Cách xem Cung Vô Chính Diệu trong Tử Vi
Vô Chính Diệu (VCD) là gì? Trong khoa Tử Vi, cung Vô Chính Diệu chính là ở cung đó không có sao chính tinh tọa thủ hay đồng cung. Ai cũng biết mỗi lá số đều có 14 chính tinh phân bố vào các cung, tuy nhiên đôi khi có những cung không hề có một chính tinh nào, có những cung lại được phân bố đến hai chính tinh cùng tọa thủ. Vậy VCD trong các cung ảnh hưởng như thế nào?
Gia Cát Lượng là một tài năng Mệnh Vô Chính Diệu |
Cách xem xét, phán đoán mệnh VCD như thế nào mới đúng? Chúng ta cùng đi giải quyết vấn đề cung VCD.
1. Cung Mệnh Vô Chính Diệu
Cung Mệnh không có Chính diệu tọa thủ gọi là Mệnh vô Chính diệu.
Xem thêm bài viết:Cung mệnh vô chính diệu: luận đoán thế nào cho đúng?
+ Coi Chính diệu xung chiếu như Chính diệu tọa thủ.
+ Người có Mệnh vô Chính diệu rất khôn ngoan sắc sảo và thường là con vợ lẽ hay con nàng hầu. Nếu là con vợ cả, tất hay đau yếu, sức khỏe rất suy kém. Không những thế, lúc thiếu thời lại rất vất vả, thường lang thang phiêu bạt, vô sở, bất chi.
+ Mệnh vô Chính diệu rất cần có Tuần, Triệt án ngữ và Thiên Không Địa Không hội hợp (Đây gọi là cách VCD đắc Tam Không). Nếu không phải có nhiều Chính diệu sáng sủa, tốt đẹp hội chiếu và nhiều trung tinh rực rỡ quần tụ. Như thế mới mong sống lâu được.
+ Mệnh vô Chính diệu mà không gặp sự cứu giải của các sao như đã kể trên, thật đáng lo ngại. Đây, muốn tăng tuổi thọ, tất phải làm con nuôi họ khác, hay phải rời gia đình.
+ Tại Tứ Mộ, vô Chính diệu: cùng khổ và giảm thọ. Đây rất cần phải có Tuần, Triệt án ngữ, hay nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp cứu giải. Như vậy cũng đỡ lo ngại, suốt đời cũng được no cơm ấm áo.
+ Tại Tý, Ngọ, vô Chính diệu, nếu có nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp: cùng khổ hay chết non: cũng ví như đóa hoa mới nở đã bị mưa gió vùi dập phủ phàng. Đây, nếu có Hóa Lộc tọa thủ thì giàu nhưng giảm thọ. Trái lại, nếu không có Hóa Lộc tọa thủ thì nghèo mà sống lâu.
– Cung Mệnh có Triệt án ngữ, cung Thân có Tuần án ngữ, gọi là Mệnh Triệt, Thân Tuần. Cung Mệnh và cung Thân rất cần phải có vô Chính diệu. Có như thế, suốt đời mới được xứng ý toại lòng, được tăng thêm tuổi thọ, về già lại được sung sướng.
– Cung Mệnh có Địa Không tọa thủ, cung Thân có Địa Kiếp tọa thủ gọi là Mệnh Không, Thân Kiếp. Người có Mệnh Không, Thân Kiếp rất khôn ngoan sắc sảo. Nhưng trong đời vui ít, buồn nhiều, mưu sự thì thành bại thất thường: làm việc gì cũng chẳng được lâu bền. Nếu cung Mệnh vô Chính diệu lại có Song Hao hội hợp, là người tuy ít học, nhưng cũng lập được công danh, sự nghiệp khá hiển hách. Cũng trong trường hợp này, nếu cung Mệnh hay cung Thân lại có Thiên Đồng, Thiên Lương hay Phá Quân tọa thủ, thật không sống lâu được.
– Cung Mệnh có Địa Kiếp tọa thủ, cung Thân có Địa Không tọa thủ gọi là Mệnh Kiếp Thân Không. Người có Mệnh Kiếp Thân Không rất khôn ngoan sắc sảo. Nhưng trong đời vui ít buồn nhiều, mưu sự thì thành bại bất thường: làm việc gì cũng chẳng được lâu bền. Nếu cung Mệnh vô Chính diệu lại có Hồng, Đào, Sát tinh hội hợp, tất phải chết non. Nếu không, lúc thiếu thời vất vả, gian truân. Cũng trong trường hợp này, nếu cung Mệnh hay cung Thân lại có Nhật, Nguyệt hay Tử Vi sáng sủa tọa thủ thì cũng được no cơm ấm áo.
Cách vô chính diệu có nhiều điều khác người
– Mệnh vô chính diệu có sát tinh đắc địa thì vận gặp Sát Phá Tham sẽ bạo phá , công danh tài lộc đến ào ạt như vũ bão.
– Mệnh vô chính diệu có Không Kiếp đắc địa ở Dần – Thân – Tỵ – Hợi, đại tiểu vận có Phá quân thì bỗng chốc gặp thời, giàu sang, phú quý.
– Mệnh vô chính diệu có Kình Đà đắc địa, đạitiểu vận có Thất sạt thì một bước uy quyền giàu sang.
– Mệnh vô chính diệu có Hỏa Linh đắc địa, đăị tiểu vận có Tham lang thì một sớm một chiều trở thành tỷ phú.
– Mệnh vô chính diệu có sát tinh đắc địa, gặp đại tiểu vận có Tử Phủ Vũ Tướng, cự Nhật thì bị chê là giang hồ, khó thành công.
– Mệnh vô chinh diệu có sát tinh đắc địa hay hãm địa, gặp đại tiểu vận cũng vô chính diệu thì chẳng nên cơm cháo gì.
– Mệnh vô chính diệu có Tả Hữu đồng cung và Nhật Nguyệt đắc địa hợp chiếu thì thông minh tài giỏi.
– Mệnh vô chính diệu có sát tinh đắc địa, được Khoa Quyền Lộc tam hợp chiếu thì mở mặt với đời, hạn gặp Khoa thì có công danh , gặp Quyền có địa vị, gặp Lộc có tiền tài.
2. Cung Phụ Mẫu Vô Chính Diệu
+ Coi Chính diệu xung chiếu như Chính diệu tọa thủ.
3. Cung Phúc Đức Vô chính Diệu
– Coi Chính diệu xung chiếu như Chính diệu tọa thủ.
– Nếu cung Phúc Đức vô Chính diệu có Tuần, Triệt án ngữ, hay có Tam Không hội hợp, phải luận đoán là được hưởng phúc sống lâu. Trái lại, nếu cung Phúc Đức vô Chính diệu không có Tuần, Triệt án ngữ, hay không có Tam Không hội hợp, phải luận đoán là kém phúc (dù có sự hội hợp của nhiều sao sáng sủa tốt đẹp cũng thế). Nên chú ý nhận định những trường hợp đặc biệt sau đây:
+ Nhật, Nguyệt chiếu hư không: cung Phúc Đức vô Chính diệu có Nhật, Nguyệt sáng sủa tốt đẹp hội chiếu được hưởng phúc sống lâu, tránh được nhiều tai họa. Họ hàng khá giả, có nhiều người qúy hiển, giàu sang. Tổ tiên xa đời cũng đã có danh giá tiếng tăm còn lưu lại đến đời nay. Cũng trong trường hợp này, nếu cung Phúc Đức vô Chính diệu lại có Tuần, Triệt án ngữ, hay có Tam Không hội hợp lại càng rực rỡ
+ Đà La độc thủ, cung Phúc Đức vô Chính diệu an tại Dần, Thân, có Đà La tọa thủ: được hưởng phúc, sống lâu. Suốt đời hay gặp may mắn. Họ hàng càng ngày càng khá giả, có nhiều người qúy hiển, văn võ toàn tài. Cũng trong trường hợp này, nếu Đà La gặp Tuần, Triệt án ngữ sẽ không được coi là Đà La độc thủ nữa.
4. Cung Điền Trạch Vô Chính Diệu
– Không được thừa hưởng tổ nghiệp: phải tự tay gây dựng.
– Tuần, Triệt án ngữ: lập nghiệp trước khó sau dễ. Mua tậu nhà đất rồi lại bán. Thay đổi nơi ăn chốn ở luôn luôn. Về già mới có chỗ ở chắc chắn, nhưng nhỏ mọn tầm thường.
– Nhật, Nguyệt (cùng sáng sủa) xung chiến hay hợp chiếu: rất nhiều nhà đất. Chỗ ở rất cao đẹp. Càng về sau càng mua tậu được nhiều
– Vô Chính diệu được Tuấn, Triệt án ngữ và Nhật, Nguyệt (cùng sáng sủa) xung chiếu hay hợp chiếu: rất rực rỡ. Lập nghiệp tuy chật vật buổi đầu, nhưng về sau rất giàu có, nhà hàng dãy, ruộng đất thẳng cánh cò bay.
5. Cung Quan Lộc Vô Chính Diệu
Coi Chính diệu xung chiếu như Chính diệu tọa thủ. Nên chú ý rằng cung Quan Lộc vô Chính diệu, dù có gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp phối chiếu cũng không được toàn mỹ. Như thế, dĩ nhiên là công danh không thể hiển đạt được, chức vị cũng bình thường. Nhưng ngoại trừ có hai trường hợp đặc biệt:
– Tuần, Triệt án ngữ: tuy gặp nhiều trở ngại trên đường công danh nhưng sau vẫn hiển đạt. Thường là hoạnh phát hoạnh phá, có chức vị cũng chẳng được lâu bền.
– Nhật, Nguyệt (cùng sáng sủa) xung chiếu hay hợp chiếu: công danh rực rỡ, uy quyền hiển hách. Nên chuyên về chính trị, kinh tế về sau tất được xứng ý toại lòng. Cũng trong trường hợp này, nếu cung Quan Lộc vô Chính diệu có Tuần, Triệt án ngữ, lại càng rực rỡ tốt đẹp bội phần.
6. Cung Nô Bộc Vô Chính Diệu
+ Coi Chính diệu xung chiếu như Chính diệu tọa thủ.
7. Cung Thiên Di Vô Chính Diệu
+ Coi Chính diệu xung chiếu như Chính diệu tọa thủ.
8. Cung Tài Bạch Vô chính Diệu
Coi Chính diệu xung chiếu như Chính diệu tọa thủ. Dù có nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp cũng không thể giàu to lớn được ngoại trừ hai trường hợp đặc biệt sau đây:
– Tuần, Triệt án ngữ: buổi đầu kiếm tiền khó khăn, nhưng về sau dễ dàng, càng về già lại càng sung túc.
– Nhật, Nguyệt (cùng sáng sủa) xung chiếu hay hợp chiến: giàu có lớn. Cũng trong trường hợp này, nếu cung Tài Bạch vô chính điệu lại có Tuần, Triệt án ngữ, thật là tốt đẹp bội phần.
9. Tử Tức Vô Chính Diệu
+ Coi Chính diệu xung chiếu như Chính diệu tọa thủ.
10. Cung Thê Thiếp Vô Chính Diệu
+ Coi Chính diệu xung chiếu như Chính diệu tọa thủ.
11. Các Hạn gặp Vô Chính Diệu
– Mệnh vô Chính diệu cần gặp Sát, Phá, Liêm, Tham hay Sát tinh, Bại tinh sáng sủa tốt đẹp nhập Hạn hơn là Tử, Phủ, Cự, Nhật, Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương sáng sủa tốt đẹp nhập Hạn. Mệnh vô Chính diệu có Hạn gặp Sát, Phá, Liêm, Tham, Sát tinh hay Bại tinh dù tốt đẹp hay xấu xa thì mưu sự bao giờ cũng trước khó sau dễ, có vượt được trở ngại ban đầu về sau mới khá giả. Trong trường hợp này, nếu những sao kể trên nhập Hạn lại sáng sủa tốt đẹp, chắc chắn là danh tài hoạnh phát mọi sự đều hành thông. Nhưng nếu trái lại, những sao kể trên nhập Hạn lại mờ ám xấu xa, tuy vẫn khá giả nhưng thường may ít rủi nhiều và hay phải lo lắng buồn phiền.
– Mệnh vô Chính diệu, cung nhập Hạn cũng vô Chính diệu tất mọi sự đều dở dang bế tắc, không được xứng ý toại lòng vì thành ít bại nhiều. Trong trường hợp này nếu cung nhập hạn vô Chính diệu lại gặp Tuần, Triệt án ngữ tất mọi sự hành thông danh tài hưng vượng.
– Mệnh vô Chính diệu. Hạn gặp Sát, Phá, Tham hội hợp Đào, Hồng, Suy, Tuyệt, tất tính mạng không thể an toàn được. Số Gia Cát Võ Hầu đời Tam Quốc cũng Mệnh vô Chính diệu chẳng may gặp Hạn này nên phải về chầu trời.
– Cung nhập Hạn vô Chính diệu: coi Chính diệu xung chiếu như Chính diệu tọa thủ nhập Hạn. Tùy cheo từng trường hợp, nhận định như trên.
(Dẫn theo trang tuvitoantap.blogspot.com)