Chương 30: Làm Sao Để Suy Đoán Năm Nào Phù Hợp Kết Hôn
Tử Vi Đẩu Số từ xưa truyền tới nay đã có hơn 1000 năm, trong khoảng thời gian này sự luân phiên của chế độ chính trị, thay đổi của tập quán xã hội, khoa học kỹ thuật tiến bộ, cũng sẽ ảnh hưởng đến mệnh vận. Có rất nhiều quan niệm của người xưa đã không còn hợp với thời đại, cho nên những giải thích trong lúc luận mệnh cũng cần phối hợp sự thay đổi của thời đại để mà sửa đổi cho đúng. Như chuyện vợ đoạt quyền chồng, vợ bé nàng hầu đều là những danh từ có hàm chứa sự thành kiến với phụ nữ thời xưa, thì ngày nay thì phải có giải thích mới. Cho nên, lúc đọc cổ thư “Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư” đừng có quá chấp vào cái ý nghĩa về mặt con chữ trong các lời phú văn, mà cần phải hấp thụ những hàm ý ẩn tàng sâu xa bên trong đó để điều chỉnh theo tính chất thời đại.
Khi xem việc hôn nhân cũng như vậy, người xưa đa số đều là nhờ cậy vào người mai mối, nghe theo mệnh lệnh của cha mẹ mà kết thành đôi lứa. Còn trong thời nay thì sao? Đa phần là kết bạn trước rồi mới kết hôn sau, số ít mới nhờ cậy vào lời mai mối nhưng cũng phải trải qua công đoạn tới xem mặt của đối phương để xem có phù hợp về cá tính hay không, sau đó mới tiến tới công đoạn làm lễ bái đường. Cho nên việc luận đoán hôn nhân ở thời hiện đại, lúc nào có thể kết thành, thì nhất thiết phải xem kỹ cung Phu Thê và cung Nô Bộc để đoán định thời cơ cưới hỏi.
Bởi vì hôn nhân là việc của cả hai người, nên khó mà lấy lá số của 1 người để tính toán sự tốt xấu của hôn nhân, trừ khi gặp cách cục đặc thù, nếu không thì tốt nhất là lấy “hợp bàn” của lá số cả 2 người để mà luận đoán cát hung cuộc hôn nhân của họ thì sẽ khá chính xác. Thường thấy phái nữ do có cung Phu Thê xấu mà bài xích hôn nhân, kết quả là đến khi kết hôn vẫn chưa dứt được cái quan niệm ấy, đã là gần 40 tuổi rồi, lại còn nhắm mắt đưa chân tìm người kết duyên. Loại tình huống này xảy ra đặc biệt nhiều ở những nữ mệnh có trình độ học vấn cao, điều này thực sự là “kiểu uổng quá chính” (QNB chú: đây là thành ngữ ám chỉ việc sửa chữa quá tay, lợn lành lại chữa thành lợn què). Nếu có thể mở lòng, kết bạn rộng rãi, thì từ trong đó cũng có thể phát hiện ra được đối tượng “Tuyệt Phối” (người phối ngẫu tuyệt vời). Người viết đã từng thấy qua một anh chàng có cung Thê tọa Thất Sát, Kình Dương, cưới học trò nữ có Thất Sát tọa ở cung Mệnh làm vợ. Kết hôn mười mấy năm rồi mà tình cảm vợ chồng vẫn rất tốt đẹp. Vị tiên sinh đó chính là bác sĩ Khoa Ngoại của một bệnh viện lớn, còn người vợ là bác sĩ Khoa Sản, thuộc tính của nghề nghiệp thật hợp với đặc trưng của các sao Thất Sát, Kình Dương, cho nên trở thành “Tuyệt Phối”. Kỳ thực mỗi người đều có tồn tại đối tượng “tuyệt phối” của riêng mình, nếu để tâm tìm kiếm thì trong biển người mênh mông nhất định sẽ được người như ý.
Có người nói là ngày tháng kết hôn nếu mà tìm cao thủ trạch cát chọn ngày, thì liệu có thể đảm bảo chuyện hôn nhân cát tường chăng? Đây lại là sự lẫn lộn đầu đuôi về mấu chốt của vấn đề. Nếu mà nói là người mà có cung Phu Thê không tốt, chọn một ngày cát lợi để kết hôn liền có thể bảo vệ hạnh phúc hôn nhân, thì chẳng lẽ ai gây dựng sự nghiệp cũng đi chọn một ngày tốt sẽ liền thành công à!!! Tuyệt đối không phải như vậy. Hôn nhân tốt đẹp hay không là ở chỗ mối quan hệ ảnh hưởng qua lại giữa mình và người phối ngẫu. Cung Phu Thê mà không tốt, lại thêm vận hạn có Sát Kị trùng trùng, thì cho dù dùng ngày đại cát đại lợi để kết hôn và đối tượng kết hôn còn là bạn rất tốt đi nữa, thfi cũng nhất định sẽ xuất hiện vấn đề ở trong chuyện tình cảm.
Trong Tử Vi Đẩu Số, sức ảnh hưởng mạnh nhất là 28 ngôi của các sao cấp Giáp, phàm là những người mà có các tinh tú mang tính chất ổn định, ôn nhu, cẩn thận hay là các sao dễ tiếp xúc với những người khác giới như Xương, Khúc, Tử, Phủ, Đồng, Tướng, Âm, Liêm, Tham tọa ở cung Mệnh hoặc cung Phu Thê thì cũng rất dễ dàng tìm được ra tượng. Còn nếu là những người có các sao Cô Quả hay Sát tinh tọa Mệnh hoặc cung Phu Thê thì có xu hướng kết hôn muộn, như Vũ, Sát, Phá, Hình, Lương, Cự, Kình, Đà, Hỏa, Linh, hoặc ở Tam phương hội nhập quá nhiều sát tinh thì cũng luận như vậy.
Ngoài ra cũng còn 2 ngôi sao biểu thị cho việc kết hôn muộn là Tả Phụ & Hữu Bật rơi vào cung Phu Thê, 2 ngôi sao này thường thường là do duyên phận kiếp trước chưa dứt hoặc mải mê sự nghiệp mà quên lãng việc hôn nhân đại sự. Cho nên bình thường thì có thể từ tính chất tinh đẩu để mà phán đoán việc cưới sớm hay cưới muộn.
Đâu chính là phương pháp xem thông thường về chuyện nhân duyên tới sớm hay muộn và sau khi kết hôn thì mối quan hệ có cát hay hung. Có 1 vị là tay hảo hán giang hồ nhưng ở nhà lại chính là người một chồng ngoan ngoãn của bà vợ. Ngay cả khi tổ hợp tinh tú của cung Phu Thê cũng toàn là các sát tinh hạng nặng, và có nguyên do Tứ Hóa của nó nhập vào tam phương của Mệnh cục, nếu như cung Phu Thê đi theo hành vận mà không có Sát Kị tinh xung tới hoặc là hóa Kị xung động cung Phu Thê gốc, thì vẫn có thể yêu thương ân ái tới đầu bạc răng long. Có người lúc mới cưới, vợ hiền thục lo việc nhà, nào đâu biết ngày sau mình mắc bệnh khó chữa, vì bệnh mà lìa đời, cũng chính là cung Phu Thê dò tổ hợp sao không có sát nhưng mà hành vận của cung Phu Thê lại không tốt lành mới tạo thành cái bi kịch vợ chồng sinh ly tử biệt. Cho nên, muốn luận đoán cát hung của cung Phu Thê, nhất định cần phải cân nhắc cung Phu Thê gốc lẫn cung Phu Thê của các vận hạn mới có thể biết được cát hung, đừng có mới chỉ nhìn thấy sát tinh trùng trùng ở cung Phu Thê gốc mà đã hết hồn lo sợ.
Bây giờ chúng ta cùng xem một Ví dụ với hình 1:
Cung Mệnh tại Tý có Liêm Trinh, Thiên Tướng, Thiên Hình, lại có thêm Thiên Không, Địa Kiếp, Kình Dương, Đà La, Vũ Khúc, Phá Quân là cô quả tinh với sát tinh ở tam phương hội nhập về. Cho nên người này tính cách cô độc không dễ sống cùng người khác giới, có thể lận đoán là kết hôn muộn.
Lấy Tứ Hóa để xem, mặc dù sao Hóa Lộc của năm sinh nhập vào cung Phu Thê gốc chủ nhân duyên tới sớm, thương yêu chồng, nhưng lại là do cung Phu Thê tọa ở Nhâm Tuất khiến cho Vũ Khúc hóa Kị phi tới cung Quan Lộc, chính là “Lưu xuất Kị” (Kị chảy đi) đại biểu cho duyên phận không giữ được, uổng công để cơ hội chạy mất. Lại xem cung Nô Bộc cũng là cách cục “Lưu xuất Kị” cho nên mặc dù ở thời đại học có bạn trai, nhưng cuối cùng cũng không kết thành đôi lứa, lãng phí thời gian kết hôn tới năm Đinh Mão đã 40 tuổi vẫn chưa kết hôn.
Mệnh cục của lá số gốc chính là một phương hướng tổng quát, đại biểu cho những tình huống tổng thể cơ bản về mệnh vận của một con người. Phương hướng tổng quát này sẽ ảnh hưởng sâu tới vận đồ của Đại Hạn và Lưu Niên. Các tiểu cách cục của hạn vận nếu không có nhân tố tăng cường, thì khó có cơ hội kết hôn, nhất là nữ mệnh càng già càng khó kết hôn. Và đối với nhu cầu kết hôn thì càng già sẽ càng suy giảm, chỉ có điều chúng ta có thể từ Tứ Hóa và tổ hợp tinh tú trong [cung Phu Thê của Đại Hạn] để suy đoán, xem rốt cục là khi nào sẽ có hôn nhân.
Cái được gọi là nhân tố tăng cường là cái gì? Chính là tác dụng tổng hợp của Tứ Hóa năm sinh và Tứ Hóa vận hạn, tạo ra ý niệm mãnh liệt hơn mới có thể biến thành hành động. Trước đây đã nói qua Tứ Hóa đại biểu một quá trình sự việc từ “Ý niệm sơ khởi —> lập kế hoạch —> hành động —> thu hoạch kết quả”. Nếu như không có sự tiến nhập vào trong tam phương của các cung vị tương quan, thì sẽ không sản sinh ra kết quả, hay là không có cơ hội kết hôn. Trong Tứ Hóa thì lấy lực của Hóa Lộc, Hóa Kị là mạnh nhất. Nhưng chỉ có Hóa Lộc thì không có ích lợi gì, chỉ có hiện tượng hoặc ảo tưởng mà thôi, không cách nào biến thành hiện thực. Nhất định phải có đầy đủ hết 4 ngôi Lộc, Quyền, Khoa, Kị thì mới có thể hoàn thành quá trình trọn vẹn “Ý niệm sơ khởi —> Kế hoạch —> Hành động —> Thu hoạch”.
Thí dụ như có Vương lão ngũ muốn thoát khỏi kiếp sống lưu manh, nhưng ăn mày đòi xôi gấc mà không vắt tay lên trán mà tự hỏi điều kiện của mình ra sao. Hoặc trong lòng do dự quá nhiều, trì trệ không biến thành hành động thì không có cách nào như mong muốn. Lấy Tứ Hóa tinh mà nói, “Muốn kết hôn rồi” là hiện tượng của Hóa Lộc. Nhưng có thực hiện hay không? là phải nhìn Hóa Quyền, bởi vì ý nghĩa của Hóa Quyền là “hành động, thành tựu”. Khi Hóa Lộc và Hóa Quyền hội hợp mới có thể đem ý tưởng biến thành hành động. Còn Hóa Kị là gì? Nó có ý nghĩa kết dính lại, Hóa Kị tiến vào cung vị tương quan với việc hôn nhân thì mới có cơ hội kết dính đối tượng.
Rốt cuộc, Tứ Hóa đã nhắc đến, là từ một cung nào biến thành vậy? Dĩ nhiên là luận đoán hôn nhân thì dùng Can của cung “Phu Thê” để phi hóa! Trong lúc giải thích mối quan hệ hôn nhân, có loại thực tế kết hôn mà không có cách nào xác định quan hệ hôn ước ăn ở cùng nhau cũng là thuộc vào duyên hôn nhân.
Đa số người hiện đại đều là kết bạn trước rồi mới cưới hỏi, cho nên muốn tra xem năm nào sẽ kết hôn, trước tiên là xem Tứ Hóa của can cung Nô Bộc, có nhập Mệnh hay cung Phu Thê hay không, nếu Hóa Kị xung tới cung Phu Thê thì đa phần là không kết thành đôi được. Nếu không xung tới cung Phu Thê thì lại tra xét Tứ Hóa theo can [cung Phu Thê của Lưu Niên], đều nhập vào tam hợp của Mệnh gốc hoặc đối cung với niên phận, liền có đầy đủ điều kiện kết hôn.
Bây giờ mời xem ví dụ đồ hình 2,
Mệnh ở cung Giáp Tý khiến Thái Dương hóa Kị tại cung Nô Bộc, vì đây là nữ mệnh nên những bạn trai cô ấy kết giao đều không được tốt. Hơn nữa cung Nô Bộc hóa Kị tự xung khiến nhân duyên cô ấy với người khác giới càng ít. Lại thêm Phu Thê ở cung Nhâm Tuất khiến Vũ Khúc hóa Kị tự xung Phu Thê là sẽ là vì mải mê công việc mà quên lãng hôn nhân, hoặc có hiện tượng là cũng có đối tượng theo đuổi nhưng không nắm lấy (vì Vũ Khúc hóa xuất Kị).
Lại xem đến Đại Hạn từ 24-33 tuổi, [cung Nô Bộc của Đại Hạn] ở cung Ất Mão và [cung Phu Thê của Đại Hạn] ở cung Canh Thân, khiến cho Thái Âm hóa Kị và Thiên Đồng hóa Kị ở trạng thái đối xung nhau trên trục Mão-Dậu. Điều này làm cho khó có đối tượng thuộc dạng “làm bạn trước rồi đi đến kết hôn sau”. Nếu ở trong thời đại mà cha mẹ sắp đặt hôn nhân thì đã có thể sớm ra khỏi khuê phòng, nhưng ở thời hiện đại này tôn trọng tự do yêu đương, cho nên đành phải muộn lấy chồng. Ví dụ này ở trước 33 tuổi e rằng không dễ lập gia đình.
Đến Đại Hạn thứ tư (34-43 tuổi), [cung Phu Thê của Đại Hạn] ở cung Kỷ Mùi, can Kỷ phi Tứ Hóa: Vũ Khúc hóa Lộc tại cung Quan Lộc gốc, Tham Lang hóa Quyền ở Phu Thê gốc đã biểu hiện mong muốn kết hôn mạnh mẽ. Lại nhìn thêm tổ hợp tinh tú Thiên Cơ, Tả Phụ, Hữu Bật (hóa Khoa), Hỏa Tinh, ở [cung Phu Thê của Đại Hạn] thể hiện ý nghĩa xuất hiện đối tượng “dù chưa hài lòng lắm nhưng cũng hợp ý”. Tới năm Dân Quốc thứ 75 và 77 (tức năm 1986 & 1988), lúc Tứ Hóa của [cung Phu Thê của Lưu Niên] đều nhập vào các cung vị là Mệnh gốc, Phu Thê gốc và Quan Lộc gốc. Vậy ở năm Bính Dần hoặc năm Mậu Thìn có cơ hội kết hôn, nhưng [cung Phu Thê của Đại Hạn] khiến Văn Khúc hóa Kị tại Dậu xung tới cung Mão, năm kết hôn hẳn là sau cái năm Mão đi qua chỗ bị Kị xung thì mới có khả năng, do đó năm kết hôn ứng tại năm Dân Quốc thứ 77 (1988, Mậu Thìn).
Cho nên trong lúc luận đoán mệnh vận, phải có quan niệm Lưu Niên di chuyển, từng năm từng năm thay đổi chỗ, nhìn xem có bị Kị xung đến hoặc là đứng ở chỗ Kị tinh, thì có thể luận đoán năm Lưu Niên xảy ra sự kiện.
(Đương số của ví dụ này quả nhiên đã kết hôn rồi, bạn đọc có thể suy đoán một chút xem là được gả cho người như thế nào? Hôn nhân tốt hay không? Con cái sau này ra sao? Sau này có cơ hội thì đi vào tham thảo sâu hơn).
Lại đưa ra một ví dụ nữa (hình 3), là cách “Dương Lương Xương Lộc” vốn được gọi là “Lô truyền đệ nhất danh”. Nhưng mà người trong ví dụ này do nhà nghèo nên không được tiếp thụ giáo dục bậc cao, chỉ có điều ở trong nghề phục vụ trở thành xuất chúng là có thể kỳ vọng. Năm Dân Quốc thứ 78, mở trung tâm đào tạo, chuyên môn dạy lái xe tải hạng nặng. Nhưng trong cuộc sống vợ chồng lại không được hưởng hạnh phúc tinh thần, vì cung Phu Thê có tọa 1 ngôi sao Cự Môn chủ “miệng lưỡi, thị phi, nghi ngờ”. Lại thêm Hóa Kị năm sinh, sức phá hoại của nó theo bản tính đa nghi đối với người hôn phối tăng rất mạnh. Cho nên vợ người này cả ngày lẫn đêm lải nhải, nghi đông ngờ tây, làm gia đình không khí ngột ngạt, lỗ tai không lúc nào được thanh tĩnh.
Nhưng người này cũng đã kết hôn từ rất sớm (21 tuổi), như vậy là sao?
Trước tiên xem cung Phu Thê gốc ở cung Giáp Thìn, khiến Liêm Trinh hóa Lộc nhập cung Phụ Mẫu gốc, Phá Quân hóa Quyền và Vũ Khúc hóa Khoa cùng nhập cung Nô Bộc gốc. Lúc Đại Hạn tiến vào cung Tị, thì cung Phu Thê gốc phi xuất Tam cát Hóa tinh vừa vặn nhập vào tam phương của [cung Phu Thê của Đại Hạn] 12-21 tuổi. Trong khi đó [cung Phu Thê của Đại Hạn] có tổ hợp sao mang tính đào hoa mãnh liệt là Tử Vi, Tham Lang, Thiên Diêu, cho nên Đại Hạn này sẽ vì sự phát tác của các kích thích tố mà kết hôn. Bởi vì cung Phu Thê gốc hóa xuất Lộc và Quyền rơi vào trong tam phương của năm Sửu năm Dậu. Khi mà Lưu Niên bước vào năm Dậu thì cũng là lúc đương số đã đến tuổi thích hợp kết hôn. Lại có [cung Phu Thê của Lưu Niên] ở cung Đinh Mùi, can Đinh khiến Tứ Hóa toàn nhập vào trong tam hợp của Mệnh gốc. Cự Môn hóa Kị nhập cung Phu Thê là “Kị nhập”, nên tại năm Tân Dậu đã hoàn thành chung thân đại sự. (QNB chú: dịch nguyên văn, nhưng ta thấy đương số sinh năm Đinh Sửu và khi 21 tuổi thì sẽ phải là năm Đinh Dậu chứ không phải Tân Dậu)
Các vị có thể có một nghi vấn: chẳng phải là cung Phu Thê gốc khiến Thái Dương hóa Kị xung cung Mệnh gốc đó ư? Nhẽ ra nhân duyên phải tới trễ mới đúng chứ! Đúng vậy, nói nhân duyên trễ cũng là 1 dạng giải thích khi Phu Thê hóa Kị xung Mệnh kiểu này. Cũng có thể giải thích rộng ra là vợ chồng vô duyên. Lại cân nhắc tổ hợp tinh tú ở [cung Phu Thê của Đại Hạn], nếu như [cung Phu Thê của Đại Hạn] mà đào hoa tinh tụ tập như người này thì chạy không thoát sự xung động về sinh lý, nên rất chóng kết hôn. Nhưng là vợ cả từ sáng tới tối nghi đông ngờ tây, hai vợ chồng không hề hòa hợp, điều này thì phù hợp với ý nghĩa của Hóa Kị xung Mệnh.
Thật ra nếu đuơng số suy tính một chút, ở năm 26 tuổi kết hôn sẽ tốt hơn. Bởi vì cung Phu Thê của năm đó tọa can Tân khiến Cự Môn hóa Lộc nhập cung Phu Thê gốc chứ không phải là Cự Môn hóa Kị thì sẽ làm cho những đặc tính nghi ngờ thị phi của sao Cự Môn sẽ giảm đi tới mức thấp nhất, gia tăng đời sống tình cảm an lành. (Lấy ví dụ này mà nói, chỉ có thể giảm bớt triệu chứng mà thôi, chứ không có cách nào để ăn ở thuận hòa với nhau, bởi vì cung Phu Thê gốc có tọa tinh quá xấu). (QNB chú: thực ra tới năm đương số 26 tuổi thì phải là năm Dần, khi đó [cung Phu Thê của Lưu Niên] ở cung Nhâm Tý chứ không phải trên cung Đinh Hợi. Nếu như nói về năm đương số 25 tuổi thì ok, nhưng mà bên dưới đây vẫn còn 1 lần nhắc lại về năm 26t. Độc giả lưu ý vậy).
Phương pháp xem việc kết hôn, trừ phương thức phía trên còn có các phương thức mạch lạc khác có thể dùng. Ví dụ trên là mệnh tạo đơn giản dễ hiểu, còn trên thực tế khi luận đoán sẽ dính líu tới các cung vị khác như:
* Nghe theo lời con cháu để kết hôn là từ cung nào biểu hiện?
* Tuân theo lời cha mẹ để kết hôn lại là từ cung nào thể hiện
Cho nên muốn lý giải ra một hai điều quy tắc luận đoán năm kết hôn là rất khó, theo kết quả quy nạp cho thấy có ít nhất 12 quy tắc có thể áp dụng là: Hóa Lộc phải có Hóa Quyền mới có thể từ ảo thành thật, có Hóa Kị mới có thể nắm bắt được, bằng không chỉ là huyễn tưởng mà thôi.
Trong luận đoán Tử Vi Đẩu Số có hay không việc nhất định sẽ đoán ra được năm kết hôn? Theo kinh nghiệm cho thấy, chưa chắc đã thấy, chúng ta chỉ có thể nói năm ấy kết hôn cát lợi mà thôi, vì có lúc còn dính tới tập tục địa phương, như năm Kim Lâu hoặc con trai 29 tuổi không được kết hôn, cũng sẽ ảnh hưởng tới việc suy đoán về Lưu Niên hôn nhân.
Như cái ví dụ hình 3, rất dễ nhận thấy kết hôn quá sớm, nếu như có thể đợi tới 26 tuổi kết hôn thì đời sống tình cảm sẽ khá tốt. Tử Vi Đẩu Số suy đoán năm kết hôn có tác dụng chủ yếu như vậy thôi.
(Dẫn theo trang www.huyenhocvadoisong.com)