Chương 47: Quẻ THIÊN PHONG CẤU
64 quẻ dịch lấy từ cuốn “Kinh Dịch – Đạo Của Người Quân Tử” của học giả Nguyễn Hiến Lê.
64 quẻ dịch lấy từ cuốn “Dịch Kinh Đại Toàn” của Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê.
64 quẻ dịch lấy từ cuốn “Bát Tự Hà Lạc – Lược Khảo” của Học Năng.
“Kinh Dịch – Đạo Của Người Quân Tử” của học giả Nguyễn Hiến Lê.
:||||| Thiên Phong Cấu (姤 gòu)
Quẻ Thiên Phong Cấu, đồ hình :||||| còn gọi là quẻ Cấu (姤 gou4), là quẻ thứ 44 trong Kinh Dịch.
* Nội quái là ☴ (:|| 巽 xun4) Tốn hay Gió (風).
* Ngoại quái là ☰ (||| 乾 qian2) Càn hay Trời (天).
Giải nghĩa: Ngộ dã. Tương ngộ. Gặp gỡ, cấu kết, liên kết, kết hợp, móc nối, mềm gặp cứng. Phong vân bất trắc chi tượng: gặp gỡ thình lình, ít khi.
Lời giảng của Tự quái truyện rất ép: Quải là quyết, phán quyết; phán quyết xong rồi thì biết được lành hay dữ, tất có người để gặp gỡ, cho nên sau quẻ Quải tới quẻ Cấn (gặp gở).
Thoán từ
姤: 女壯, 勿用取女.
Cấu: Nữ tráng, vật dụng thú nữ.
Dịch: Gặp gỡ: Con gái cường tráng, đừng cưới nó (cũng có nghĩa là tiểu nhân đương lúc rất mạnh, đừng thân với nó).
Giảng: Trời (Càn) ở trên, gió (Tốn) ở dưới, gió đi dưới trời, tất đụng chạm vạn vật, cho nên gọi là Cấu (gặp gỡ).
Quẻ này một hào âm mới sinh ở dưới (thuộc về tháng 5), đụng với 5 hào dương ở trên, cũng như một người con gái rất cường tráng, đụng với (Cấn) năm người con trái, chống được với 5 người còn trai, hào đó lại bất đắc chính (âm ở vị dương), như người con gái bất trinh, không nên cưới nó.
Thoán truyện đưa thêm một nghĩa khác, trái hẳn, tương truyền là của Khổng tử; một hào âm xuất hiện ở dưới năm hào dương, là âm dương bắt đầu hội ngộ (gặp nhau: cấu), vạn vật nhờ đó sinh trưởng, các phẩm vật đều rực rỡ. Tốt. Lại thêm hào 5 dương cương , trung chính, thế là đạo quân tử được thi hành khắp thiên hạ (cương ngộ trung chính, thiên hạ đại hành dã). Cho nên ý nghĩa chữ “Cấu” này thật lớn lao. Đại tượng truyện chỉ coi tượng quẻ, không để ý tới nghĩa gặp gỡ của quẻ, mà đưa ra lời khuyên người quân tử nên thi hành mệnh lệnh, báo cáo, hiểu dụ khắp bốn phương, như gió thổi vào khắp vạn vật ở dưới trời.
Hào từ
1. 初六: 繫于金柅, 貞吉.有攸往見凶.羸豕孚蹢躅.
Sơ lục: Hệ vu Kim nê, trinh cát; hữu du vãng kiến hung. Luy thỉ phu trịch trục.
Dịch: Hào 1, âm: chặn nó lại bằng cái hãm xe bằng kim khí, thì đạo chính mới tốt; nếu để cho nó (hào 1) tiến lên thì xấu. Con heo ấy tuy gầy yếu, nhưng quyết chắc có ngày nó sẽ nhảy nhót lung tung.
Giảng: Hào âm (tiểu nhân) này mới xuất hiện, phải chặn ngay nó mới được, đừng cho nó tiến lên thì đạo chính của người quân tử mới tốt; nếu để nó tiến lên thì xấu. Vì bây giờ nó tuy còn non, yếu, nhưng một ngày kia nó sẽ mạnh, nhảy nhót lung tung. Đừng nên coi thường nó.
Đó là cách trừ kẻ tiểu nhân mà cũng là cách trừ những tật mới phát sinh.
2. 九二: 包有魚, 无咎.不利賓.
Cửu nhị: Bao hữu ngư, vô cữu; bất lợi tân.
Dịch: Hào 2, dương: nhốt con cá (hào 1) vào trong bọc, không có lỗi; nhưng đừng cho nó (hào 1) gặp khách.
Giảng: Hào 2 này tuy ở sát hào 1, nhưng có đức dương cương , lại đắc trung , cho nên chế ngự được 1, như nhốt lỏng nó trong cái bao (ví hào 2 với con cá vì cá thuộc âm), như vậy không có tội lỗi.
Nhưng 1 chính ứng với hào 4; 4 muốn làm thân với 1 lắm, nó bất trung bất chính, không có đức như 2, sẽ bị 1 mê hoặc mất, cho nên Hào từ khuyên hào 2 phải ngăn không cho 1 gặp 4 (chữ tân là khách, trỏ hào 4).
3. 九三: 臀无膚, 其行次且, 厲, 无大咎.
Cửu tam: Đồn vô phu, kì hành tư thư, lệ, vô đại cữu.
Dịch: Hào 3, dương: như bàn toạ không có da (ngồi không yên mà đứng dậy) đi thì chập chững, có thể nguy đấy, nhưng không có lỗi lớn.
Giảng: Hào 3 này quá cương (dương ở vị dương) , bất trung, muốn có bạn là 1, nhưng hào 2 đã là bạn của 1 rồi; ngó lên trên có hào trên cùng ứng với 3, nhưng cũng là dương như 3, thành thử có vẻ ngồi không an, mà đi thì chập chững, có thể nguy đấy. Nhưng nó đắc chính (dương ở vị dương) nên biết giữ đạo, không mắc lỗi lớn.
4. 九四: 包无魚, 起凶.
Cửu tứ: Bao vô ngư, khởi hung.
Dịch: Hào 4, dương: Trong bọc của mình không có cá, hoạ sẽ phát.
Giảng: Hào này ứng với 1, nhưng bị 2 ngăn không cho gặp (coi lại hào 2), 1 đã như ở trong cái bọc của 2 rồi, cho nên cái bọc của 4 không có gì cả. Sở dĩ vậy cũng do lỗi của 4, bất trung, bất chính, làm mất lòng 1. Người trên mà mất lòng kẻ dưới, thì hoạ sẽ phát.
5. 九五: 以杞包瓜, 含章, 有隕自天.
Cửu ngũ: Dĩ kỉ bao qua, hàm chương, hữu vẫn tự thiên.
Dịch: Hào 5, dương: dùng cây kỉ mà bao che cây dưa, ngậm chứa đức tốt, (sự tốt lành) từ trên trời rớt xuống.
Giảng: Hào này ở địa vị tối cao, dương cương , trung chính, có đức tốt mà không khoe khoang (ngậm chứa đức tốt), bao bọc cho kẻ tiểu nhân ở dưới (hào 1) như cây kỉ, cao, cành lá xum xuê che cây dưa (thuộc loài âm). Như vậy là hợp đạo trời, sẽ được trời ban phúc cho.
6. 上九: 姤其角, 吝, 无咎.
Thượng cửu: Cấu kì giác, lận, vô cữu.
Dịch: Hào trên cùng, dương: gặp bằng cái sừng, đáng hối tiếc, không đổ lỗi cho ai được.
Giảng: Hào này ở trên cùng, thời Cấu (gặp gỡ) cho nên ví với cặp sừng. Gặp nhau mà bằng cặp sừng (đụng nhau bằng sừng) ý nói quá cương – đáng hối tiếc. Mọi sách đều dịch “vô cữu” là không có lỗi mà không giảng tại sau quá cương mà không có lỗi. Riêng Phan Bội Châu hiểu là: không đổ lỗi cho ai được.
***
Quẻ Cấu này khuyên ta:
– Phải chế ngự tiểu nhân (và tật của ta) từ khi nó mới xuất hiện hào 1).
– Muốn chế ngự tiểu nhân thì nên có độ lượng bao dụng có đức trung chính như hào 2, hào 5); nếu quá cương (như hào 3) bất trung bất chính (như hào 4) thì tiểu nhân sẽ không phục mình.
“Dịch Kinh Đại Toàn” của Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê.
44. 天 風 姤 Thiên Phong Cấu
Cấu Tự Quái | 姤 序 卦 |
Quải giả quyết dã. | 夬 者 決 也. |
Quyết tất hữu sở ngộ. | 決 必 有 所 遇 |
Cố thụ chi dĩ Cấu | 故 受 之 以 姤 |
Cấu giả ngộ dã. | 姤 者 遇 也. |
Cấu Tự Quái
Quải là nứt rạn, vỡ rời, tan hoang.
Chia rồi lại gặp, mới ngoan.
Cho nên Cấu mới có đàng theo ngay.
Cấu là gặp gỡ duyên may.
Cấu là một Hào Âm gặp 5 Hào Dương. Vì thế Cấu nghĩa là gặp, ngẫu nhiên mà gặp, không cầu mà gặp. Xét thể quẻ, thì Cấu là gió thổi dưới trời; gió thổi muôn phương, không có vật gì mà không gặp.
Cấu là 1 Âm thoạt sinh để bắt đầu cho chu kỳ Âm trưởng, Dương tiêu, một Âm tự động tìm gặp 5 Dương, nên gọi là Cấu. Cấu, xét về triền năm, thì là tháng 5, sau ngày hạ chí. Cấu là thời kỳ nhân loại bắt đầu bước vào con đường hướng ngoại, ngược lại với Phục là bắt đầu thời kỳ mà nhân loại bước vào con đường hướng nội, để tìm hiểu nội tâm. Thiệu Khang Tiết có 2 câu thơ, để đánh dấu hai thời kỳ quan trọng ấy:
Kiền ngộ Tốn thời, quan nguyệt quật.
Địa phùng Lôi xứ, kiến thiên căn.
Dịch:
Trời nổi gió dông, thông động nguyệt,
Địa phùng Lôi xứ, kiến thiên căn.
(Kiền ngộ Tốn là Thiên Phong Cấu. Nguyệt quật là ngoại cảnh vật chất. Địa phùng Lôi là Địa Lôi Phục. Thiên căn là Thiên lương hay Thiên tính trong con người.)
Trong quẻ Cấu sẽ đề cập đến 2 ý chính:
1. Âm Dương tương ngộ.
2. Phải đề phòng, ngăn chặn không cho tiểu nhân len lỏi vào chính quyền.
I. Thoán.
Thoán từ.
姤 . 女 壯 . 勿 用 取 女 .
Cấu. Nữ tráng. Vật dụng thú nữ.
Dịch.
Cấu là tương ngộ, tương phùng,
Gặp cô gái dữ, thì đừng kết duyên
Thoán từ: Cấu gồm có 1 Hào Âm nằm dưới 5 Hào Dương. Một người đàn bà có đủ bản lãnh đương đầu với 5 người đàn ông, một người đàn bà mà tự ý đi tìm gặp đàn ông như vậy là thứ đàn bà dữ, không nên lấy hạng người ấy làm vợ. Hào Âm đây cũng tượng trưng cho kẻ tiểu nhân muốn len lỏi vào chính quyền, người quân tử phải thận trọng, đừng nên thân cận và cộng tác với họ.
Thoán Truyện.
彖 曰 . 姤 . 遇 也 . 柔 遇 剛 也 . 勿 用 取 女 . 不 可 與 長 也 . 天 地 相 遇 . 品 物 咸 章 也 . 剛 遇 中 正 . 天 下 大 行 也 . 姤 之 時 義 大 矣 哉 .
Thoán viết:
Cấu. Ngộ dã. Nhu ngộ cương dã. Vật dụng thú nữ. Bất khả dữ trường dã. Thiên địa tương ngộ. Phẩm vật hàm chương dã. Cương ngộ trung chính. Thiên hạ đại hành dã. Cấu chi thời nghĩa đại hỹ tai.
Dịch.
Cấu là tương ngộ, tương phùng,
Cương nhu ngẫu nhĩ, duyên đằng gặp nhau.
Gái mà hung dữ, cơ cầu,
Làm sao phối hợp bền lâu cho đành.
Đất trời giải cấu liên minh,
Làm cho vạn vật trở thành tốt tươi,
Cương phùng trung chính, thời thôi,
Khắp cùng thiên hạ gặp thời vàng son,
Gặp mà nên chuyện vuông tròn,
Hợp thời đúng lúc, hỏi còn chi hơn?
Thoán Truyện: Cấu là gặp gỡ, Nhu gặp Cương, Âm gặp Dương. Trong chuyện Kiều có câu:
May thay giải cấu tương phùng,
Gặp tuần đố lá, thỏa lòng tìm hoa.
Một Âm khí thế đang lên, như gái dữ cần phải xa lánh, cần phải đề phòng, thay vì cầu thân để tính kế lâu dài (Cấu. Ngộ dã. Nhu ngộ cương dã. Vật dụng thú nữ. Bất khả dữ trường dã). Sau khi dạy ta nên đề phòng ảnh hưởng của tiểu nhân, Thoán Truyện bàn đến ảnh hưởng tốt đẹp của sự gặp gỡ giữa khí Âm và khí Dương. Trời đất có hòa hài, có gặp gỡ, có cộng tác với nhau, thì vạn vật mới có thể trở nên tốt đẹp được (Thiên địa tương ngộ. Phẩm vật hàm chương dã).
*Áp dụng vào nhân sự, thì gặp gỡ giữa người và người là một điều tối quan hệ. Người anh tài mà gặp người đức độ, thời có thể làm cho thiên hạ trở nên thịnh đạt. Hiểu được nghĩa chữ gặp gỡ, khai thác được sự gặp gỡ là một điều tối quan trọng vậy (Cương ngộ trung chính. Thiên hạ đại hành dã. Cấu chi thời nghĩa đại hỹ tai).
Thuấn gặp Nghiêu; Khương Tử Nha gặp Văn vương; Khổng Minh gặp Lưu Bị đó là những trường hợp điển hình chứng minh rằng anh tài gặp nhau có thể thay đổi được cục diện lịch sử.
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 . 天 下 有 風 . 姤 . 后 以 施 命 誥 四 方 .
Tượng viết:
Thiên hạ hữu phong. Cấu. Hậu dĩ thi mệnh cáo tứ phương.
Dịch.
Tượng rằng:
Cấu là gió thổi dưới trời,
Quân vương truyền lệnh dạy người bốn phương.
Dưới trời có gió là Cấu. Đấng quân vương rao truyền mệnh lệnh ra khắp bốn phương. Trời cao xa không dễ gặp vạn vật, nên lấy gió để kích động vạn vật. Thế là không gặp mà gặp. Quân vương không dễ gặp chính nhân, lấy mệnh lệnh để cải hóa vạn dân. Thế là không gặp mà gặp.
Quẻ Quan thời gió thổi trên mặt đất. Đấng quân vương bắt chước để đi quan sát dân tình trong nước.
Quẻ Cấu thì gió thổi dưới gầm trời. Đấng quân vương bắt chước, làm ra mệnh lệnh để phổ cập đến chúng dân.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện.
Như trên đã nói, quẻ Cấu bao gồm hai ý nghĩa:
– Cấu là gặp gỡ. Đó là nghĩa theo Từ nguyên.
– Cấu là đề phòng, là ngăn chặn ảnh hưởng mới ló dạng của tiểu nhân, đó là nghĩa theo Hào Quái.
Thành thử khi giải thích các Hào, ta thấy có 3 đường lối.
1. Giải Cấu là chế ngự tiểu nhân, đó là theo Ngự Án.
2. Giải Cấu là gặp gỡ, đó là đường lối của Trình Tử.
3. Giải lờ mờ, đó là đường lối của các nhà bình giải.
1. Hào Sơ Lục.
初 六 . 系 于 金. 貞 吉 . 有 攸 往 . 見 凶 . 羸
象 曰 . 豕 孚 踟 躅 . 系 于 金 . 柔 道 牽 也 .
Sơ Lục.
Hệ vu kim nị. Trinh cát. Hữu du vãng. Kiến hung. Luy thỉ phu trịch trục.
Tượng viết:
Hệ vu kim nị, nhu đạo khiên dã.
Dịch.
Dùng cây thắng sắt hãm kìm,
Hãm kìm cho chắc, cho bền, mới hay.
Sanh ra Âm sẽ tiến ngay,
Để cho Âm tiến, có ngày họa hung.
Lợn con mà bỏ đi dông,
Rồi ra lợn sẽ lung tung chạy càn.
Tượng rằng:
Dùng cây thắng sắt hãm kìm,
Vì Âm dắt díu nhau lên dần dần.
Hào Sơ Lục: Ai cũng giải là phải kìm hãm tiểu nhân ngay từ buổi ban sơ. Kìm hãm cho chặt chẽ, phải buộc họ vào nhữmg thắng bằng kim khí (Hệ vu kim nị), như vậy mới mong được an lành (Trinh cát), bằng nếu để họ xổng ra, họ sẽ làm sằng, làm bậy, gây họa hung chẳng sai (Kiến hung). Tiểu nhân như con lợn con còn yếu ớt. Lợn tuy còn yếu thực đấy, nhưng nếu không sớm ngăn chặn đề phòng, chắc chắn nó sẽ có ngày chạy dông, phá phách (Luy thỉ phu trịch trục). Tại sao phải kìm hãm chặt chẽ như vậy? Thưa, nếu để cho Âm Nhu tự do hoạt động, nó sẽ dắt díu nhau cả bầy, cả bọn đến tác hại chẳng sai. Vì thế Tượng viết: Hệ vu kim nị. Nhu đạo khiên dã. (Khiên đây là dắt díu nhau).
Hào này không những dạy ta đề phòng tiểu nhân, mà còn dạy ta đề phòng đừng cho nhân dục manh động, nếu để nhân dục manh động; thì thiên lương kia chẳng mấy chốc là bị chúng khuất lấp.
2. Hào Cửu nhị.
九 二 . 包 有 魚 . 無 咎 . 不 利 賓 .
象 曰 . 包 有 魚 . 義 不 及 賓 也 .
Cửu nhị.
Bao hữu ngư. Vô cữu. Bất lợi tân.
Tượng viết:
Bao hữu ngư. Nghĩa bất cập tân dã.
Dịch.
Cá nằm trong bọc, lỗi chi,
Nhưng mà có khách, đừng chìa cho xem.
Tượng rằng: Có cá trong bao,
Thôi đừng cho khách ngó vào làm chi.
a). Muốn kiềm chế tiểu nhân, không nên dùng bạo lực, mà phải kiểm soát khéo léo. Hãy giữ cho nó đừng có ảnh hưởng lan rộng tới người khác.
b). Sơ đáng lý thì ứng với Tứ, nhưng Hào Nhị đây kề cận với Sơ nên như người câu cá, nhanh chân đến trước đã lượm được cá. Nhị gặp Sơ cũng không phải là đúng lý tự nhiên, nên Nhị không cho ai khác gặp Sơ. Gặp ai khác sẽ lắm chuyện rắc rối. (Trình tử) . Tượng viết: Bao hữu ngư. Nghĩa bất cập tân dã.
3. Hào Cửu tam.
九 三 . 臀 無 膚 . 其 行 次 且 . 厲 . 無 大 咎 .
象 曰 . 其 行 次 且 . 行 未 牽 也 .
Cửu tam:
Đồn vô phu. Kỳ hành thứ thư. Lệ. Vô đại cữu.
Tượng viết:
Kỳ hành thứ thư. Hành vị khiên dã.
Dịch.
Mông mà đét thịt toàn da,
Thời âu đi lại vật vờ, lết lê,
Nếu mà biết được cơ nguy,
Làm sai, âu cũng bớt đi nhiều phần.
Tượng rằng: Đi lại lết lê,
Là vì chẳng được mọi bề thảnh thơi.
Hào Cửu Tam: muốn kiềm chế tiểu nhân (Hào Sơ), nhưng không có địa vị và nhiệm vụ để kiềm chế, vì thế nên ở trong một tình thế nguy hiểm (Lệ). Tuy nhiên xét theo nghĩa lý thì không có gì đáng trách (Vô đại cữu).
Không đúng ngôi vị, nên đứng ngồi không yên, như mông không thịt, đi đứng lết lê (Đồn vô phu. Kỳ hành thứ thư (Ngự Án).
*Tam muốn cầu gặp Sơ, nhưng lại bị Nhị ngăn cách, nên đứng ngồi không yên (Đồn vô phu. Kỳ hành thứ thư). Tuy nhiên sau này, Tam biết chuyện đó là chuyện chẳng hay, nên đâm sợ hãi, không dám làm càn, nên không vấp phải lỗi lớn (Lệ. Vô đại cữu. Trinh cát).
Tượng viết: Bao hữu ngư. Nghĩa bất cập tân dã
Ngự Án giải rằng: đứng ngồi không yên, đi lại khó khăn, vì chưa chế ngự được Sơ Lục.
4. Hào Cửu tứ.
九 四 . 包 無 魚 . 起 凶 .
象 曰 . 無 魚 之 凶 . 遠 民 也 .
Cửu tứ.
Bao vô ngư. Khởi hung.
Tượng viết:
Vô ngư chi hung. Viễn dân dã.
Dịch.
Có bao, mà cá thời không,
Rồi ra phát khởi họa hung có ngày.
Tượng rằng: Không cá mà hung,
Nghĩa là đã ở xa dân mất rồi.
a). Ngự Án giải rằng: Cửu tứ muốn kiềm chế tiểu nhân, mà không có dạ bao dung, lại không biết phương pháp kiềm chế, thì nhẽ nào mà không gặp họa hung được.
b). Trình tử cho Cửu tứ ở ngôi trên, không có đức (Bất trung, bất chính), nên mất lòng kẻ dưới. Người trên mất dân, như bao không cá (Có 1 con cá, Cửu nhị đã chiếm mất rồi). Đã mất dân, tức sẽ gặp họa hung.
Tượng Truyện bình rằng: Cái nguy cơ sở dĩ có, là vì mình đã xa dân vậy (Vô ngư chi hung. Viễn dân dã).
5. Hào Cửu ngũ.
九 五 . 以 杞 包 瓜 . 含 章 . 有 隕 自 天 .
象 曰 . 九 五 含 章 . 中 正 也 . 有 隕 自 天 . 志 不 舍 命 也 .
Cửu ngũ.
Dĩ kỷ bao qua. Hàm chương. Hữu vẫn tự thiên.
Tượng viết:
Cửu ngũ hàm chương. Trung chính dã. Hữu vẫn tự thiên. Chí bất xả mệnh dã.
Dịch.
Cây kỷ bao bọc cây dưa,
Đẹp mà kín đáo, có cơ tốt lành,
Y như rơi tự trời xanh.
Tượng rằng:
Hào năm có đức chẳng phô,
Thiệt là trung chính, đúng như lẽ đời.
Gặp may, âu cũng nhờ trời,
Mệnh trời, lòng há dám rời hôm mai.
a). Hào Cửu ngũ có đia vị lại có trách nhiệm chế ngự tiểu nhân. Vả Cửu ngũ có đức độ, cho nên tiểu nhân tự nhiên qui phục (Ngự Án, Wilhelm, R. G. H. Siu).
b). Người trên như cây kỷ, người dưới như cây dưa. Bậc quân vương biết khuất kỷ, hạ hiền, thì hiền tài tự nhiên sẽ quay về giúp mình; Hữu vẫn tự thiên: Y như tự trời rơi xuống. Ý nói cầu hiền, tất sẽ gặp hiền tài. (Trình tử).
Tượng Truyện cho rằng: Cửu ngũ hàm xúc vẻ đẹp đẽ, là vì đã theo được con đường trung chính (Cửu ngũ hàm chương. Trung chính dã). Mọi sự hay, sẽ như tự trời rơi xuống, là vì Cửu ngũ đã theo đúng thiên lý. (Hữu vẫn tự thiên. Chí bất xả mệnh dã.)
6. Hào Thượng Cửu.
上 九 . 姤 其 角 . 吝 . 無 咎 .
象 曰. 姤 其 角 . 上 窮 吝 也 .
Thượng Cửu.
Cấu kỳ giác. Lận. Vô cữu.
Tượng viết:
Cấu kỳ giác. Thượng cùng lận dã.
Dịch.
Gặp mà vênh vác cái sừng,
Sẽ bề hối hận, đừng hòng trách ai.
Tượng rằng: Gặp vểnh cái sừng,
Cao kiêu cùng cực, liệu chừng ăn năn.
a). Thượng Cửu như 1 ẩn sĩ, xa vời với tiểu nhân, vì thế nên không kiềm chế được tiểu nhân, như vậy cũng đáng xấu hổ. Tuy nhiên, vì họ đã không còn dính líu chuyện đời, nên họ cũng chẳng có lỗi gì (Ngự Án).
b). Người trên mà cao ngạo, thì làm sao mà gặp được người cộng tác. Mình như vậy mà người ta xa mình, thì cái đó là lỗi tại mình, đừng nên trách cứ ai. Sừng đây chỉ sự kiêu kỳ, cứng rắn. Tượng Truyện bình rằng: Cư xử cao ngạo như vậy, thì đáng trách thật (Cấu kỳ giác. Thượng cùng lận dã).
– Giải thích Cấu là kiềm chế cũng có nghĩa của nó, vì nếu không ngăn chặn tiểu nhân, để họ len lỏi vào chính quyền, thì họ sẽ lũng loạn chính quyền.
– Giải thích Cấu là gặp gỡ, cũng có nghĩa là người trên gặp gỡ hạ dân, quân vương gặp gỡ hiền tài.
ÁP DỤNG QUẺ CẤU VÀO THỜI ĐẠI
Cấu là một quẻ quan trọng trong Kinh Dịch, vì nó là đầu đường đi vào chiều Âm, đi ra ngoại cảnh. Thiệu Khang Tiết cho rằng: Cấu là thời kỳ mà ta bị đẩy đưa vào chốn trần ai, cát lầm. Đó là thời kỳ mà chúng ta bị thử thách.
Cuộc đời con người, thường bị chi phối bởi 3 vấn đề: đó là Tình, Tiền, Danh vọng. Cho nên, khi ta còn nhỏ, ta chỉ nhìn thấy vật chất, tiền tài, ta chỉ bị cám dỗ bởi xác thịt, bởi ngoại cảnh. Ta sẽ thấy ta có nhiều môn học như: hát, vẽ, chạy, bơi lội, tập võ nghệ, thể thao, điền kinh, học chữ nghĩa, nghề nghiệp. Thật là thiên thu bất tận. Nghề nào cũng có thể chiếm gần hết đời ta. Càng đi sâu vào một nghề gì, hay vấn đề gì, ta càng thấy nó cao siêu, và dẫu ta dùng cả đời ta vào vấn đề đó, ta vẫn thấy không thỏa mãn, không vừa lòng.
Hơn nữa, nghề nghiệp ta học đều được định giá bằng tiền, và chúng ta thường hỏi nhau là có kiếm được nhiều tiền hay không? Như vậy có phải là đời ta đã bị chi phối bởi Tình, Tiền và Danh vọng hay không? Nhiều người đã vì 3 vấn đề trên, mà bán cả sinh mạng mình. Nhưng có nhiều người không may, làm ăn thất bại, chán nản rồi đâm ra xì ke, ma túy, nghiện ngập, rất là đáng thương hại.
Đi sâu vào cuộc đời, chúng ta phải hết sức thận trọng. Làm cái gì cũng phải tự lượng sức mình, đừng phao phí sức lực. Ta có mạnh khỏe, thì tinh thần ta mới được sung mãn. Phải tránh xa những con đường rượu chè, cờ bạc, sì ke, ma túy. Chúng sẽ dẫn ta vào cửa tử, vào vực thẳm.
Nếu sinh ra đời, mà ta làm được gì ích quốc, lợi dân, thì hay biết bao nhiêu. Đừng nói rằng chúng ta thua kém người, hoặc vô tài, bất tướng. Thực ra người ta thành công hơn ta, chỉ vì họ đã biết cố gắng, chịu thương, chịu khó hơn ta mà thôi. Do đó, chúng ta đừng bao giờ chán nản, khi đứng trước một sự việc gì khó khăn. Phải cố gắng tiến lên, đừng bao giờ lùi bước. Nhớ rằng: Trời hại ta, thì còn cứu được, nếu ta tự hại ta thì không ai có thể cứu ta được.
Tóm lại, quẻ Thiên Phong Cấu dạy ta: Đừng để cho Vật Dục chi phối cuộc đời mình, đến nỗi tán tận lương tâm; và cần phải xa lánh những bè bạn xấu.
“Bát Tự Hà Lạc – Lược Khảo” của Học Năng.
44.Thiên phong cấu
Ðại cương:
Tên quẻ: Cấu là Ngộ (ngẫu nhiên gặp gỡ)
Thuộc tháng 5.
Lời tượng
Thiên Hạ Hữu Phong: Cấu. Hậu dĩ thí mệnh cáo tứ phương
Lược nghĩa
Dưới trời có gió là quẻ Cấu (chỗ nào cũng găp. Nhà vua (nguyên thủ) lấy đấy mà thi hành mệnh lệnh cho thông cáo đi bốn phương.
Hà Lạc giải đoán
Những tuổi Nạp giáp:
Tân: Sửu, Hợi, Dậu
Nhâm hoặc Giáp: Ngọ, Thân, Tuất
Lại sanh tháng 5 là cách công danh phú quý.
THƠ RẰNG:
Gái bé đương đông chẳng đủ lo,
Chiếc thuyền lui tới sóng dềnh to,
Từ đầu ngựa chạy không mang lỗi,
Sợ lệnh truyền sau chửa khắp cho
Hào 1:
Hệ vu kím nị, trinh cát; hữu du vãng, kiến hung; luy thỉ phu trịch trục. Ý HÀO: Răn tiểu nhân nên tự thủ.
MỆNH HỢP CÁCH: Học cổ, hành đạo, tuy không lập được sự nghiệp, nhưng cũng khôn khéo tu thân bảo gia.
MỆNH KHÔNG HỢP: Tài nhỏ, sức ngắn, làm liều, gánh họa.
XEM TUẾ VẬN: Quan chức và Giới sĩ: Bị biếm phạt, khó tiến. Người thường: Gặp quý nhân, tín hữu, hoặc được vàng lụa. Ðàn bà sanh nở. Số xấu thì phòng tật, tụng lo phiền. Ðàn bà không thanh khiết.
Hào 2:
Bao hữu ngư, vô cữu; bất lợi tân. Ý HÀO: Quân tử gặp tiểu nhân, giữ cho nó làm điều chính.
MỆNH HỢ�P CÁCH: Có tài lớn, lượng rộng, dung vật, thương dân.
MỆNH KHÔNG HỢP: Bỉ lận không thích tân bằng, ích mình hại người cố chấp.
XEM TUẾ VẬN: Quan chức: được thăng trật, được hưởng cá vàng cá bạc (?). Giới sĩ: Chẳng có mống gia nhân nào. Người thường: Ðược nhiều vàng lụa, thủy lợi hoặc nô tỳ, phụ nhân có nghén..
Hào 3:
Ðồn vô phu, kỳ hành từ thư lệ, vô đại cữu. Ý HÀO: Cương mà không gặp ai, cũng nguy.
MỆNH HỢP CÁCH: Cầu công danh thì không đủ tài, nhưng làm cho vinh hoa thì thừa sức, hoặc được nhờ tổ nghiệp, giử điền sản.
MỆNH KHÔNG HỢP: Cô lập, gian truân, hoặc đau lưng, đau cẳng, phúc nhỏ.
XEM TUẾ VẬN: Quan chức: Nên lùi bước, bị biếm phạt. Giới sĩ: Tiến thủ được, đỗ bét cao học. Người thường: Bị tai ách hoặc bị đòn.
Hào 4:
Bao vô ngư, khởi hung. Ý HÀO: Mất dân nên xấu.
MỆNH HỢP CÁCH: Quý mà không có địa vị, ở cao mà không có dân, tri- cơ cố thủ thì đỡ tai hại.
MỆNH KHÔNG HỢP: Cầu danh vọng lợi mà mất cơ hội, cô lập, kém về nô bộc.
XEM TUẾ VẬN: Quan chức: Bị về vườn. Giới sĩ: Bị đình giáng. Người thường: Tranh tụng, thị phi. Người già tổn thọ.
Hào 5:
Dĩ kỷ bao qua, hàm chương, hửu vận tự thiên. Ý HÀO: Nói cái đạo lấy dương chế âm vậy.
MỆNH HỢP CÁCH: Khoan hồng đại lượng dung nạp được quần sinh, hưởng phú quý.
MỆNH KHÔNG HỢP: Cũng có học vấn độ lượng tuy không vinh hiển, nhưng cũng là phú hữu.
XEM TUẾ VẬN: Quan chức: Có tài lương đống quốc gia. Người thường: Ðược người tôn quý dắt dẫn và thâu hoặch bất ngờ. Ðàn bà có sanh nở. Người già giảm thọ.
Hào 6:
Cấu kỳ dác, lận, vô cữu. Ý HÀO: Cương không gặp ai hết.
MỆNH HỢP CÁCH: Danh cao, tiếng sạch, xuất chúng, chùm đời, nói thẳng luận ngay, nhưng bị nghị luận xuyên tạc rất nhiều, nên lộc vị chẳng ổn.
MỆNH KHÔNG HỢP: Chí khí cương đại, bất cận nhân tình, kết thù mua oán, luôn luôn vất vả.
XEM TUẾ VẬN: Quan chức: Ngồi cao, đứng đầu, phòng bị chê trách. Giới sĩ: Tiến thủ, lên cao. Người thường: Không kẻ giúp, kinh doanh khó.
(Dẫn theo trang huyenhocvadoisong.com)