Trong Đẩu Số, dùng cung Mệnh để luận đoán mệnh cách của người đó là cao hay thấp, nó chủ về thực chất của vận thế. Nếu cung Mệnh trong tinh bàn hiển thị cách cục cao, thì khó gặp đại hạn và lưu niên quá xấu. Trái lại, nếu cung Mệnh trong tinh bàn hiển thị cách cục thấp, thì sẽ khó gặp đại hạn và lưu niên quá tốt, bất quá chỉ thuận lợi nhất thời mà thôi. Do đó có thể thấy sự quan trọng của cung Mệnh.
Cung Mệnh đối nhau với cung Thiên Di ở tứ chính, và tương hội với cung Quan với cung Tài ở tam phương hội cung. Cũng chính là nói, chúng có thể ảnh hưởng đến thực chất của vận trình, những tao ngộ như xuất ngoại, và mối quan hệ với người ở nơi xa hay người ngoại quốc, và các yếu tố như sự nghiệp phát triển có thuận lợi toại ý hay không (quan), tài phú có được như ý hay không,.v.v…
Do đó cung Mệnh trong tinh bàn Đẩu Số là then chốt chủ yếu để luận đoán. Xem xét tổ hợp các sao của cung Mệnh, hầu như đã có thể định được đại khái vận thế của một đời người.
Còn cung Thân, theo thuyết thông thường, là dùng để luận đoán sự phát triển Hậu Thiên của người đó. Nếu cung Mệnh cát mà cung Thân cũng cát, đương nhiên cuộc đời nhiều thuận lợi toại ý. Nếu cung Mệnh cát nhưng cung Thân không cát, thì giống như khối ngọc đẹp, nhưng lúc điêu khắc đã xảy ra sai sót, do đó làm giảm đẹp. Nếu cung Mệnh không cát mà cung Thân cũng không cát, thì cũng giống như gỗ xấu không được điêu khắc, đời người đương nhiên giảm sắc, chỉ có thể khéo vận dụng đại hạn và lưu niên (nhân mệnh), lấy nỗ lực hậu thiên để bổ cứu.
Thiên Cơ độc thủ tại Tý – Ngọ
Thiên Cơ tại Tý, Ngọ cung đều là độc tọa, mà lại nhập miếu, đúng là xem như cung vị có khả năng phát huy tối thượng đặc tính của Thiên Cơ. Do vì đối cung cùng Cự Môn hội hợp, chỉ cần Cự Môn bất Hóa Kị, liền bất hội chiêu nhạ thị phi khẩu thiệt, ngược lại chủ là người điều hành giỏi (bạn sự hữu điều lí), phản ứng mẫn duệ mà lại có khẩu tài cơ biến. Thông thường mà nói, Thiên Cơ và Cự Môn xung đối, nếu đắc Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Thiên Khôi, Thiên Việt hội chiếu, có thể chức chưởng uy quyền, trở thành lĩnh đạo nhân viên trong đại xí nghiệp, hoặc thủ trưởng trong chính phủ bộ môn. Nhưng canh ngộ Lộc Tồn, Thiên Mã củng chiếu, thì càng thêm tài nguyên phong hậu. Nếu Văn Xương, Văn Khúc giáp Mệnh (không thể giáp được), thì chủ là người thông minh ưu tú, có thể tòng sự văn nghệ sự nghiệp, cũng thích nghi tòng sự công tác truyền bá môi giới. Nhưng nếu như có Cát diệu lai hội, mà lại vừa kiến Sát diệu, nếu tòng sự chính trị hoặc thương nghiệp, dù có thể bảo quý, nhưng bất nại cửu (không bền vững), bất như lợi dụng tính chất của Sát diệu để làm xu tị. Thông thường mà nói, người hội Hóa Kị thích nghi tòng sự truyền bá công tác; ngộ Kình Dương thì có thể tòng sự khoa kĩ công nghệ, canh kiến Thiên Hình, có thể tác ngoại khoa y sinh; ngộ Hỏa Linh hoặc Dương Đà, thì thích nghi chuyên môn kĩ nghệ mưu sinh.
Nữ mệnh Thiên Cơ độc tọa Tý Ngọ, thông minh cơ xảo, nhưng tính hảo lộng quyền bính, duy cũng trì gia hữu đạo. Tối hiềm Thiên Cơ Hóa Kị, khả năng là người chịu kích thích mà ngoạn lộng cảm tình (đùa giở với tình cảm); nếu đối cung Cự Môn Hóa Kị, canh hội Sát diệu, thích nghi trì hôn, không thì thương phu khắc tử.
Đại hạn lưu niên Mệnh cung kiến Thiên Cơ độc tọa Tý Ngọ, sự nghiệp có xu thế biến thiên, cần phải xem xét tường tận tinh diệu sở hội diệu mà xác định cát hung.
Thiên Cơ độc thủ tại Sửu – Mùi
Thiên Cơ tại Sửu, Mùi lưỡng cung là lạc hãm độc tọa, đúng là đặc điểm cùng với đối cung có Thiên Lương xung đối chiếu. Cổ nhân nói: “Cơ Lương hội hợp thiện đàm binh”, cũng không biểu hiện là người có tài năng quân sự, chỉ biểu hiện là người hoan hỷ đàm luận đề tài người khác không thuần thục, hơn nữa biểu hiện ra là loại người có tư thái hùng tài vĩ lược, nhưng tất phải năng ngôn thiện biện, mẫn cảm cơ biến. Thông thường mà nói không thích nghi tòng kinh thương, có thể trở thành liêu mạc nhân tài. Thiên Cơ Hóa Lộc, cận chủ tài lai tài khứ, rất khó tích tụ. Bất quá chỉ dể có đột ngột đưa đến tiến tài hạnh vận. Nếu Thiên Cơ Hóa Quyền, thì có khả tăng gia quyền thế, hoặc có cơ hội tiếp nhận quyền hành (kết thức quyền yếu), đối với sự nghiệp phát triển cùng địa vị bản thân có bang trợ. Thiên Cơ tại Sửu Mùi cung Hóa Khoa, tất cần phải đắc Văn tinh tương giáp hoặc củng chiếu, về sau này tài năng sẽ được biểu hiện. Nhưng lại chủ là người thông minh xuất chúng, khẩu tài tiện tiệp, phản ứng mẫn duệ. Tại Sửu Mùi cung với Thiên Cơ tối hiềm Sát Kị tịnh chiếu. Cổ nhân nói: “Thiên Cơ gia ác sát đồng cung, cẩu thâu thử thiết”, tức chỉ tại Sửu Mùi nhị cung mà nói. Nhưng tất cần phải tứ Sát Hình Kị tịnh chiếu, vô Cát diệu hội hợp, mà lại kiến Âm Sát, Thiên Hư mới đúng là vậy, nhưng cũng chủ nhân phẩm đê tiện hèn hạ, cũng có thể dựa vào hậu thiên tu dưỡng cùng nỗ lực tiền hành thêm vào bổ cứu.
Nữ mệnh Thiên Cơ tại Sửu Mùi cung, Hóa Kị đa phần về mặt cảm tình với ưu lự và tỏa chiết, tại phương diện ái ác du di đa biến, nội tâm thống khổ bất túc là ngoại nhân đạo.
Đại hạn lưu niên Mệnh cung phùng, bất lợi kiến dị tư thiên (hay thay đổi đứng núi này trông núi nọ). Nếu Hóa Kị cùng Sát diệu tịnh lâm, thì hữu bất đắc bất biến chi thế, hơn nữa biến động đắc bất lợi.
Thiên Cơ và Thái Âm đồng cung tại Dần – Thân
Thiên Cơ Thái Âm tại Dần, Thân nhị cung đồng độ, Tài bạch cung Thiên Đồng, Sự nghiệp cung Thiên Lương, đúng là một cái điển hình với “Cơ Nguyệt Đồng Lương” tinh hệ. Cổ nhân nói: “Cơ Nguyệt Đồng Lương tác lại nhân”, bản cung là tối tiêu chuẩn. Bản cung tinh diệu với đặc chất, đúng là xử sự có điều lí, hơn nữa nhất bản nhất nhãn (ngăn nắp đâu ra đấy), năng án kí định phương châm dữ kế hoa bạn sự (có phương châm và kế hoạch làm việc), cho nên thích nghi với công chức, hoặc đảm nhậm xí nghiệp chức vụ. Xã hội hiện đại trọng thị xí nghiệp quản lí, tối thích nghi với người lấy bản cung làm Mệnh cung. Mặt khác, “Cơ Nguyệt Đồng Lương” cách cục, cũng chủ là người thiên cận về âm nhu một phía, nam tính dể tiếp cận dị tính khác giới, hiểu rõ tâm lí nữ nhân; nữ tính cũng chủ dung mạo mĩ lệ, cảm tình phong phú, dể đắc nam tính truy cầu. Nhưng loại tính cách âm nhu này, lại cũng có thể phát triển thành nội hoài quyền thuật, công tâm kế, sái tiểu thủ đoạn (vui đùa bằng thủ đoạn nhỏ). Đây cũng chính là nhân tố cơ bản của “Tác lại nhân”. Cho nên vô luận Nam mệnh hay Nữ mệnh, không thích nghi Văn Xương Văn Khúc đồng độ hội chiếu, do vì gia tăng thêm Văn tinh điểm chuế, thái quá âm nhu, không những dể rơi vào hoa nhi bất thật, mà còn dể dàng xảo ngôn lệnh sắc lấy làm hoan tâm để thảo biệt nhân (lừa người khác). Bản cung có cách cục, tối nghi kiến Tả Phụ Hữu Bật và Lộc Tồn, thì năng tăng gia khí thế, kiêm mà lại khiến cho tâm chí cao thượng. Nếu kiến Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa tịnh chiếu, thì năng phú năng quý, tuy dù cư liêu mạc, cũng chưởng chức quyền. Duy Thiên Cơ Hóa Lộc tại bản cung, về tài bạch có dấu hiệu tổn hại sau khi tiến tài (tổn hậu phương chiêu tiến tài tích tượng), kiến Sát thì nhập bất phu chi (thu không bù chi); kiến Cát thì xuất tiểu tài tiến đại tài.
Nữ mệnh Thiên Cơ Thái Âm, ngoại mạo mĩ hảo, nội tâm thì đa khốn nhiễu, Thiên Cơ tái hóa Kị tinh, thì đa sầu thiện cảm, đối với dị tính khác giới hốt lãnh hốt nhiệt, nhược tức nhược li. Nếu tứ Sát trùng đột, thích nghi tác kế thất, không thì hình khắc bất miễn. Canh ngộ Đào hoa chư diệu, thì thích nghi tòng sự biểu diễn nghệ thuật, hội Thiên Đồng chủ ái hảo âm nhạc, có khả năng khảo lự suy xét tòng sự ca nghệ. Nhưng vẫn dể rơi vào dị tính truy cầu.
Đại hạn lưu niên Mệnh cung Thiên Cơ Thái Âm, cũng chủ có biến động, nếu hội Thiên Mã, thì thường xuất ngoại công tác, canh kiến Lộc Tồn, lợi xuất môn cầu tài. Thông thường mà nói, kiến Cát diệu thì biến động như ý, có thể thêm tài phúc; kiến Hung diệu thì chịu hoàn cảnh ảnh hưởng, dục biến động mà bất như ý, hoặc bị bức tác bất lợi với cải biến.
Thiên Cơ và Cự Môn đồng cung tại Mão – Dậu
Thiên Cơ Cự Môn tại Mão, Dậu nhị cung đồng độ. Đây là cái tổ hợp có một cái đặc điểm, tức là Sự nghiệp cung vô chính diệu, tất cần phải tá nhập tinh diệu từ Phu thê cung (hình 4). Bởi vậy, Tam phương Tứ chính tự biến thành đúng là tổ hợp Thiên Cơ Cự Môn, Thái Âm Thái Dương cùng Thiên Đồng. “Trung Châu Phái” sở truyền, có một cái “Âm Dương Đồng Cơ Cự” tinh hệ, bản cung tức là chủng loại kết cấu này. Cái tổ hợp này với đặc sắc, chủ là người khẩu thiệt tiện cấp, phản ứng mẫn duệ, nhưng tố sự lại tán (lười biếng), dể dàng hữu đầu vô vĩ. Hơn nữa chịu ảnh hưởng của Thái Âm Thái Dương, nhân tình cũng hốt lãnh hốt nhiệt, kiêm mà lại khí lượng hiệp ải (hẹp hòi). Chủng loại Mệnh cục này, tối bất nghi kiến Sát Kị chư diệu, tuy dù phú quý cũng bất nại cửu, kị kiến Kình Dương, Đà La, đa bối diện thị phi, hơn nữa tảo vận khảm khả, thối thứ tổ nghiệp. Nữ mệnh bất lợi hôn nhân, dể phùng cảm tình tỏa chiết. Thiên Cơ Hóa Lộc, đắc tài tất phí thần thiệt; nếu Thiên Cơ Hóa Quyền, thì kinh lịch gian tân mà sự nghiệp hữu thành, tối lợi tòng sự công vụ, hoặc phục vụ tại đại xí nghiệp, nhưng nếu kinh thương, ba chiết tất đại. Nếu Thiên Cơ Hóa Khoa, thì vẫn chủ gian tân, nhưng có lợi về cạnh tranh, hơn nữa thường có thể vì nguyên nhân tân lao sách hoa mà đắc hưởng danh dự.
Nếu Cự Môn Hóa Lộc, chủ là người khẩu thiệt tiến tài, tuy dù đái phù hoạt, nhưng vẫn thích nghi tòng sự truyền bá sự nghiệp; Cự Môn Hóa Quyền, có sẳn thuyết phục lực. Tại bản cung thủ Mệnh giúp tăng gia xã hội địa vị, có thể nguyên nhân vì trung thành công tác mà chưởng quyền. Nhưng nếu Thiên Cơ Hóa Kị, hoặc Cự Môn Hóa Kị, thì chủ là người đa vô vị với tư lự, mà lại tác sự do dự, thường dể lỡ mất cơ duyên, đến nỗi cảm đáo hoài tài bất ngộ. Thiên Cơ thường mang đến cơ hội trong thoáng chốt tức thì, không chú ý nắm chắc thành công (bả ác), không thể quyết đoán kịp thời (đương cơ lập đoán bất khả). Thiên Cơ Cự Môn đồng cung, kiến Lộc Tồn hoặc Hóa Lộc, hoặc đối cung kiến Lộc Tồn, nếu vô Sát diệu, cùng chủ sự nghiệp có biểu hiện, được người khác đề bạt, địa vị sùng cao. Nếu kiến Sát diệu thì bình thường, duy vẫn có địa vị nhất định. Nhưng như vô Cát diệu, chư Sát tịnh thấu, thì bình sinh tất có hiểm trở.
Nữ mệnh Thiên Cơ Cự Môn, cũng bất nghi Hóa Kị, không thì dể dàng thất túc (sẩy chân sa ngã), hơn nữa hoan hỷ ngoạn hỏa (đùa với lửa). Nếu Mệnh cung tại Mão, tá nhập Dậu cung với Thiên Cơ Cự Môn; hoặc Mệnh cung tại Dậu, tá nhập Mão cung với Thiên Cơ Cự Môn, thì sở hội hợp không thật đúng là Thái Âm, Thái Dương, Thiên Lương, tính chất liền có biến hóa. Chủ yếu với phân biệt, đúng là càng thêm lợi phát huy khẩu tài; Tố sự càng thêm có điều lí, nhưng cũng có sẳn nội tài, có quyền thuật, mà cảm tình phương diện thì tương đối đạm bạc.
Đại hạn lưu niên Mệnh cung kiến Thiên Cơ Cự Môn, như vô Cát diệu hội hợp, chủ khẩu thiệt thị phi phiền nhiễu. Canh kiến Sát Kị, thì chư đa bất trữ (không yên), xử sự đa biến, đến nỗi ưu tâm xung xung (tiều tụy). Nếu kiến Phụ Tá chư cát, thì thích nghi biến động. Kiến Lộc Tồn Thiên Mã, lợi biến động để cầu tài.
Thiên Cơ và Thiên Lương đồng cung tại Thìn – Tuất
Thiên Cơ Thiên Lương tại Thìn, Tuất nhị cung đồng độ. Tài bạch cung hội Thiên Đồng Thái Âm, cho nên cũng là “Cơ Nguyệt Đồng Lương cách”. Nhưng Thiên Cơ Thiên Lương tọa Mệnh, lại cùng với Thiên Cơ Thái Âm tọa Mệnh bất đồng; Cơ Lương chủ hảo biện luận, thiện từ lệnh (đối đáp), lấy ngoại tài làm trọng, cùng với Thiên Cơ Thái Âm có nội tài bất đồng. Nhưng do vì ảnh hưởng của Thiên Lương, bản cung tinh diệu liền có một cái đặc chất, tuy dù có Cát tinh giao hội, nhưng phú quý bất năng lưỡng toàn. Hoặc phú mà bất nại cửu hưởng, hoặc phú mà sẳn đồ hư danh. Đặc biệt là Thiên Lương bất nghi Hóa Lộc, nếu Hóa Lộc thì tất thành thị phi chi nạo, làm chúng nhân sở giao trách. Cho dù đồng cung với Thiên Cơ Hóa Lộc, cũng đủ để phát sinh ảnh hưởng; không những đắc tài mà bất năng thủ, mà còn dể vì nguyên nhân tiền tài nhạ thị phi phiền nhiễu. Tối nghi Thiên Cơ Hóa Quyền, Thiên Lương Hóa Khoa đồng tụ Mệnh cung (không thể cùng tụ Mệnh cung được), thì có thể giảm thiểu phù động, mà lại tăng gia năng lực bài giải phân tranh của Thiên Lương. Nếu Thiên Cơ Hóa Khoa, không ngoài sẳn đồ hư danh, ngược lại về tâm tư cảm tình dể khốn nhiễu. Nhưng Thiên Cơ Hóa Kị, thì khốn nan trùng trùng, đa ưu đa lự, tuy dù có Thiên Lương bài giải, cũng tất bão thụ hư kinh (chịu nhiều lo sợ vô cớ). Nhưng nếu sự nghiệp cung tá nhập với Cự Môn Thái Dương hóa làm Lộc, Quyền, thì chủ về sự nghiệp được dị tộc nhân đề bạt, hoặc có thể suy xét tòng sự cùng với ngoại quốc nhân có liên quan về công tác. Nhưng kiến Kình Dương, Thiên Hình hội chiếu, thì đúng là pháp luật nhân tài, do vì Thái Dương Cự Môn cùng Thiên Cơ Thiên Lương đều chủ khẩu tài, thích nghi với dẫn dụng điều văn luật lệ.
Thiên Cơ chủ biến hóa phù động, phản ứng mẫn duệ, Thiên Lương thì thủ nguyên tắc, y theo luật lệ, nhị diệu kết hợp, phân tích lực đặc biệt cao cường. Đây đúng là đặc điểm tinh hệ của bản cung. Nhưng ngộ Sát diệu Hình Kị, thì Thiên Lương trái lại hiển lộ ra tính chất cô khắc, vô luận Nam mệnh hay Nữ mệnh, đối với lục thân đều thiếu duyên phận. Thiên Cơ Thiên Lương tối cát hội Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, giúp cho là người kì tài túc dĩ tể kì dụng (đủ tài để dùng), có thể trở thành nhân vật có xã hội địa vị.
Thìn Tuất nhị cung so với nhau (bỉ giác), Thìn cung sở hội với Thiên Đồng Thái Âm cùng với Thái Dương Cự Môn đếu nhập miếu thừa vượng, mà Tuất cung sở hội các sao thì lạc hãm, cho nên Thìn cung so với Tuất cung ưu thế hơn rất nhiều, cách cục giác cao.
Nữ mệnh tối hiềm Thiên Cơ Hóa Kị, hoặc Cự Môn Hóa Kị, hoặc Thái Âm Hóa Kị, nhưng ngộ hợp Kị tinh, canh kiến Không Kiếp Hình Sát, lực hình khắc phu tử thậm trọng sâu nặng. Tuy dù chủ trường thọ, nhưng nhân sinh bất miễn tịch mịch, cho nên tối nghi trì hôn, tử nữ cũng thích nghi trì đắc.
Đại hạn lưu niên kiến Thiên Cơ Thiên Lương, chủ kinh lịch ma phiền tranh phân mới biến động hữu thành. Nhưng nếu Sát Kị trùng trùng, thì biến động nhưng bất như ý.
Thiên Cơ độc thủ tại Tị – Hợi
Thiên Cơ tại Tị, Hợi cung đều là độc tọa. Nhưng tại Tị cung thì, đối cung với Thái Âm nhập miếu; tại Hợi cung thì, đối cung với Thái Âm lạc hãm, cho nên Tị cung so với Hợi cung có tính chất tất yếu tốt đẹp hơn nhiều. Thiên Cơ và Thái Âm đối chiếu, chịu ảnh hưởng của Thái Âm cũng cực kỳ cường liệt, vì vậy vô luận nam hay nữ đều biểu hiện đối với dị tính rất ôn nhu quan tâm chăm sóc (thể thiếp), trọn đời đa cảm tình phát triển. Nữ mệnh đặc biệt dể cùng với dị tính tư sinh tình tố. Nếu Thiên Cơ Hóa Kị hoặc Thái Âm Hóa Kị, thì càng thêm dể dàng phát sinh cơ luyến, nhưng khi người có liên quan lấy tình cảm chân thành đối đãi thì làm cho họ bị tổn thương để làm ký ức đẹp cho mình (đãn đương sự nhân khước dĩ cảm tình đích sang thương tác vi mĩ hảo đích kí ức), do vậy đây dể dàng phát triển thành ngoạn lộng cảm tình. Thiên Cơ và Thái Âm xung đối, tái kiến Kình Dương, chủ nữ tử mĩ diễm bất khả phương vật, càng thêm dể chiêu nhạ dị tính. Thiên Cơ Hóa Lộc, thì Thái Âm tất đồng thời Hóa Kị. Thiên Cơ nếu tại Tị cung, Thái Âm bất úy Hóa Kị, ngược lại lợi về biến động; Thiên Cơ nếu tại Hợi cung, Thái Âm bất nghi Hóa Kị, biến động chưa hẳn có lợi. Thiên Cơ Hóa Quyền, không ngoài tăng gia biến động với chủ động tính; nếu Thiên Cơ Hóa Khoa, thì Thái Âm tất đồng thời Hóa Lộc, lợi về biến động, tài bạch danh dự đồng thời tăng gia, nhưng tất cần phải tân khổ canh vân mà hậu hữu thu hoạch (cày bừa trước rồi thu hoạch sau). Thiên Cơ tại Tị, Hợi nhị cung, bất nghi kiến Sát Kị, chủ là người đa học vô thành, mà lại trọn đời dể mất cơ hội. Ngay sau đó liền khó tránh phiêu bạc, hơn nữa oán giận đầy bụng, thì hoặc tá tửu tiêu sầu, buồn chán thất vọng thị hảo đam mê thực thi tiểu kế để mưu sinh hoạt cho bản thân, cổ nhân xưng là “Thiên Cơ Thái Âm Tị Hợi phùng, hảo ẩm li tông gian giảo trọng” xu tị chi đạo, ở chổ tinh thông nhất môn xảo nghệ để mưu sinh.
Nữ mệnh phùng kết cấu tinh hệ này, tối nghi chú ý sinh hoạt ái tình.
Đại hạn lưu niên Mệnh cung kiến Thiên Cơ độc tọa Tị, Hợi, với biến động cần phải tiến hành thêm vào tiểu tâm lưu ý. Cần phải xem xét tường tận tinh diệu sở hội để xác định cát hung. Nhưng tinh diệu bất cát, không nên hy vọng phát sinh cải biến. Y theo “Trung Châu Phái” sở truyền, phàm Thiên Cơ tọa Mệnh, bất luận cư tại cung viên nào, cùng không thích hợp kiến Tham Lang. Chủ là người ngày đêm vô sự mà bôn mang vất vả; đa vô vị ứng thù, mà lại nhiễm bất lương thị hảo. Nếu Tham Lang kiến Sát Kị, hoặc Mệnh cung Sát diệu hàm tập, chủ là người khi vừa sinh ra, hoặc li tông xuất tự (làm con nuôi), không thì đồng niên tất gặp hư kinh (chết). Nếu Thất Sát cùng Phá Quân hội hợp tại Dần, Mão, Thìn tam cung với Tham Lang, tái kiến Sát diệu, chủ sinh ngoại ý huyết quang chi tai. Tái kiến Không Kiếp Hình Kị mà vô cát Hóa, yểu thọ (chết non).
(Dẫn theo trang huyenhocvadoisong.com)