Phương pháp xem hạn
con người khi sinh ra có số mệnh, có số mệnh thì tất có “thời vận”, Đại vận được an từ cung mệnh. cung mệnh như là con người khi sinh ra, nên đại vận khởi từ mệnh. Cục số như là khí tiên thiên của con người (cục số chính là nạp âm cung mệnh) cho nên khởi đại vận phụ thuộc vào Số của Cục. như Cục Thủy là Thủy nhị Cục thì khởi cung Mệnh là đại vận 2-11t, tiếp theo tùy Âm Dương Nam Nữ mà thuận nghịch, theo thường lý thì con người có thuận nghịch, như Dương Nam Âm Nữ là thuận lý Âm Dương nên đại vận đi thuận, Âm Nam Dương nữ là nghịch lý nên đại vận đi nghịch.
Cung mệnh là Bính Tý có nạp Âm là Thủy thì Cục là Thủy nhị Cục, ghi cung mệnh từ 2-11t. Đại vận có cả Can và Chi đại vận, bởi dòng thời gian phải có đủ Can Chi, như lịch pháp vậy, cứ 60 năm là 1 lục thập hoa giáp là hết một vòng., thì Đại Vận cũng phải là một hoa giáp tức đầy đủ Can Chi. Can đại vận còn được gọi là “Thiên Thời”, Chi đại vận được gọi là “địa lợi”, Cách Cục là Nhân hòa. về nguyên tắc khi xem đại vận phải có đầy đủ Thiên Địa Nhân. nhưng do tính giản lược dễ nắm bắt mà ta chú trọng vào phần Thiên Nhân nhiều hơn, đó là Can Cung đại vận tạo ra lưu Tứ hóa, như Đại vận đầu đời là Bính Tý thì Can Bính làm Liêm trinh hóa kỵ ở đại vận, Nhân ở đây là cách cục Tử Phủ Vũ Tướng đi cùng với Cát sát tinh….
Đại vận chính là “lưu mệnh” hay dòng thời gian của cuộc đời trôi về đó. Cung Mệnh ảnh hưởng trực tiếp xuyên suốt cuộc đời, cho nên những gì có ở Cung Mệnh sẽ được biểu hiện ở vận hạn. ví dụ một người có số đi tù, thì chỉ đi tù trong khoảng nào gian nào đó, ta nhìn Cung Mệnh có cách đi tù, đến Đại Vận có cách đi tù thì ứng nghiệm sẽ đi tù ở vận này, Đại vận có cách đi tù đến Tiểu vận cũng có cách đi tù thì nhất định sẽ đi tù năm đó. Đây là nguyên tắc quan trọng nhất của việc xem Vận hạn. một người có số Thương tật do tai nạn thì cung mệnh và Cung Tật có cách hình thương, đến Đại vận cũng có cách hình thường thì ứng vào đại vận này, xem xét Tiểu vận có cách hình thương luôn thì nhất định tiểu vận sẽ ứng.
+ Đại vận chính là Lưu cung Mệnh, cho nên xem đại vận cũng giống như xem cung mệnh. Cần phải xem Cách Cục đại vận giống như cung Mệnh vậy, ví dụ Đại vận vào cung Tý có sao Tử vi thì phải xem cách cục Tử Phủ Vũ Tướng ở cung Tý. nếu Liêm Phủ ở cung Thìn bị Tuần Triệt thì cách cục Tử Phủ Vũ Tướng bị giảm lực đi rất nhiều, ở đây nếu Tý mà là cung Mộc dục (bại địa) thì lại càng nguy nan, thêm sát tinh quyết đoán vận hạn rất xấu. Nếu Tử vi cung Tý mà có Tả Hữu Xương Khúc đến chầu ở thế tam hợp là cung Thìn và Cung Thân thì lại được tốt đẹp, những điều xấu xa ở trên sẽ được cứu giải, tuy hạn bại thì có bại nhưng vẫn có gì đó thành công. về phương pháp luân đoán xem phần “luận đoán 12 cung Địa bạn” để hiểu hơn về cách luận đoán Cung Mệnh, Cung Vận hạn cũng tương tự như vậy.
+ Hạn nói cách khác là sự thể hiện của con người vào thời gian đó, do vậy Mệnh – Hạn cần phải có sự tương hợp thì con người từ khi sinh ra đến lớn lên không bị sóng gió, bệnh tật, nghèo yểu. Mệnh là chủ thì cung Mệnh cần phải mạnh để vượt qua sóng gió cuộc đời, hiểm nôm na là con người cần phải có sức khoẻ, tốt, có bản lĩnh, có sự chịu khó và có phúc vì cung Mệnh vững vàng, mạnh mẽ. thì khi vào vận dù gặp vận xấu vẫn vượt qua dễ dàng. Ngược lại Cung Mệnh xấu xa (ví dụ mệnh VCD mờ ám) thì khi gặp Vận dù có tốt đẹp thì cũng chiết giảm cái tốt một nửa do Mệnh yếu quá thì vào vận tốt cũng dễ bị tuột mất cơ hội, con người không đủ khả năng và bản lĩnh để nắm bắt cơ hội, mà có khi gặp cơ hội tốt về tiền bạc mà sức mình yếu quá nhưng lại ham thì rất dễ bị hoạ hại về tiền
+ Mệnh – Hạn cần phải có sự tương hợp, tức là Cách Cục cung Mệnh và Cách Cục cung Đại vận phải có được sự tương thích với nhau thì giống như một người gặp thời vậy, sư tương thích chính là cơ hội cho bản thân, ngược lại không có sự tương thích nào thì dễ trở thành vận xấu.
Đại vận thì có Can đại vận, lưu Thái Tuế thì có Can năm, như vậy về cơ bản 12 năm lặp lại như Can đại vận và Can Năm hạn là khác nhau, từ đó tính chất Cát Hung của Thái Tuế cũng thay đổi. Trong thư viện có cuốn “Tứ Hóa Phái”, đã nói rất hay về vận hạn cát hung bằng Tứ hóa. ngoài ra có thể theo Trung Châu Tam Hợp Phái luận đoán. ví dụ năm nay năm Bính, bính thì liêm trinh hóa kỵ, nếu Liêm trinh đóng ở Thân, đồng thời là Phụ mẫu mà lưu thái tuế vào Cung Thân, thì năm nay có chuyện liên quan đến bố mẹ, dựa vào tính chất của Liêm hóa kỵ có thể làm ăn khó khăn, bố mẹ bất hòa…hoặc có thể là hạn ly hôn nếu cung Thân là lưu cung Phu thê đại vận. cũng trong đại vận này mà có can Nhâm đại vận, thì Vũ khúc hóa kỵ ở đại vận, như vậy có 2 hóa kỵ theo thế tam hợp thì tính chất hung càng rõ ràng, những cái trên rất rõ nét. tương tự như hóa lộc thì lại có hỷ tín, may mắn, tài lộc…
(Dẫn theo trang kimca.net)