Đẩu Số Cốt Tủy phú
Thái cực tinh diệu, nãi quần tú chúng tinh chi chủ,
thiên môn vận hạn, tức phù thân trợ mệnh chi nguyên,
tại thiên tắc vận dụng vô thường, tại nhân tắc mệnh hữu cách cục.
(Thái Cực tinh diệu là chủ của chư tinh liệt tú,
vận hạn ở nơi thiên môn cũng chính là căn nguyên của việc phù Thân trợ Mệnh
ở tại trời thì sự vận dụng là vô thường nhưng ở người thì Mệnh có cách cục rõ ràng).
Tiên minh cách cục, thứ khán chúng tinh.
Hoặc hữu đồng niên đồng nguyệt đồng nhật đồng thì nhi sinh,
tắc hữu bần tiện phú quý thọ yểu chi dị.
(Trước tiên phải minh định được cách cục, thứ đến mới xem xét tới các sao.
Dẫu cho cùng năm cùng tháng cùng ngày cùng giờ sinh, thì vẫn có sự khác nhau về bần tiện
phú quý thọ yểu).
Hoặc tại ác hạn, tích bách vạn chi kim ngân.
Hoặc tại vượng hương, tao liên niên chi khốn khổ.
Họa phúc bất khả nhất đồ nhi duy,
Cát hung bất khả nhất lệ nhi đoán.
(Có thể tại ác hạn mà lại tích lũy được bạc vàng trăm vạn.
Có thể tại nơi vượng cung mà vẫn gặp phải khốn khổ năm này qua năm khác.
Họa phúc không thể theo một đường lối duy nhất mà đoán, cát hung cũng không thể cứ theo một định lệ mà đoán được đâu).
Yếu tri nhất thế chi vinh khô, định khán ngũ hành chi cung vị.
Lập mệnh khả tri quý tiện, an thân tiện hiểu căn cơ.
(Nên biết rằng tươi tốt hay khô héo của một đời được định bởi việc xem ngũ hành cung vị.
Chỗ lập Mệnh có thể thấy được sang quý hay tiện – hèn kém, nơi an Thân có thể hiểu được căn cơ của bản thân đương số.
Một đời vinh nhục bại thành
Cần xem tường tận ngũ hành của cung
Lập Mệnh quý tiện định chung
An Thân biết có vẫy vùng được chăng).
Vinh giả phú quý dã, khô giả bần tiện dã, nhân sinh nhất mệnh chi trung nhi kiến chi dã,
thử tinh cát tá tinh cát vận hạn cát, tắc nhất sinh an nhiên.
(Người phú quý thì vinh vậy, kẻ bần tiện thì nhục vậy, xem trong số mệnh của con người mà biết vậy.
Chủ tinh cát, phụ tá tinh cát, vận hạn cũng cát thì sẽ được một đời an nhiên tự tại).
Vận hạn hung nhi lưu niên ngộ sát kiếp, định tai hối nhi ngôn.
Ngũ hành tức mộc hỏa thổ kim thủy dã,như dần thân tị hợi tắc vi tứ sinh, tý ngọ mão dậu tắc vi tứ bại, thìn tuất sửu mùi tắc vi tứ mộ, tứ sinh lâm quan đế vượng tắc vi phú quý,
ngộ suy bại tử mộ tuyệt tắc vi bần tiện, mộ khố thai dưỡng tắc vi dung thường.
(Vận hạn hung mà lưu niên gặp phải Sát Kiếp thì nhất định là gặp tai họa, hối hận… mà nói.
Ngũ hành tức là Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy vậy.
Như Dần Thân Tị Hợi thì là tứ Sinh, Tý Ngọ Mão Dậu là tứ Bại, Thìn Tuất Sửu Mùi là tứ Mộ,
nếu tứ Sinh mà Lâm Quan Đế Vượng thì là phú quý, gặp Suy Bại Tử Mộ Tuyệt thì là bần tiện,
Mộ khố Thai Dưỡng thì là trung dung bình thường).
Lập mệnh tại ngũ hành sinh vượng chi cung tắc phú, tử tuyệt chi cung tắc bần, an thân tại sinh vượng chi cung tắc quý, tử tuyệt chi cung tắc tiện, thử diệc thừa thượng văn nhi ngôn chi.
(Lập Mệnh tại cung có ngũ hành Sinh Vượng thì giàu, còn nếu lập Mệnh ở cung có ngũ hành
Tử Tuyệt thì nghèo, an Thân tại cung có ngũ hành Sinh Vượng thì quý, còn nếu an Thân ở cung có ngũ hành Tử Tuyệt thì ti tiện, tới đây thì cũng cứ theo như lý luận ở trên mà nói (tức, cứ phỏng theo đó mà suy diễn,…))
Đệ nhất tiên khán phúc đức,
tái tam tế khảo thiên di,
phân đối cung chi thể dụng,
định tam hợp chi nguyên lưu.
Mệnh vô chính diệu, yểu chiết cô bần.
Cát hữu hung tinh, mỹ ngọc hà điểm.
Ký đắc căn nguyên kiên cố, tu tri hợp cục tương sinh, kiên cố tắc phú quý duyên thọ, tương sinh tắc tài quan chiêu trứ.
(Thứ nhất khán Phúc Đức,
rồi khảo cứu kỹ Thiên Di,
Phân ra Thể Dụng của đối cung,
xác định căn nguyên lưu chuyển của tam hợp.
Mệnh vô chính diệu, chẳng nghèo khổ hoặc cô đơn thì chết yểu.
Cát tinh mà có kèm hung tinh thì coi như là ngọc đẹp mà có tì vết.
Phàm đã được căn nguyên vững chắc, cần hợp cục tương sinh,
vững chắc thì phú quý diên thọ, tương sinh thì tài quan hiển nhiên rõ ràng).
Mệnh hảo Thân hảo Hạn hảo đáo lão vinh xương,
Mệnh suy Thân suy Hạn suy chung thân khất cái.
(Mệnh tốt, Thân tốt, Hạn tốt thì tới già vẫn được vinh quang hưng thịnh
Mệnh suy, Thân suy, Hạn suy thì cả đời chỉ có đi ăn mày).
Giáp Quý giáp Lộc thiểu nhân tri,
Giáp Quyền giáp Khoa thế sở nghi.
(cách “giáp Quý, giáp Lộc” này trên đời ít người gặp được, Quý ở đây chính là các sao tôn
quý và các quý nhân tinh,
Cách “giáp Quyền, giáp Khoa” thì ở đời cũng hiếm như thế.)
Giáp Nhật giáp Nguyệt thùy năng ngộ,
Giáp Xương giáp Khúc chủ quý hề.
(cách “giáp Nhật giáp Nguyệt” thì người ta thường thông minh, cách “giáp Xương giáp Khúc” là chủ về quý).
QNB chú: giáp ở đây là cả cặp cùng ở ngay 2 lân cung bên cạnh của bản cung.
Giáp Không giáp Kiếp chủ bần tiện,
Giáp Dương giáp Đà vi khất cái.
(cách “giáp Không giáp Kiếp” là chủ nghèo hèn, cách “giáp Kình giáp Đà” là số ăn mày).
Liêm Trinh Thất Sát phản vi tích phú chi nhân,
Thiên Lương Thái Âm khước tác phiêu bồng chi khách.
(Liêm Trinh Thất Sát khi gặp phản cách là trở thành người giàu có
Thiên Lương Thái Âm mà phản cách thì lại thành ra khách phiêu bồng).
Tiền bần hậu phú tu hoàn mệnh trị Vũ Tham,
Tiên phú hậu bần chích vi vận phùng Kiếp Sát.
(Trước nghèo sau giàu bù lại là bởi Mệnh gặp Vũ Tham
Trước giàu sau nghèo chỉ vì vận hạn gặp Kiếp Sát).
Xuất thế vinh hoa Quyền Lộc thủ Tài Quan chi vị,
Sinh lai bần tiện Kiếp Không lâm Tài Phúc chi hương.
(Ra đời được vinh hoa đó là bởi có Quyền Lộc đóng ở các cung Tài Bạch, Quan Lộc,
Cuộc đời nghèo hèn ấy là do Kiếp Không lâm vào các cung Tài Bạch và Phúc Đức).
Văn Khúc Vũ Khúc vi nhân đa học đa năng,
Tả Phụ Hữu Bật bản tính khắc khoan khắc hậu.
(Văn Khúc Vũ Khúc là người học nhiều và có nhiều năng lực,
Tả Phụ Hữu Bật thì bản tính khoan thai, nhân hậu).
Thiên Phủ Thiên Tướng nãi y lộc chi thần,
Vi sĩ vi quan định chủ hanh thông chi triệu.
(Thiên Phủ và Thiên Tướng là thần của tước lộc,
Là kẻ sĩ là kẻ quan đều định chủ điềm được hanh thông).
Miêu nhi bất tú Khoa danh hãm ư hung hương,
Phát bất chủ tài Lộc chủ triền ư nhược địa.
(Mầm non nhú lên mà chẳng phát triển được, là vì Khoa bị hãm ở nơi hung hiểm, Phát mà lại không chủ tiền tài, ấy là do Lộc đi vào triền độ của chỗ nhược địa).
Thất Sát triều đẩu tước lộc vinh xương,
Tử Phủ đồng cung chung thân phúc hậu.
(Thất Sát chầu Đẩu thì quan tước lợi lộc được tốt tươi hưng thịnh,
Tử Phủ đồng cung thì cả đời được hưởng phúc dày).
Tử Vi cư Ngọ vô sát tấu vị chí tam công,
Thiên lâm Tuất hữu tinh phù yêu kim y tử.
(Tử Vi cư Ngọ mà không có sát tinh tụ tập vây chiếu thì tước vị cỡ Tam Công, Thiên Phủ ở Tuất có các sao phù trợ thì được mang đai vàng áo tía – ý nói quan phục cao cấp)
Khoa Quyền Lộc củng danh dự chiêu chương,
Vũ Khúc miếu viên uy danh hách dịch.
(Khoa Quyền Lộc củng chiếu thì rõ ràng có tên tuổi và vinh dự,
Vũ Khúc nhập miếu thì uy danh cũng lẫy lừng, long trọng).
Khoa minh Lộc ám vị liệt tam thai,
Nhật Nguyệt đồng lâm quan cư hầu bá.
(có cách “Khoa minh Lộc ám”, tức có Khoa ở tam phương tứ chính còn Lộc ở giáp cung hoặc
ám hợp, thì tước vị cỡ Tam Thai – Tam Thái, Tam Công, có cách “Nhật Nguyệt đồng lâm”, tức là có Nhật Nguyệt cùng chiếu về bản cung, thì làm quan được phong Hầu, phong Bá).
Cự Cơ đồng cung công khanh chi vị,
Tham Linh tịnh thủ tướng tướng chi danh.
(Cự Cơ đồng cung thì có tước vị cỡ Công hầu khanh tướng
Tham Linh tịnh thủ thì được nổi danh là tướng tài).
Thiên Khôi Thiên Việt cái thế văn chương,
Thiên Lộc Thiên Mã kinh nhân giáp đệ.
(Có Khôi Việt thì là người có tài văn chương cái thế,
Có Lộc Mã thì cũng đỗ đạt thủ khoa khiến người ta nể phục).
Tả Phụ Văn Xương hội cát tinh tôn cư bát tọa,
Tham Lang Hỏa Tinh cư miếu vượng danh chấn chư bang.
(Tả Phụ Văn Xương hội với các cát tinh thì chỗ ngồi tôn quý, quan cao cấp
Tham Lang Hỏa Tinh cùng cư nơi miếu vượng thì uy danh chấn động các nước láng giềng).
Cự Nhật đồng cung quan phong tam đại,
Tử Phủ triều viên thực lộc vạn chung.
(Cự Nhật đồng cung thì ba đời được gia phong quan chức
Tử Phủ chầu mệnh viên thì được hưởng lộc ăn tới hàng vạn chung – bổng lộc hậu hĩnh).
Khoa Quyền đối củng dược tam cấp ư vũ môn,
Nhật Nguyệt tịnh minh tá cửu trùng ư nghiêu điện.
(Có Khoa Quyền, 1 đối cung và 1 tam hợp củng chiếu thì như cá chép vượt vũ môn hóa rồng,
Có Nhật Nguyệt cùng sáng rực rỡ thì được phò tá cho bậc quân vương nơi cung điện).
Phủ Tướng đồng lai hội mệnh cung toàn gia thực lộc,
Tam hợp minh châu sinh vượng địa ổn bộ thiềm cung.
(Phủ Tướng mà cùng đến hội tụ ở Mệnh cung thì cả nhà có của ăn của để, có lộc,
Tam hợp mà có (Nguyệt) sáng như ngọc ở nơi vượng địa thì ung dung dạo bước cung trăng).
Thất Sát Phá Quân nghi xuất ngoại,
Cơ Nguyệt Đồng Lương tác lại nhân.
(Thất Sát Phá Quân thích hợp / cần phải đi ra bên ngoài,
Cơ Nguyệt Đồng Lương thì hợp làm quan lại).
Tử Phủ Nhật Nguyệt cư vượng địa đoán định công hầu khí,
Nhật Nguyệt Khoa Lộc sửu cung trung định thị phương bá công.
(Tử Phủ Nhật Nguyệt mà ở chỗ vượng địa thì đoán định là được tước vị Công, Hầu,
Nhật Nguyệt Khoa Lộc ở trong cung Sửu thì định là có làm quan đến tước Bá, tước Công).
Thiên Lương Thiên Mã hãm phiêu đãng vô nghi,
Liêm Trinh Sát bất gia thanh danh viễn bá.
(Thiên Lương Thiên Mã cùng chỗ lạc hãm, thì đoán là số phiêu đãng mà khỏi cần nghi ngờ,
Liêm Trinh không bị thêm sát tinh thì thanh danh được gia phong, lừng lẫy).
Nhật chiếu lôi môn phú quý vinh hoa,
Nguyệt lãng thiên môn tiến tước phong hầu.
(Có cách “Nhật chiếu lôi môn” – Mặt Trời chiếu từ cửa nhà sấm – tức là Thái Dương ở cung Mão, thì được phú quý vinh hoa,
Có cách “Nguyệt lãng thiên môn” – Mặt Trăng sáng đẹp ở cửa trời – tức là Thái Âm ở cung Tuất Hợi (chỗ quẻ Càn) thì được tăng tước vị, được phong Hầu).
Dần phùng Phủ Tướng vị đăng nhất phẩm chi vinh,
Mộ phùng Tả Hữu tôn cư bát tọa chi quý.
(Ở cung Dần gặp Phủ Tướng chầu về là được thăng tiến vẻ vang tới hàm nhất phẩm,
Ở Mộ cung mà có Tả Hữu thì chỗ ngồi làm quan cao cấp, tôn quý).
Lương cư Ngọ vị quan tư thanh hiển,
Khúc ngộ Lương tinh vị chí thai cương.
(Thiên Lương ở Ngọ là vị trí của người làm quan vô tư thanh liêm vẻ vang,
Văn Khúc gặp Thiên Lương chỗ miếu vượng thì tước vị cỡ Tam Thai, Tam Công).
Khoa Lộc tuần phùng Chu Bột hân nhiên nhập tướng,
Văn tinh ám củng Cổ Nghị doãn hĩ đăng khoa.
(Hạn gặp Khoa Lộc thì Chu Bột vui mừng được Lưu Bang phong làm tướng quân,
Có Văn tinh ám củng mà Cổ Nghị được đỗ đại khoa, thời Hán Văn Đế).
Kình Dương Hỏa Tinh uy quyền xuất chúng,
Tham Vũ đồng hành uy trấn biên di.
(Kình Dương và Hỏa Tinh đồng cung đắc địa thì uy quyền xuất chúng,
Tham Vũ đồng hành thì oai phong trấn áp được các nơi ngoài biên cương).
Lý Quảng bất phong Kình Dương phùng ư Lực Sĩ,
Nhan Hồi yểu chiết Văn Xương hãm ư Thiên Thương.
(Lý Quảng không được Hán Văn Đế phong tước vì Kình Dương gặp Lực Sĩ,
Thày Nhan Hồi bị chết yểu là do Văn Xương hãm ở chỗ Thiên Thương).
Trọng Do uy mãnh Liêm Trinh nhập miếu ngộ tướng quân,
Tử Vũ tài năng Cự tú Đồng Lương xung thả hợp.
(Tử Lộ, tức Trọng Do, oai phong dũng mãnh là do Liêm Trinh miếu gặp Tướng Quân,
Vương Hàn, tức Tử Vũ, có tài năng ấy bởi Cự Môn xung mà Đồng Lương hợp chiếu).
Dần Thân tối hỉ Đồng Lương hội,
Thìn Tuất ứng hiềm hãm Cự Môn.
(Ở chỗ Dần Thân thì rất mừng có được Đồng Lương tụ hội,
Nơi Thìn Tuất thì lại ngại có Cự Môn hãm lâm vào).
Lộc đảo Mã đảo kị Thái Tuế chi hợp Kiếp Không,
Vận suy hạn suy hỉ Tử Vi chi giải hung ách.
Cô bần đa hữu thọ,
Phú quý tức yểu vong.
(Có cách “Lộc đảo”, “Mã đảo”, tức là Lộc Mã bị Không Vong án ngữ, thì rất kị gặp năm hạn
có Kiếp Không hợp chiếu,
Vận suy hạn suy thì rất mừng được Tử Vi để mà giải hung ách.
Nghèo đói thì lại được thọ,
Phú quý thì phải chết non).
Điếu Khách Tang Môn Lục Châu hữu đọa lâu chi ách,
Quan Phù Thái Tuế Công Dã hữu luy tiết chi ưu.
(Hạn có Điếu Khách Tang Môn nên nàng Lục Châu vướng ách nhảy lầu,
Vận gặp Quan Phù Thái Tuế nên chàng Công Dã phiền với gông xiềng).
Hạn chí Thiên la Địa võng Khuất Nguyên nịch thủy nhi thân vong,
Vận ngộ Địa Kiếp Thiên Không Nguyễn Tịch hữu bần cùng chi khổ.
(Hạn tới chỗ Thiên La Địa Võng nên Khuất Nguyên ôm phiến đá nhảy sông Mịch La mà chết,
Vận gặp Địa Kiếp Thiên Không nên Nguyễn Tịch nát rượu lâm vào cảnh cực khổ bần cùng).
Văn Xương Văn Khúc hội Liêm Trinh táng mệnh yểu niên,
Mệnh Không hạn Không vô cát tấu công danh thặng đặng.
(Xương Khúc hội Liêm Trinh hãm thì dễ chết non,
Mệnh và hạn đều gặp Không Vong, lại không có cát tinh tụ tập thì công danh lận đận).
Sinh phùng Thiên Không do như bán thiên chiết sí,
Mệnh trung ngộ Kiếp kháp như lãng lý hành thuyền.
(Mệnh có Thiên Không – tức sao Địa Không của ta, thì giống như giữa lưng trời gãy cánh,
Địa Kiếp thủ Mệnh thì đúng là như đi thuyền trên sóng nước, tròng trành lênh đênh).
Hạng Vũ anh hùng hạn chí Thiên Không nhi táng quốc,
Thạch Sùng hào phú hạn hành Địa Kiếp dĩ vong gia.
(Hạng Vũ anh hùng thế mà hạn đến Thiên Không – tức sao Địa Không của ta, thì mất nước,
Thạch Sùng giàu vậy mà hạn tới Địa Kiếp cũng tan nhà).
Lã hậu chuyên quyền lưỡng trùng Thiên Lộc Thiên Mã,
Dương phi hảo sắc tam hợp Văn Khúc Văn Xương.
(Bà Lã Hậu chuyên quyền là do cách lưỡng trùng Lộc Mã,
Dương quý phi đẹp mà dâm là bởi tam hợp có Văn Khúc Văn Xương).
Thiên Lương ngộ Mã nữ mệnh tiện nhi thả dâm,
Xương Khúc giáp Trì nam mệnh quý nhi thả hiển.
(Thiên Lương với Mã cùng hãm vào nữ mệnh thì vừa dâm vừa tiện,
Xương Khúc giáp Đan Trì, Quế Trì thì nam Mệnh vừa quý lại vừa vinh hiển).
Cực cư Mão Dậu đa vi thoát tục chi tăng,
Trinh cư Mão Dậu định thị công tư lại bối.
(Tử Vi cư Mão Dậu thì thường dễ thoát tục mà đi tu,
Liêm Trinh cư Mão Dậu thì định là phường quan lại cấp thấp).
Tả Phủ đồng cung tôn cư vạn thừa,
Liêm Trinh Thất Sát lưu đãng thiên nhai.
(Tả Phụ và Thiên Phủ đồng cung thì vị trí (ngồi trong triều) rất cao,
Liêm Trinh Thất Sát thủ mệnh thì phiêu đãng chân trời góc biển).
Đặng Thông ngạ tử vận phùng Đại Hao chi hương,
Phu Tử tuyệt lương hạn đáo Thiên Thương chi nội.
(Đặng Thông chết đói là do vận gặp chỗ của Đại Hao,
Khổng Tử bị hết sạch lương thảo là vì hạn vào trong chỗ của Thiên Thương).
Linh Xương La Vũ hạn chí đầu hà,
Cự Hỏa Kình Dương chung thân ải tử.
(Hạn gặp Linh Xương La Vũ thì dễ gieo mình xuống sông,
Cách Cự Hỏa Kình Dương thì cả đời dễ thắt cổ tự vẫn).
Mệnh lý phùng Không bất phiêu lưu chủ tật khổ,
Mã đầu đới kiếm phi yểu chiết tắc hình thương.
(Chỗ cung Mệnh mà gặp Không thì nếu chẳng phiêu đãng lưu lạc sẽ bị bệnh tật khốn khổ,
Có cách “Mã đầu đới kiếm” thì không chết non cũng sẽ bị hình phạt, hình khắc, thương tật).
Tý Ngọ Phá Quân gia quan tiến lộc,
Xương Tham cư mệnh phấn cốt toái thi.
(Ở chỗ Tý Ngọ có Phá Quân thì được tăng tiến về tài lộc, quan chức,
Tham Lang Văn Xương đồng cung lạc hãm thì dễ bị tai nạn tan xương nát thịt).
Triều Đẩu ngưỡng Đẩu tước lộc vinh xương,
Văn Quế Văn Hoa cửu trùng quý hiển.
(Chầu và ngưỡng về chỗ của Tử Phủ thì thường được hưng thịnh vinh hoa về tước lộc,
Có Xương Khúc miếu đắc thì được quý hiển tột bực).
Đan Trì, Quế Trì tảo toại thanh vân chi chí,
Hợp Lộc củng Lộc định vi cự phách chi thần.
(Gặp Nhật Nguyệt miếu vượng thì được toại lòng thỏa chí tang bồng,
Được Lộc hợp và củng chiếu thì nhất định là người tài năng cự phách).
Âm Dương hội Xương Khúc xuất thế vinh hoa,
Phụ Bật ngộ Tài Quan y phi trứ tử.
(Nhật Nguyệt gặp Xương Khúc thì ra đời được vinh hoa phú quý,
Ở Tài Quan mà có Tả Hữu thì được mặc áo tía, áo lụa đào – ám chỉ quan phục cao cấp).
Cự Lương tương hội Liêm Trinh tinh, hợp Lộc uyên ương nhất thế vinh.
(Cự Lương hội với Liêm Trinh lại có song Lộc hợp chiếu thì một đời được vinh hiển).
Vũ Khúc nhàn cung đa thủ nghệ,
Tham Lang hãm địa tác đồ nhân.
(Vũ Khúc ở nhàn cung thì đa phần là làm nghề thủ công,
Tham Lang ở chỗ hãm địa thì làm anh đồ tể chuyên giết mổ gia súc).
Thiên Lộc triều viên thân vinh quý hiển,
Khôi tinh lâm mệnh vị liệt tam thai.
(Lộc Tồn mà chầu cung Mệnh thì tấm thân được vinh quang quý hiển,
Khôi Việt đóng vào Mệnh vị thì cũng được tước vị cỡ ngôi Tam Công).
Vũ Khúc cư Càn Tuất Hợi thượng, tối phạ Thái Âm phùng Tham Lang.
(Vũ Khúc ở Càn cung Tuất Hợi, rất sợ Thái Âm gặp Tham Lang).
Hóa Lộc hoàn vi hảo, hưu hướng Mộ trung tàng.
(Hóa Lộc chiếu về mệnh là hay, đừng nằm ở trong Mộ cung).
Tý Ngọ Cự Môn thạch trung ẩn ngọc,
Minh Lộc ám Lộc cẩm thượng thiêm hoa.
(Cự Môn ở Tý Ngọ là như ngọc ẩn ở trong đá,
Minh Lộc ám Lộc là như áo gấm được thêm hoa).
Tử Vi Thìn Tuất ngộ Phá Quân, phú nhi bất quý hữu hư danh.
(Tử Vi ở Thìn Tuất gặp Phá Quân, giàu mà chẳng quý chỉ có hư danh).
Xương Khúc Phá Quân phùng hình khắc đa lao lục,
Tham Vũ Mộ trung cư tam thập tài phát phúc.
(Xương Khúc với Phá Quân gặp nhau, thì có sự hình khắc, cuộc đời nhiều lận đận,
Tham Vũ cư ở trong cung tứ Mộ, sau ba mươi tuổi thì phát tài phát phúc).
Thiên Đồng Tuất cung vi phản bối, Đinh nhân hóa cát chủ đại quý.
Cự Môn Thìn Tuất vi hãm địa, Tân nhân hóa cát Lộc tranh vanh.
(Thiên Đồng ở Tuất là hãm địa, nhưng với người tuổi Đinh thì Thiên Đồng hóa Quyền, gọi là
hóa cát, như thế lại thành ra chủ đại quý.
Cự Môn ở Thìn Tuất là hãm địa, nhưng với người tuổi Tân thì Cự Môn hóa Lộc, gọi là hóa
cát, như thế lại thành ra được tài lộc cao chót vót).
Cơ Lương Dậu thượng hóa cát giả, túng ngộ tài quan dã bất vinh.
(Thiên Cơ, Thiên Lương khi ở trên cung Dậu dù có gặp được hóa cát ở Tài Quan thì cũng
không vinh hiển về công danh quan chức được ?!!!).
Nhật Nguyệt tối hiềm phản bối nãi vi thất huy,
Mệnh Thân định yếu tinh cầu khủng sai phân số.
(Nhật Nguyệt rất ngại quay lưng vào nhau vì như thế là mất ánh sáng, lạc hãm,
Phân định chỗ trọng yếu Mệnh Thân thì yêu cầu phải tinh tế, vì sợ có sai số).
Âm chất diên niên tăng bách phúc, chí vu hãm địa bất tao thương.
(Âm đức của tổ tông và số đã định trước là thọ là có thể khiến cho tăng bách phúc, dẫu có đến chỗ hãm địa cũng không bị tổn thương).
Mệnh thực vận kiên cảo điền đắc vũ
Mệnh suy hạn nhược nộn thảo thao sương,
(Mệnh có thực lực, vận lại vững chắc thì như ruộng lúa được mưa tưới tắm,
Mệnh mà suy, hạn lại nhược kém thì giống như cỏ non gặp phải sương dầm).
Luận Mệnh tất suy tinh thiện ác,
Cự Phá Kình Dương tính tất cương.
(Luận mệnh tất phải suy sao thiện sao ác,
Cự Môn Phá Quân Kình Dương mà thủ mệnh thì tính tình tất sẽ cương cường, cứng rắn).
Phủ Tướng Đồng Lương tính tất hảo,
Hỏa Kiếp Không Tham tính bất thường.
(Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Đồng, Thiên Lương thì tính tình rất tốt,
Hỏa Tinh, Địa Kiếp, Địa Không, Tham Lang thì tính khí thất thường).
Xương Khúc Lộc Cơ thanh tú xảo,
Âm Dương Tả Hữu tối từ tường.
(Xương Khúc Lộc Cơ đều thanh tú và khéo kéo,
Nhật Nguyệt Tả Hữu thì đều nhân từ, ân cần).
Vũ Phá Trinh Tham xung hợp khúc toàn cố quý,
Dương Đà Thất Sát tương tạp hỗ kiến tắc thương.
(Vũ Khúc Phá Quân Liêm Trinh Tham Lang xung hợp khiến được phú quý trọn vẹn lâu dài,
Kình Dương Đà La Thất Sát gặp tạp hỗ sát hung tinh thì tất sẽ bị thương tật).
Tham Lang Liêm Trinh Phá Quân ác
Thất Sát Kình Dương Đà La hung.
(Tham Lang Liêm Trinh Phá Quân là tác tính ác cho người có nó,
Thất Sát Kình Dương Đà La thì tính tình cũng hung ác).
Hỏa Tinh Linh Tinh chuyên tác họa
Kiếp Không Thương Sứ họa trùng trùng.
(Hỏa Linh thường gây ra tai họa
Gặp Kiếp Không Thương Sứ thì hao tổn mất mát, tai họa trùng trùng).
Cự Môn Kị tinh giai bất cát,
Vận Thân Mệnh hạn kị tương phùng.
Canh kiêm Thái Tuế Quan Phù chí,
Quan phi khẩu thiệt quyết bất không.
Điếu Khách Tang Môn hựu tương ngộ,
Quản giáo tai bệnh lưỡng tương công.
(Cự Môn và hóa Kị thì đều chẳng đẹp chút nào,
Thân Mệnh và vận hạn rất e ngại gặp phải.
Nếu thêm Thái Tuế Quan Phù đến,
Quan tai khẩu thiệt nhất định không thể không có
Lại gặp cả Điếu Khách với Tang môn
Đảm bảo là vừa bị tai họa vừa bị bệnh tật).
Thất Sát lâm Thân chung thị yểu,
Tham Lang nhập Mệnh tất vi xướng.
(Thất Sát hãm ở cung an Thân thì chết non,
Tham Lang hãm ở cung Mệnh thì làm ca kỹ).
Tâm hảo mệnh vi diệc chủ thọ,
Tâm độc mệnh cố diệc yểu vong.
(Tâm tốt thì mệnh nhỏ bé cũng được sống thọ,
Tâm ác độc thì mệnh vững chắc cũng chết non).
Kim nhân mệnh hữu thiên kim quý, vận khứ chi thì khởi cửu trường.
Số nội bao tàng đa thiểu lý, học giả tu đương tử tế tường.
(Người nay mệnh quý ngàn vàng vậy, Vận vụt trôi qua há mãi sao.
Trong số ít nhiều tàng lý lẽ, học giả xem kỹ để tỏ tường).
(Tử vi đẩu số ca phú tập thành – Quách Ngọc Bội)