịu dàng, vui vẻ, hóa nên công trình,
Cứ hăng hái, tiến hành công tác.
Sẽ có ngày hoan lạc, hanh thông,
Muốn làm đại sự, đại công,
Gặp thời, gặp vận, mới mong như nguyền.
Đại Quá vì Sơ, Thượng là Âm, mà bốn hào giữa là Dương, tượng như cây cột mà trên, dưới yếu, ở giữa lại cứng, nên không thể đứng thẳng, mà sẽ oẻ, sẽ cong, vì thế nói: Đống nạo. Bản mạt nhược dã. Tuy Dương cương quá thịnh, nhưng Nhị, Ngũ đều đắc trung (Cương quá nhi trung). Đại Quá có Tốn ở dưới là Tốn thuận (Tốn nhi duyệt hành), trên có Đoài là hòa duyệt, thời làm công chuyện sẽ đi đến hanh thông (Lợi hữu du vãng. Nãi hanh).
Nói cách khác, phàm làm đại công, đại sự, tuy phải cương quyết, nhưng cũng phải hết sức khéo léo, xử sao cho vừa ý, đẹp lòng mọi người, mới dễ nên công. Thời Đại Quá thật là một thời buổi phi thường, nó đòi hỏi những nhân vật phi thường lỗi lạc, những công chuyện phi thường (Đại Quá chi thời đại hĩ tai). Xưa, nay đã có bao chuyện phi thường:
* Nghiêu truyền ngôi cho Thuấn, thay vì cho con là phi thường
* Đức Trần Hưng Đạo đã 3 lần diệt quân Nguyên là một nhân vật phi thường, đã làm nên công chuyện phi thường.
* Thám hiểm trên Cung trăng là công chuyện phi thường của ngày nay vậy.
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 : 澤 滅 木 . 大 過 . 君 子 以 獨 立 不 懼 . 遯 世 無 悶 .
Tượng viết: Trạch diệt mộc. Đại Quá. Quân tử dĩ độc lập bất cụ. Độn thế vô muộn.
Dịch.
Tượng rằng: Hồ ngập lút cây,
Ấy là câu chuyện xưa nay phi thường.
Nên người quân tử xem gương,
Hiên ngang, độc lập, đường đường, sợ chi.
Dẫu rằng chẳng tiếng tăm gì,
Sống đời ẩn dật, chẳng khi phiền sầu.
Tượng Truyện bình luận thẳng về những bậc hiền tài, phi phàm, thoát tục, và cho rằng những bậc phi phàm, phải sống cuộc đời phi phàm, phải vượt trổi chúng nhân, đừng có lo âu, sợ hãi, buồn phiền. Vì những người tầm thường, làm sao hiểu được những bậc phi thường trong trần thế.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
1. 初 六 : 藉 用 白 茅 . 無 咎 .
象 曰 : 藉 用 白 茅 . 柔 在 下 也 .
Hào Sơ Lục.
Sơ Lục. Tạ dụng bạch mao. Vô cữu.
Tượng viết: Tạ dụng bạch mao. Nhu tại hạ dã.
Dịch. Sơ Lục.
Cỏ tranh dùng để lót đồ,
Một niềm thận trọng, khỏi lo lỗi lầm.
Tượng rằng:
Cỏ tranh dùng để lót đồ,
Vì còn thấp kém, nên lo lỗi lầm.
Hào Sơ dạy bài học cẩn trọng, cỏ gianh tuy hèn, nếu biết dùng để lót, để trải dưới đất, cho đồ quí khỏi hư, thì lỗi chi đâu.
2. 九 二 : 枯 楊 生梯 . 老 夫 得 其女 妻 . 無 不 利 .
象 曰 : 老 夫 女 妻 . 過 以 相 與 也 .
Hào Lục nhị.
Lục nhị. Khô dương sinh đề. Lão phu đắc kỳ nữ thê. Vô bất lợi.
Tượng viết: Lão phu nữ thê. Quá dĩ tương dự dã.
Dịch. Cửu nhị.
Dương khô, mà rễ lại sinh,
Ông già, mà lại được tình gái tơ.
Âm Dương, tương tế, tương phò.
Làm gì mà chẳng hay ho, chu toàn.
Tượng rằng:
Ông già, mà lấy gái tơ,
Thế thời khắng khít quá đa còn gì.
Hào hai là Dương cư Âm vị, thế tức là Cương, Nhu tương tế, là đắc trung, dụng nhu. Hào 2 là Dương, mà kế với Hào Sơ là Nhu, y như ông già mà lấy được bà vợ trẻ, có khác nào cây Dương đương khô, mà tự nhiên lại sinh rễ, lại sống động lại. Ý muốn nói: Phàm làm đại công, đại sự, mà biết Cương, biết Nhu, biết tiến, biết thoái, cho khéo léo, lại biết dùng những người dưới, thì có thể canh tân được thế cuộc.
3. 九 三 : 棟 橈 . 凶 .
象 曰 : 棟 橈 之 凶 . 不 可 以 有 輔 也 .
Hào Cửu tam.
Cửu tam. Đống nạo. Hung.
Tượng viết: Đống nạo chi hung. Bất khả dĩ hữu phụ dã.
Dịch.
Cột nhà mà oẻ cái chân.
Oẻ chân thì chắc nhiều phần chẳng hay.
Tượng rằng:
Cột nhà chân chẳng ra chi,
Làm sao có kẻ hộ trì giúp công.
Hào tam đã Cương mà lại ở vị Dương, thế là quá Cương. Hào này là hào cuối của quẻ Tốn, mà Tốn có hào Sơ là Âm, y như cây cột bị ỏe chân (Đống nạo. Hung).
Quá Cương, quá tự phụ, không coi ai ra gì, thì làm sao mà có người cộng tác, như vậy sẽ như cây cột bị oẻ chân, sẽ làm cho cả tòa nhà bị sụp đổ, đại cuộc sụp đổ (Đống nạo chi hung. Bất khả dĩ hữu phụ dã).
4. 九 四 . 棟 隆 . 吉 . 有 它 吝 .
象曰 . 棟 隆 之 吉 . 不 橈 乎 下 也 .
Hào Cửu tứ.
Cửu tứ. Đống long. Cát. Hữu tha lận.
Tượng viết: Đống long chi cát. Bất nạo hồ hạ dã.
Dịch.
Cột cao thời tốt, thời hay,
Sinh lòng kia khác, tiếc thay sự tình.
Tượng viết:
Cột cao mà tốt, mà hay.
Là vì chân chẳng lung lay, oẻ mềm.
Cửu tứ là Dương Cương, mà lại cư Âm, thế nên không quá Cương, lại là Hào dưới cùng của quẻ Đoài. Mà Đoài có 2 hào dưới Dương, hào trên Âm, tức là dưới thực, trên hư, dưới chắc, trên yếu. Vì thế, Cửu tứ gợi lên một cây cột vững vàng (Đống long cát). Mình đã vững, đã có thanh thế, đã khéo xử sự, thì đừng có hệ lụy tiểu nhân nữa, kẻo sẽ bị chê cười. Hào tứ nói: Hữu tha lận, là chớ nên bịn rịn với Sơ, mà sinh lòng kia khác, ví dụ như để củng cố địa vị, mưu cầu tư lợi, như thế sẽ bị chê cười.
5. 九 五 . 枯 楊 生 華 . 老 婦 得 士 夫 . 無 咎 無 譽 .
象 曰 . 枯 楊 生 華 . 何 可 久 也 . 老 婦 士 夫 . 亦 可 丑 也 .
Hào Cửu ngũ.
Cửu ngũ. Khô Dương sinh hoa. Lão phụ đắc kỳ sĩ phu. Vô cữu vô dự.
Tượng viết: Khô Dương sinh hoa. Hà khả cửu dã. Lão phụ sĩ phu. Diệc khả xú dã.
Dịch Cửu ngũ.
Dương khô mà lại trổ hoa,
Bà già mà lại được chồng là con trai.
Chê bai, ai nỡ chê bai,
Nhưng mà danh giá, có đời nào đâu.
Tượng rằng:
Dương khô, mà lại trổ hoa,
Hoa kia hỏi được sẽ là bao lâu.
Vợ già, chồng trẻ hay đâu,
Chẳng qua, để hổ cho nhau bấy chầy.
Cửu ngũ là người có tài, có đức, muốn làm nên đại công, đại nghiệp, nhưng thay vì đi sát với quần chúng, lại lo cộng tác với những kẻ tiểu nhân, tuy có địa vị (thượng lục), nhưng không có thực tài, chỉ có hư danh. Như vậy có khác nào một cây Dương đã khô héo, lại còn trổ thêm một vài bông hoa (Khô Dương sinh hoa), hoa nở sẽ tàn đi, và lôi cuốn theo cả tàn lực của cây; cũng như chồng trẻ mà lấy phải vợ già, làm sao mà sinh con cái (Lão phụ đắc kỳ sĩ phu).
Họ không đáng chê, vì làm chính trị phải tìm vây cánh; nhưng cũng không đáng khen, vì cộng tác với những kẻ tiểu nhân hữu danh, vô thực, thời làm sao nên công (Vô cữu vô dự), nhưng chắc họ sẽ lấy làm tự hổ (Diệc khả xú dã).
6. 上 六 . 過 涉 滅 頂 . 凶 . 無 咎 .
象 曰 . 過 涉 之 凶 . 不 可 咎 也 .
Hào Thượng Lục.
Thượng Lục. Quá thiệp diệt đỉnh. Hung. Vô cữu.
Tượng viết: Quá thiệp chi hung. Bất khả cữu dã.
Dịch. Thượng Lục:
Quá sâu lội ngập cả đầu,
Việc đành rằng xấu, đừng sầu oán ai.
Tượng rằng:
Lội sâu, chìm nghỉm là hung,
Thôi đừng oán trách lung tung làm gì.
Hào Thượng Lục đã Nhu, mà lại ở Âm vị, là quá Nhu. Ở cuối quẻ Đại Quá là lúc khó khăn nhất, đòi hỏi một nhân tài phi thường. Nếu không tự lượng, mà cũng cứ ra tay gánh vác bừa, thì có khác nào lội nước quá sâu, ngập lút cả đầu đâu. Xưa nay, biết bao người có lòng tha thiết cứu đời, đã thật sự xả thân cứu đời, nhưng vì tài thô, trí thiển, không đủ kiến thức, mưu lược, kinh luân, nên đã bị ngọn trào lịch sử nhận chìm. Xét việc thành bại thật đáng buồn cho họ, nhưng xét về khí tiết của họ, thì nào có gì đáng chê trách họ đâu.
ÁP DỤNG QUẺ ĐẠI QUÁ VÀO THỜI ĐẠI
Thời đại nào cũng có những người phi phàm, có tài năng, tư cách xuất chúng, nhưng lại chỉ có một số rất ít (phải nói là quá ít), là thành công mà thôi. Tại sao vậy?
Tôi xin mạo muội mượn lời dạy của quẻ Đại Quá trên, mà phân tách: Yếu tố nào đã khiến những người có tài năng hơn người đó lại thất bại. Tôi xin đưa ra 2 trường hợp:
A) Người làm chính trị: Họ thất baị là vì có nhiều nguyên do:
1) Vì không có mục đích, môi trường, chủ trương chính đáng.
2) Vì yếu ớt, thiếu lực lượng thì chỉ có 2/10, mà thất bại vì nóng nảy, ương ngạnh, thì có đến 8/10. Những người này thường cho mình là chính nhân, quân tử, mà mọi người khác là Tiểu nhân, chỉ mình là hay, còn người khác là dở.
3) Làm gì cũng muốn thành công mau, kết quả vội. Vì thế bọn tiểu nhân dễ xu phụ, du nịnh, làm ra vẻ mặt phục tùng, theo ý thích của họ, làm cho họ trở nên cao ngạo. Họ làm công việc không suy tính, không dựa vào chúng dân, mà lại dựa vào những người hữu danh, vô thực, thì nếu may mắn mà được một chút như ý, thì thử hỏi: Hoa nở cành khô sống mấy mươi.
B. Người có tài năng thật sự: Như những nhà Bác Học, Khoa Học gia, Kỹ sư phát minh, hoặc những người không có bằng cấp ngoài đời, nhưng họ có tài năng, sáng kiến vượt bực.
1) Những nhà Bác Học, Khoa Học gia: những người này phần lớn được Chính Phủ giúp đỡ về mọi phương diện, nên khi tìm được cái gì, là được công bố kết quả, nên do đó danh vọng dễ lên, vì được nhiều người biết tiếng, tiền tài tương đối cũng khả quan
2) Những người giỏi, có tài năng, nhưng không có bằng cấp ngoài đời: Họ biết là họ không có bằng cấp, học lực bằng ai, vì thế họ không kiêu ngạo. Lúc đầu, họ mang hết tài năng, sáng kiến ra để làm những cái nho nhỏ, vừa đủ tài sức họ, sau khi đã thành công, họ mới phát triển lớn ra, và họ dùng tiền mướn những người kỹ sư giỏi về cộng tác, để kiếm tiền cho họ. Do đó số người này, về mặt kiếm tiền khá thành công, vì họ biết cách dùng người.
3) Những người có tài năng, bằng cấp, óc phát minh: Những người này là những người chịu thiệt thòi nhất, bị lớp người trên lợi dụng tài năng mình để kiếm tiền cho họ, và còn bị họ che dấu tài năng mình, và chỉ trả mình số lương tối thiểu, so với số lợi tức mà mình đã kiếm ra cho họ.
Tại sao, những người có tài năng lại bị bóc lột như vậy mà không biết giải quyết . Làm sao có thể giải quyết?
Theo thiển ý của tôi: Những người có thực tài, phải có quyết tâm phát triển tài mình một cách độc lập, nếu có thể nên có những ý kiến sau:
* Những người có tài, phải cộng tác với nhau thành một khối. Khối này sẽ do một vị anh minh, sáng suốt, có lòng vị tha, không cao ngạo đứng đầu, cùng với một bộ phận gồm nhiều người tài giỏi khác (được bầu) lãnh đạo. Những vị này, trừ vị chỉ huy lúc đầu là chủ tịch, còn chỉ được giữ chức vụ, lương bổng, trong nhiệm kỳ có giới hạn.
* Chính phủ phải nâng đỡ họ về mặt tài chính lúc đầu để họ và gia đình có đủ phương tiện sống, mà tiến hành công cuộc phát minh. Khi đã thành nếp, thì lương hướng của họ nhiều, ít sẽ tùy theo sự thành công của họ.
Thành công của họ phải được công bố trên báo chí, để khuyến khích họ và những người theo sau họ. Như vậy mới công bằng, và như vậy mới có sự cố gắng để tiến lên, và nhân tài mới có cơ phát triển.
Ước mong bài Áp dụng nhỏ bé này đến tay những ai có tài năng, óc độc lập, lòng cầu tiến, mà chưa đủ hùng tâm, can đảm tiến lên, thì hãy kêu gọi những người tài giỏi, đồng chí với mình đứng lên, mà thực hiện hoài bão, để tránh khỏi cảnh Người bóc lột người, và để người có tài năng có dịp thi thố đúng với khả năng của họ, thời kẻ viết bài này cũng đã mãn nguyện rồi.
“Bát Tự Hà Lạc – Lược Khảo” của Học Năng.
28.Trạch phong đại quá
Ðại cương:
Tên Quẻ: Đại Quá là Họa (hư hao, gian nan, lớn lao quá mức)
Thuộc tháng 2.
Lời tượng
Trạch diệt mộc: Đại Quá. Quân tử dĩ độc lập bất cụ, độn thế vô muộn.
Lược nghĩa
Nước đầm làm chết cây là quẻ Đại Quá. Người quân tử lấy đấy mà độc lập không sợ gì, ẩn cả đời không phiền muộn.
Hà Lạc giải đoán
Những tuổi Nạp Giáp:
Tân: Sửu, Hợi, Dậu.
Đinh: Hợi, Dậu, Mùi
Lại sanh tháng 2 là cách công danh phú quý.
THƠ RẰNG:
Tâm thừa, lực thiếu ngán không,
Gió xuân, chống gậy, khuây lòng câu ca.
Hào 1:
Tạ dụng bạch mao vô cữu. Ý hào: Kính thận để khỏi lầm lỗi.
MỆNH – HỢP – CÁCH: Cao khiết thanh liêm, được tin dũng hưởng phúc lâu bền.
MỆNH – KHÔNG – HỢP: Tính tham hư, ẩn nơi sơn lâm, đủ dùng không tham, nên không thất thố gì.
XEM – TUẾ – VẬN: _Quan chức: Cẩn thủ nên lộc vị bền. _Giới sĩ: Cẩn mật, siêu đức nghiệp. _Người thường: Kiệm ước đủ dùng, phòng có tang.
Hào 2:
Khô dương sinh đề, lão phu đắc kỳ thê, vô bất lợi. Ý hào: Dương được âm giúp.
MỆNH – HỢP – CÁCH: Cứu nguy dẹp loạn, lập công lớn.
MỆNH – KHÔNG – HỢP: Trước tân khổ, muộn tuổi mới vinh hoa, hoặc vợ trễ con trễ.
XEM – TUẾ – VẬN: _Quan chức: Nếu nghỉ việc, được phục chức. _Giới sĩ: Chờ lâu được vời đến. _Người thường: Hoặc lấy vợ đẻ con, hoặc có con nuôi.Hoặc giới thiệu đồ đệ.
Hào 3:
Ðống nạo hung. Ý hào: Quá cương mà chẳng ích gì cho việc cả.
MỆNH – HỢP – CÁCH: Hăng hái, lập công giúp đời, nhưng thường bạo mạnh quá, Thành thương tổn có khi nguy hiểm nữa.
MỆNH – KHỘNG – HỢP: Hung bạo quá, nên họa hại luôn.
XEM – TUẾ – VẬN: _Quan chức và giới sĩ: Phòng thiệt hại, phòng nguy. _Người thường: Phòng đổ vỡ. Ðau mắt, đau chân.
Hào 4:
Ðống long, cát, hữu tha, lận. Ý hào: Cương nhu đủ cả, nên gánh được trọng trách, nhưng nếu thiên về phía mềm yếu thì sẽ hỏng.
MỆNH – HỢP – CÁCH: Là giường cột của đất nước, công huân lớn.
MỆNH – KHÔNG – HỢP: Cũng có danh vọng, được việc lớn cho gia đình, phúc lộc dày bền.
XEM – TUẾ – VẬN: _Quan chức: Thường đứng đầu, giữ trọng trách. _Giới sĩ: Tiến thủ thành danh. _Người thường: Hay kiến thiết tu tạo, hay cố chấp, có khi rơi vào bọn gian nịnh để rồi hối thẹn.
Hào 5:
Khô dương sinh hoa, lão phu đắc kỳ sĩ phu, vô cửu, vô dự. Ý hào: Cương nhu không đủ tài để giúp đời.
MỆNH – HỢP – CÁCH: Cương quá, gặp kẻ không ra người không đủ tài lập công, chỉ đủ cơm áo, chẳng vinh chẳng nhục.
MỆNH – KHÔNG – HỢP: Hoặc vợ già, con keo kiệt, thọ mỏng, tài xoàng.
XEM – TUẾ – VẬN: _Quan chức: Không bền. _Giới sĩ: Khó tiến. _Người thường: Khó kinh doanh, đương vui hóa buồn, đường đẹp hóa xấu, trước nghịch cảnh, sau mới thuận.
Hào 6:
Quá thiệp, diệt đính, hung, vô cữu. Ý hào: Tử nạn vì nước.
MỆNH – HỢP – CÁCH: Vì việc đất nước, lâm đại nạn, dám tuẫn quốc, lưu danh sử sách.
MỆNH – KHÔNG – HỢP: Chí lớn, mưu nhỏ, gặp họa khó còn.
XEM – TUẾ – VẬN: _Quan chức: Thân nguy. _Giới sĩ: Ðỗ khôi khoa (I). _Người thường: Bị tai nạn đến dầu đến trán.
(Dẫn theo trang huyenhocvadoisong.com)