Chương 41: Quẻ HỎA TRẠCH KHUÊ
64 quẻ dịch lấy từ cuốn “Kinh Dịch – Đạo Của Người Quân Tử” của học giả Nguyễn Hiến Lê.
64 quẻ dịch lấy từ cuốn “Dịch Kinh Đại Toàn” của Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê.
64 quẻ dịch lấy từ cuốn “Bát Tự Hà Lạc – Lược Khảo” của Học Năng.
“Kinh Dịch – Đạo Của Người Quân Tử” của học giả Nguyễn Hiến Lê.
||:|:| Hỏa Trạch Khuê (睽 kuí)
Quẻ Hỏa Trạch Khuê, đồ hình ||:|:| còn gọi là quẻ Khuê 睽 (kui2), là quẻ thứ 38 trong Kinh Dịch.
* Nội quái là ☱ (||: 兌 dui4) Đoài hay Đầm (澤).
* Ngoại quái là ☲ (|:| 離 li2) Ly hay Hỏa (火).
Giải nghĩa: Quai dã. Hỗ trợ. Trái lìa, lìa xa, hai bên lợi dụng lẫn nhau, cơ biến quai xảo, như cung tên. Hồ giả hổ oai chi tượng: con hồ (cáo) nhờ oai con hổ.
Gia đạo đến lúc cùng thì có người trong nhà chia lìa, chống đối nhau, cho nên sau quẻ Gia nhân tới quẻ Khuê. Khuê nghĩa là chống đối, chia lìa.
Thoán từ
睽.小事吉.
Khuê: Tiểu sự cát.
Dịch: Chống đối: việc nhỏ thì tốt.
Giảng: đoài (chằm) ở dưới Ly (lửa). chằm có tính thấm xuống, lửa có tính bốc lên, trên dưới không thông với nhau mà càng ngày càng cách xa nhau.
Quẻ này xấu nhất trong Kinh dịch, ngược hẳn lại với quẻ Cách. Chỉ làm những việc nhỏ cá nhân thì hoạ may được tốt.
Thoán truyện giảng thêm: Đoài là thiếu nữ, Ly là trung nữ, hai chị em ở một nhà mà xu hướng trái nhau (em hướng về cha mẹ, chị hướng về chồng), chí hướng khác nhau, cho nên gọi là khuê.
Tuy nhiên Ðoài có đức vui, Ly có đức sáng, thế là hòa vui mà nương tựa vào đức sáng. Lại thêm hào 5, âm nhu mà tiến lên ở ngôi cao, đắc trung mà thuận ứng với hào 2, dương dương ở dưới, cho nên bảo việc nhỏ thì tốt.
Xét trong vũ trụ, trời đất, một ở trên cao, một ở dưới thấp, vốn là khác nhau, chia lìa nhau, vậy mà công hoá dục vạn vật là của chung trời đất. Trai gái, một dương, một âm, vẫn là trái nhau, vậy mà cảm thông với nhau. Vạn vật tuy khác nhau mà việc sinh hào cùng theo một luật như nhau. Thế là trong chỗ trái nhau vẫn có chỗ giống nhau, tìm ra được chỗ “đồng” đó trong cái “dị”, là biết được cái diệu dụng (công dụng kỳ diệu) của quẻ Khuê, của thời Khuê.
Thoán truyện khuyên ta như vậy. Đại tượng truyện ngược lại khuyên ta ở trong chỗ “đồng” có khi nên “dị”. Ví dụ người quân tử bình thường hành động cũng hợp thiên lý, thuận nhân tình như mọi người (đó là đồng); nhưng gặp thời loạn, đại chúng làm những việc trái với thiên lý thì không ùa theo họ, mà tách riêng ra, cứ giữ thiên lý, dù bị chê bai, bị gian khổ cũng chịu (đó là dị). Vậy không nhất định là phải đồng mới tốt, dị (chia lìa) cũng có lúc tốt.
Hào từ
1. 初九: 悔亡, 喪馬, 勿逐, 自復. 見惡人.无咎. n Sơ cửu: Hối vong, táng mã, vật trục, tự phục kiến ác nhân, vô cữu.
Dịch: Hào 1, dương: hối hận tiêu hết; mất ngựa đừng tìm đuổi, tự nó sẽ về: gặp kẻ ác rồi mới tránh được lỗi.
Giảng: Hào này có tính cương , ở địa vị dưới, trong thời chống đối nhau, thì tất ít kẻ hợp với mình, hành động thì sẽ bị hối hận; nhưng may ở trên có hào 4 cũng dương cương , ứng với mình, tức như có bạn đồng chí, cứ chờ đợi rồi sẽ gặp mà bao nhiêu khó khăn, ân hận sẽ tiêu hết. đối với kẻ ác thì tuy không ưa cũng đừng nên tỏ ra, cứ làm bộ vui vẻ giao thiệp họ, để họ khỏi thù oán.
2. 九二: 遇主于巷, 无咎.
Cửu nhị: Ngộ chủ vu hạng, vô cữu.
Dịch: Hào 2, dương: gặp chủ trong ngõ hẹp (do đường tắt) không có lỗi.
Giảng: Hào này dương cương đắc trung, ứng với hào 5, âm nhu đắc trung, nếu ở trong quẻ Thái (thời thông thuận) thì rất tốt; nhưng ở trong quẻ Khuê (thời chống đối nhau) thì kém vì hào 5 âm nhu có ý kiêng nể hào 2 dương cương, do đó, 2 muốn gặp 5 thì phải dùng đường tắt, rình 5 trong ngõ hẹp như tình cờ gặp nhau vậy. Không có lỗi gì cả, vì thái độ đó chỉ là quyền biến thôi.
3. 六三: 見輿曳, 其牛掣; 其人天且劓.无初有終.
Lục tam: Kiến dư duệ, kì ngưu xệ (hay xiệt);
Kì nhân thiên thả nghị, vô sơ hữu chung.
Dịch: Hảo, âm: Thấy xe dắt tới, nhưng con bò bị (hào 4) cản, không tiến được; như người bị xâm vào mặt, xẻo mũi, mới đầu cách trở, sau hòa hợp với nhau.
Giảng: Hào 3 bất chính (dương mà ở vị âm), ứng với hào trên cùng cũng bất chính. Vì ứng với nhau nên cầu hợp với nhau, 3 muốn tiến lên gặp hào ứng với nó, nhưng bị hào 4 ở trên ngăn chặn, như cỗ xe đã dắt tới rồi mà con bò bị cản, không tiến được. Lại thêm bị hào 2 ở dưới níu kéo lại. Hào 3 phải chống lại 4 và 2, xô xát với chúng mà bị thương ở mặt ở tai (chữ thiên [天 ] ở đây có nghĩa là bị tội xâm vào mặt, chữ nghị [劓] có nghĩa là bị tội xẻo mũi). Nhưng rốt cuộc là (2 và 4) vẫn không thắng được chính (3) và 3 vẫn hòa hợp được với hào trên cùng.
4. 九四: 睽孤, 遇元夫, 交孚, 厲无咎.
Cửu tứ: Khuê cô, ngộ nguyên phu, giao phu, lệ vô cữu.
Dịch: Hào 4, dương: ở thời chia lìa chống đối mà cô lập; nếu gặp được người trai tốt (nguyên phu), mà chí thành kết hợp với nhau (giao phu) thì dù có gặp nguy, kết quả cũng không có lỗi.
Giảng: hào 4 này cô lập vì là dương mà bị hai hào âm bao vây, người trai tốt đây là hào 1, cùng đức (dương) với 4.
5. 六五: 悔亡, 厥宗噬膚, 往, 何咎.
Lục ngũ: hối vong, quyết tôn phệ phu, vãng, hà cữu.
Dịch: Hào 5 âm, hối hận tiêu hết; nếu người cùng phe với mình cắn vào da mình (hết sức giúp đỡ mình) thì tiến đi, không có lỗi gì cả.
Giảng: Hào này không đắc chính (âm mà ở vị dương), ở vào thời chống đối, đáng lẽ xấu, mà nhờ có đức trung, lại có hào 2 dương cương ứng với mình, nên không xấu nữa, hối hận tiêu tan hết. Được vậy là nhờ hào 2 chịu đứng vào một phe với mình, rất thân thiết với mình, như cắn chặt vào da mình.
6. 上九: 睽孤, 見豕負塗, 載鬼一車.先張之弧, 後說之弧, 匪寇, 婚媾.往遇雨則吉.
Thượng cửu: Khuê cô, kiến thỉ phụ đồ, tải quỉ nhất xa. Tiên trương chi hồ, hậu thoát chi hồ, phỉ khấu, hôn cấu. Vãng ngộ vũ tắc cát.
Dịch: Hào trên cùng, dương: ở thời chia lìa mà cô độc (sinh nghi kỵ), thấy con heo đội đầy bùn, thấy chở quỉ đầy một xe. Mới đầu giương cung để bắn, sau buông cung xuống, xin lỗi rằng mình không muốn làm hại hào 3 mà muốn cầu hôn. (Hai bên hòa hợp nhau, vui vẻ) như sau khi nắng lên, gặp cơn mưa, tốt lành gì hơn?
Giảng: Ở vào thời chia lìa, người ta hay nghi kỵ nhau, hào cuối cùng này, dương cương ở địa vị tối cao, không tin ai ở dưới cả, cho nên bị cô độc. Ngay hào 3 âm, chính ứng với mình mà cũng bị mình nghi kỵ, vì 3 ở kẹt vào giữa 2 hào dương, cho rằng 3 theo phe 2 hào dương đó mà chống với mình. Vì nghi kỵ, nên thấy 3 như con heo đội bùn, lại tưởng xe mình chở một bầy quỉ muốn hại mình. Do đó mà đâm hoảng, giương cung muốn bắn 3, nhưng nhờ vẫn còn chút minh mẫn (vì ở trên cùng ngoại quái Ly) nên sau nghĩ lại, buông cung xuống, xin lỗi 3: “Tôi không phải là giặc (kẻ thù) muốn làm hại em đâu, mà trái lại muốn cầu hôn với em” Hết nghị kỵ rồi, hai bên hòa hợp vui vẻ như sau khi nắng lâu gặp trận mưa rào, và cùng giúp nhau cứu đời.
Văn thật là bóng bẩy, tâm lý cũng đúng: Phan Bội Châu khen là “đạo lý rất tinh thâm mà văn tự cũng ly kỳ biến hoá”.
***
Quẻ Khuê là quẻ xấu nhất trong Kinh Dịch nhưng kết quả lại không có gì xấu. Sáu hào thì có ba hào “vô cửu”, một hào “hối vong” một hào “hữu chung” (hòa hợp với nhau), nhất là hào cuối lại “cát nữa. Như vậy thì trong cái hoạ vẫn có mầm phúc.
“Dịch Kinh Đại Toàn” của Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê.
38. 火 澤 睽 HỎA TRẠCH KHUÊ
Khuê Tự Quái | 睽 序 卦 |
Gia đạo cùng tất quai | 家 道 窮 必 乖 |
Cố thụ chi dĩ Khuê | 故 受 之 以 睽 |
Khuê giả quai dã. | 睽 者 乖 也 |
Khuê Tự Quái
Gia Nhân bàn chuyện nhân gia.
Nhà không khéo trị, hoá ra quải gàng.
Cho nên, Khuê mới ló dàng.
Khuê là gàng quải, xốn xang, chia lìa.
Khuê là chia rẽ, là chống đối nhau, là không hợp tác với nhau. Sự chia rẽ, sự bất hợp tác ấy đã được hình hiện trong quẻ Khuê. Quẻ Khuê, trên có Ly là Hỏa; dưới có Đoài là Trạch, là hồ. Lửa thời bay lên, nước hồ thì lắng xuống, như vậy có bao giờ hợp tác cùng nhau được.
Quẻ Khuê, trên có Ly là con gái giữa, dưới có Đoài là con gái út. Hai chị em, tuy sống bên nhau, mà tâm sự mỗi người gửi một phương, ước mơ của mỗi người đi một ngả, có bao giờ hợp với nhau đâu.
I. Thoán.
Thoán từ.
睽. 小 事 吉.
Khuê. Tiểu sự cát.
Dịch. Thoán từ.
Gặp thời Khuê quải chia ly.
Làm công chuyện nhỏ, dễ bề hanh thông.
Thoán từ nói: Khi mà nhân tâm đã ly tán, thì dĩ nhiên không thực hiện được đại công, đại sự. Lúc ấy chỉ nên làm những việc thường, việc nhỏ, mới nên công.
Thoán Truyện.
彖 曰. 睽. 火 動 而 上. 澤 動 而 下. 二 女 同 居. 其 志 不 同 行. 說 而 麗 乎 明. 柔 進 而 上 行. 得 中 而 應 乎 剛. 是 以 小 事 吉. 天 地 睽. 而 其 事 同 也. 男 女 睽. 而 其 志 通 也. 萬 物 睽. 而 其 事 類 也. 睽 之 時 用 大 矣 哉.
Thoán viết:
Khuê. Hỏa động nhi thượng. Trạch động nhi hạ. Nhị nữ đồng cư. Kỳ chí bất đồng hành. Duyệt nhi lệ hồ minh. Nhu tấn nhi thượng hành. Đắc trung nhi ứng hồ cương. Thị dĩ tiểu sự cát. Thiên địa Khuê. Nhi kỳ sự đồng dã. Nam nữ Khuê. Nhi kỳ chí thông dã. Vạn vật Khuê. Nhi kỳ sự loại dã. Khuê chi thời dụng đại hỹ tai.
Dịch. Thoán Truyện.
Khuê là đôi ngả phân kỳ,
Lửa thì bay bốc, hồ thì lắng sâu.
Chị em tuy ở với nhau,
Nhưng mà chí hướng gót đầu chia phôi.
Vui nương ánh sáng cho vui,
Mềm mà thẳng tiến, để trồi lên cao.
Đắc trung, lại cứng ứng vào,
Cho nên tiểu sự thế nào cũng hay.
Đất trời, đôi ngả phân phôi,
Nhưng mà công việc, thời thôi một vành.
Gái trai, đôi ngả phân trình,
Nhưng mà ý chí, tâm tình cảm thông.
Muôn loài cách biệt giống giòng,
Nhưng mà công việc cũng không quải gàng
Sự đời ngang trái dở dang,
Mà dùng nên chuyện, ấy trang hiền tài.
Sở dĩ còn làm được những công trình nhỏ, là vì con người tuy chia rẽ, nhưng chưa đến nỗi xấu. Họ vẫn còn biết ưa chuộng, và còn thích bám víu vào những gì quang minh, đẹp đẽ (Duyệt nhi lệ hồ minh). Họ vẫn còn ao ước muốn vươn lên (Nhu tiến nhi thượng hành).
Lục ngũ vẫn còn đắc trung, và vẫn ứng được với Cửu nhị là Dương cương (Đắc trung nhi ứng hồ cương).
Cũng như nói: thời Khuê quải, chia ly, tuy vẫn có minh quân, hiền thần, nhưng đôi đàng còn cách trở, chưa gặp gỡ được nhau. Vì thế nên tạm thời hãy thi hành những công chuyện nhỏ đã (Thị dĩ tiểu sự cát).
Thường ra, thì sự chia ly, chống đối sẽ sinh ra bế tắc. Nhưng trong trời đất này, nhiều khi sự chia ly, chỉ là một sự phân cực của toàn thể duy nhất. Như vậy chia ly, phải hiểu là phân công, để dễ bề tác thành một đại công, đại sự. Trời đất, nam nữ, vạn vật, tưởng chừng như chia rẽ, chống đối nhau, mà kỳ thực luôn hợp tác nhau để sáng tạo và biến hóa, để cho vũ trụ ngày thêm thành toàn. (Duyệt nhi lệ hồ minh. Nhu tiến nhi thượng hành. Đắc trung nhi ứng hồ cương. Thị dĩ tiểu sự cát).
Cho nên sống trong một thế giới tưởng chừng như bị gàng quải, chia phôi, trong một vũ trụ mông mênh, muôn đường, muôn ngả, muôn nước, muôn nhà, mà tìm ra được mối manh hướng đạo, tìm ra được điểm tương đồng, mà có thể lợi dụng được mọi hoàn cảnh, mọi tình thế, để hoàn thiện mình, chẳng phải là cái hay sao? (Thiên địa Khuê. Nhi kỳ sự đồng dã. Nam nữ Khuê. Nhi kỳ chí thông dã. Vạn vật Khuê. Nhi kỳ sự loại dã. Khuê chi thời dụng đại hỹ tai).
Tóm lại, Thoán Truyện dạy ta hai bài học:
1. Gặp thời Khuê quải, phân kỳ, nhân tâm ly tán, người quân tử không nên sốt ruột, hãy thực hiện những công trình nhỏ đã, như vậy mới là biết thời.
2. Người quân tử phải biết lợi dụng mọi hoàn cảnh ngang trái, đối nghịch nhau để mà hoàn thiện mình. Như vậy mới tài, mới khéo.
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰. 上 火 下 澤. 睽. 君 子 以 同 而 異.
Tượng viết:
Thượng hỏa hạ trạch. Khuê. Quân tử dĩ đồng nhi dị.
Dịch. Tượng rằng:
Lửa trên hồ nước là Khuê.
Ngoài đồng, trong dị, vốn lề hiền nhân.
Nước và lửa không hề pha trộn với nhau được; ngay khi kề cận nhau mà thể chất đôi bên cũng chẳng hề bao giờ chung lộn. Người quân tử cũng vậy, đừng bao giờ để cho trần ai, tục lụy làm hoen ố tâm can. Trong khi giao tiếp với những hạng phàm phu, tục tử, vẫn phải luôn luôn giữ cho tròn phẩm hạnh cao khiết của mình. Người quân tử tu đạo, tuy bề ngoài vẫn hòa đồng với người, nhưng kỳ thực, phẩm cách và chí hướng bên trong hết sức khác người. (Thượng hỏa hạ trạch. Khuê. Quân tử dĩ đồng nhi dị.)
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Cửu.
初 九. 悔 亡. 喪 馬 勿 逐 . 自 復 . 見 惡 人 . 無 咎.
象 曰. 見 惡 人 . 以 辟 咎 也 .
Sơ Củu:
Hối vong. Táng mã vật trục. Tự phục. Kiến ác nhân. Vô cữu.
Tượng viết:
Kiến ác nhân. Dĩ tỵ cữu dã.
Dịch. Sơ Cửu.
Khuê ly nhưng vẫn chẳng sao,
Ngựa đi mặc ngựa, sức nào săn ne?
Ngựa đi, rồi ngựa lại về,
Ác nhân dẫu gặp, ai chê được nào?
Tượng rằng: Gặp cả ác nhân,
Cốt sao tránh khỏi ăn năn, phàn nàn.
Trong thời Khuê ly, gàng quải, nhân tâm ly tán, mình vẫn tránh được lỗi lầm để khỏi phải phàn nàn về sau. Lúc ấy, bè bạn ta có thể bỏ ta, ta cũng không nên níu kéo họ lại mà chi. Cứ để họ tự do ra đi. Sau này thời thế đổi thay, họ sẽ tự ý trở lại. Cũng y như ngựa mình chạy đi, không cần đuổi theo, nó sẽ trở về (Táng mã vật trục. Tự phục). Lúc ấy quanh ta đầy kẻ ác nhân, ta không thể nào tránh né họ được. Vậy thì cứ đường hoàng mà gặp họ (Kiến ác nhân. Vô cữu). Chẳng những ta không có lỗi, mà đó còn là cách lánh được họa hoạn nữa. Vì thế Tượng viết: Kiến ác nhân. Dĩ tị cữu dã.
2. Hào Cửu nhị.
九 二. 遇 主 于 巷. 無 咎.
象 曰. 遇 主 于 巷. 未 失 道 也.
Cửu nhị.
Ngộ chủ vu hạng. Vô cữu.
Tượng viết:
Ngộ chủ vu hạng. Vị thất đạo dã.
Dịch.
Đường quê gặp chúa, không sao,
Tượng rằng: Gặp chúa đường quê,
Cũng chưa mất đạo, mất lề chúa tôi.
Gặp thời ly loạn như vậy, vua tôi nhiều khi lạc nhau. Nếu mà còn có thể liên lạc được cách này, cách kia được với nhau vẫn là nên. Lúc ấy cần phải quyền biến, không cần quá thủ lễ (Ngộ chủ vu hạng. Vô cữu) (Gặp chủ tại ngỏ hẹp, cũng chẳng có lỗi gì). Lúc ấy lòng thành khẩn hơn là lễ nghi bên ngoài (Ngộ chủ vu hạng. Vị thất đạo dã).
3. Hào Lục tam.
六 三. 見 輿 曳. 其 牛 掣. 其 人 天 且 劓. 無 初 有 終.
象 曰. 見 輿 曳. 位 不 當 也. 無 初 有 終. 遇 剛 也.
Lục tam.
Kiến dư duệ. Kỳ ngưu xiết. Kỳ nhân thiên thả tỵ. Vô sơ hữu chung.
Tượng viết:
Kiến dư duệ. Vị bất đáng dã. Vô sơ hữu chung. Ngộ cương dã.
Dịch.
Thấy xe bị kéo, bị giằng,
Thấy trâu bị cản, bị ngăn, bị cầm.
Người thời mũi lặc, trán xâm,
Dở dang buổi trước, êm dầm buổi sau.
Tượng rằng: Thấy xe bị kéo, bị giằng,
Là vì địa vị dở trăng, dở đèn.
Trước nguy, sau sẽ ấm êm,
Là vì sẽ gặp kẻ quyền oai phong.
Lục tam tương ứng với Thượng Cửu, muốn hội ngộ cùng Thượng Cửu. Nhưng Lục tam là một Hào Âm, lọt giữa hai Hào Dương là Nhị và Tứ. Nhị và Tứ hết sức tìm cách trù trì, lôi kéo, ngăn trở không cho Tam gặp Thượng Cửu. Như vậy có khác gì cái xe muốn tiến lên, mà đằng sau bị kéo, đằng trước bị ngăn đâu. Hơn nữa, Lục tam lại còn bị Thượng Cửu nghi ngờ là đã có lòng kia khác. Lục tam như vậy còn bị tổn thương đến cả danh dự nữa, có khác nào một người đã bị thích tự vào trán, lại còn bị cắt mũi nữa. Tuy nhiên, nếu Lục tam nhất quyết một lòng về với Thượng Cửu, thời sau sẽ được như nguyện. Vì thế Hào từ nói: Lục tam. Kỳ ngưu xệ. Kỳ nhân thiên thả tỵ. Vô sở hữu chung.
Tượng Truyện bình rằng: Sở dĩ có sự níu kéo ngăn trở như vậy, là vì Lục tam đang ở trong một hoàn cảnh dở dang. Tuy nhiên lúc đầu thì khó khăn, nhưng sau đắc ý, vì sẽ gặp được Thượng Cửu. Tượng viết: Kiến dư duệ. Vị bất đáng dã. Vô sở hữu chung. Ngộ cương dã.
Hào Lục tam này làm ta liên tưởng tới thời Tam Quốc, có Quan Vân Trường (Quan Công) muốn bỏ Tào, để tìm về Lưu Hoàng Thúc (Lưu Bị) mà đã gặp biết bao trắc trở. Nào là Tào Tháo dâng tiền tài, nữ sắc, công danh để mong làm chuyển lòng đấng anh hùng; nào là khi ra đi phải đương đầu với 5 tướng giữ ải; thoát chết mấy phen, mới vượt được qua sông Hoàng Hà. Lúc gặp được Trương Phi, thời lại bị Trương Phi muốn giết, và xỉ vả cho là đã hàng Tào. Mãi sau, Ngài mới minh oan được, và phơi bầy ra được tấm lòng trung trinh tiết liệt… Cuối cùng, Ngài đã được như nguyện là gặp mặt Lưu Hoàng Thúc, để nối tiếp nghĩa đào viên.
4. Hào Cửu tứ.
九 四. 睽 孤 . 遇 元 夫 . 交 孚 . 厲 . 無 咎.
象 曰. 交 孚 無 咎 . 志 行 也.
Cửu tứ:
Khuê cô. Ngộ nguyên phu. Giao phu. Lệ. Vô cữu.
Tượng viết:
Giao phu vô cữu. Chí hành dã.
Dịch.
Thời Khuê một bóng, một mình,
Gặp người đồng chí tâm thành kết giao.
Tuy nguy, nhưng cũng không sao,
Sự tình như thế, ai nào trách ta.
Tượng rằng: Chân thành, giao kết lỗi chi,
Rồi ra ý nguyện có khi thành toàn.
Hào Cửu tứ nói: Trong thời Khuê quải, mình đang cô đơn mà gặp được người đồng tâm, đồng chí, thì dẫu nguy nan, vẫn không có gì đáng chê trách (Khuê cô. Ngộ nguyên phu). Gặp người đồng tâm, đồng chí với mình là đem lòng thành khẩn mà đối đãi với nhau. Mà có gặp được người đồng tâm, đồng chí, thì mới có thể thực hiện được chí lớn của mình (Giao phu. Lệ. Vô cữu).
Hào này làm chúng ta nhớ đến Lưu, Quan, Trương gặp gỡ nhau, trong buổi nhiễu nhương, gây nên bởi giặc Khăn Vàng. Ba người khởi nghĩa từ vườn đào nhà Trương Phi, mà sau đã thực hiện được chí cả, là cùng nhau hưởng lộc vương hầu, trong một giang sơn rộng lớn là Ba Thục. Tượng viết: Giao phu vô cữu. Chí hành dã.
5. Hào Lục ngũ.
六 五. 悔 亡. 厥 宗 噬 膚. 往 何 咎.
象 曰. 厥 宗 噬 膚. 往 有 慶 也.
Lục ngũ.
Hối vong. Quyết tông phệ phu. Vãng hà cữu.
Tượng viết:
Quyết tông phệ phu. Vãng hữu khánh dã.
Dịch.
Ăn năn thôi hết từ đây,
Cùng người tông tộc từ nay kết đoàn.
Nghi ngờ, chia rẽ dẹp tan,
Như cắn thịt mỏng, dễ dàng khó chi.
Cùng nhau cất bước lên đi,
Cùng nhau tiến bước, có gì lỗi đâu.
Tượng rằng: Dẹp lòng nghi kỵ họ hàng,
Như cắn thịt mỏng, dễ dàng khó chi.
Cùng nhau cất bước lên đi,
Rồi ra sẽ gặp mọi bề mắn may.
Hào Lục ngũ bàn về cảnh hợp trong thời ly. Lục ngũ là quân, Cửu nhị là thần. Thần một lòng tôn quân, cố đi tìm để gặp, vì thế Hào Cửu nhị nói: Ngộ chủ vu hạng. Còn quân thì một lòng thương mến thần; vì thế Hào Cửu ngũ dùng chữ Quyết tông là họ hàng của mình; dùng tiếng họ hàng để chỉ thần tử để tỏ tình thân.
Vua mà được thần tử cố bám víu lấy mình, một dạ trung thành với mình như vậy, thì sự tương hợp giữa vua tôi dễ dàng như cắn vào thịt mềm. Vì thế nói: Quyết tông phệ phu. Có được những người theo mình trung thành như vậy, thì còn gì mà phải phàn nàn, làm gì cũng chẳng lo lầm lỗi nữa. Vì thế Hào từ mới nói: Hối vong và Vãng hà cữu.
Tiểu Tượng Truyện bình thêm rằng: được những người tâm phúc trung thành như vậy, mà đi dẹp loạn, phò nguy, cứu nước, thì còn lo gì không thành công. Tượng viết: Quyết tông phệ phu. Vãng hữu khánh dã.
Vào thời Khuê ly, mà có những người quyết tông phệ phu, ấy là trường hợp Lưu Bị có Quan Vân Trường, khi lưu lạc vẫn quyết tâm; một khi đã biết Hoàng Thúc ở nơi nào, thì không kể ngàn dậm, vạn dậm, phải cho ông tới theo ngay. Có Khổng Minh, nguyện đem hết sức khuyển mã, báo đáp ân tình. Có Triệu Tử Long, một thương, một ngựa mà dám xông vào chỗ trăm vạn quân Tào để cứu vợ con của chủ… Chính nhờ những người như vậy, mà sau này Lưu Bị mới hưng bang, lập quốc được.
6. Hào Thượng Cửu.
上 九. 睽 孤. 見 豕 負 涂. 載 鬼 一 車. 先 張 之 弧. 后 說 之 弧.
匪 寇 婚 媾. 往 遇 雨 則 吉.
象 曰. 遇 雨 之 吉. 群 疑 亡 也.
Thượng Cửu.
Khuê cô. Kiến thỉ phụ đồ. Tải quỉ nhất xa. Tiên trương chi hồ.
Hậu thoát chi hồ. Phỉ khấu hôn cấu. Vãng ngộ vũ tắc cát.
Tượng viết:
Ngộ vũ chi cát. Quần nghi vong dã.
Dịch.
Thời Khuê sống cảnh cô đơn,
Thấy người, tưởng lợn đội bùn nhớp nhơ.
Một xe chở quỉ, chở ma,
Dương cung toan giết oan gia cho rồi.
Nhưng rồi cung lại buông xuôi,
Tưởng đâu giặc cướp, hóa người tình thân.
Rồi ra kết ngãi Châu Trần.
Mưa rơi, tẩy sạch bụi trần hiềm nghi.
Cùng nhau cất gót ra đi,
Rồi ra muôn việc thỏa thuê, tốt lành,
Tượng rằng: Gió mưa mà tốt, mà lành,
Vì bao nghi kỵ, nay thành sạch không.
Hào Thượng Cửu: Vào thời Khuê, người ta hay nghi kỵ lẫn nhau, và trở nên cô đơn, không dám bắt tay thân thiện với người. Thấy người nghi muôn điều xấu, trông người bằng cặp mất nghi kỵ, thù địch, tưởng người như con lợn đội bùn, như một xe chở toàn ma quỉ, muốn mang cung lên bắn chết quách cho rồi. Sau mới biết mình lầm, nên mới hạ cung xuống. Người mà khi nãy tưởng là giặc cướp, lại là người thân tình của mình, lúc ấy mới hể hả, bắt tay đoàn kết, và tình thế trở nên êm ả, như trời đang oi bức mà đổ trận mưa rào. Vì thế Hào Thượng Cửu mới nói: Khuê cô. Kiến thỉ phụ đồ. Tải quỉ nhất xa. Tiên trương chi hồ. Hậu thoát chi hồ. Phỉ khấu hôn cấu. Vãng ngộ vũ tắc cát.
Đó chính là trường hợp Trương Phi khi thấy Quan Công, tìm về cùng Lưu Bị, lại ngỡ Quan Công đã hàng Tào, về để bắt mình, đã lớn tiếng xỉ mạ, và đòi đâm chết Quan Công. Sau này, khi nghe Quan Công kể lại đầu đuôi, tình cảnh, mới oà lên khóc, và cúi lạy Quan Công… Lúc ấy thì mọi hiềm nghi đã hết. Tượng viết: Ngộ vũ chi cát. Quần nghi vong dã.
ÁP DỤNG QUẺ KHUÊ VÀO THỜI ĐẠI
Ta có thể gọi sự nghi ngờ hay nghi kỵ là một chứng bệnh rất nguy hiểm, mà phần đông chúng ta không nhiều thì ít đều mắc phải. Nơi đây, ta phân tích nó dưới vài khía cạnh thông thường mà ta hay gặp.
Trong gia đình, sự nghi ngờ thường hay xảy ra giữa những cặp vợ chồng trẻ, nhất là nếu người vợ duyên dáng, hấp dẫn, hoặc người chồng có địa vị, đẹp trai, ăn nói bạt thiệp, vui vẻ. Chỉ cần bắt gặp người vợ, hay chồng của mình trò chuyện thân mật với người khác phái, là lòng đã thấy khó chịu, nổi cơn ghen, và bắt đầu nghi ngờ chồng hay vợ mình có tình ý gì với người kia không? mà chính thực ra người vợ hay người chồng đó không hề có chút tình ý gì với người kia cả.
Tôi có biết một cặp vơ chồng, khoảng trên 40 tuổi. Cách đây khoảng 10 năm, đó là một cặp vợ chồng rất lý tưởng. Người vợ trông duyên dáng, ăn nói dễ thương, ai trông thấy cô ấy cũng phải có cảm tình; còn người chồng thì cao lớn, hoạt bát. Người chồng rất yêu và chiều vợ. Nhưng một hôm, người vợ thật thà kể cho chồng nghe là trong sở cô hiện đang làm, có một người rất mê cô ấy. Thế là bắt đầu từ ngày đó, người chồng bắt đầu nghi ngờ vợ mình, bắt đầu kiểm soát giờ giấc đi làm, đi chợ vv… của vợ, khiến người vợ không còn một chút tự do nào. Cô này cũng rất yêu chồng, nên hết sức nhịn nhục. Nhưng ngày qua, tháng lại, bệnh ghen quái đản này cứ theo đà tăng lên, đến nỗi bất kỳ ai khen cô ấy, cũng là cái cớ để người chồng nghi ngờ mà dằn vặt, hành hạ vợ mình. Bây giờ, tình trạng chắc không còn cơ cứu vãn được nữa. Hỏi lỗi tại ai? Theo tôi, quí vị nào chót bị mắc chứng bệnh này, thì:
1) Đừng nên lấy vợ vội vàng, nếu chưa hiểu rõ người bạn gái ấy, có phải là người mà mình có thể tin tưởng được không?
2) Đừng nên lấy vợ đẹp, trong lúc mình không đủ khả năng để làm vừa lòng họ.
3) Hãy tìm một người nhan sắc trung bình, nhưng có nhiều đức tính, cần nhất mình yêu họ, và họ cũng phải thành thật yêu mình.
4) Luôn luôn phải sáng suốt, không nên ghen bừa bãi, chỉ tổ làm mất phẩm giá mình.
Ngoài xã hội, bệnh hay nghi ngờ cũng cản trở ta rất nhiều trong công cuộc làm ăn. Đã có bệnh này, thì dù mua bán gì cũng sợ người ta gạt mình rồi, thì làm sao có thể làm ăn đại qui mô được.
Bên cạnh nhà tôi, là nhà của một bà Mỹ già. Khi xưa khu vực chỗ tôi ở, chỉ có mình gia đình chúng tôi là người Việt Nam, nhưng nay đã có nhiều gia đình Việt Nam khác tới ở. Bà Mỹ này, ít âu nay trở nên khó tính, lúc nào bà cũng nghĩ là bà bị những người Việt Nam mới tới, phá bà, cho trẻ con gọi điện thoại phá giấc ngủ của bà, hoặc ném đá vào nhà bà. Mà sự thật, họ đều thương hại bà, vì bà sống cô đơn. Tôi đã giải thích cho bà nghe nhiều lần là dân tộc tôi có truyền thống là coi người xóm giềng như anh, chị em, và những cú điện thoại phá phách đó là do trẻ con ở ngoài phá mà thôi. Nhưng bà không chịu nghe tôi, bà đi đập cửa những nhà bà nghi rồi la ó om sòm. Tội nghiệp bà đã tự phá những tình cảm mà người chung quanh đã dành cho bà.
Bệnh này thật không thuốc chữa, nó làm cho người có bệnh, không bao giờ cảm thấy mình là người có hạnh phúc, nhẹ thì ta chỉ cảm thấy phiền não ngay lúc đó, nặng thì nó hành hạ, đeo đẳng ta, khiến ta khổ sở, chẳng để ta yên.
Tóm lại, muốn trừ nó, ta phải có lòng khoan dung đại độ, chớ nên nhìn bề ngoài mà xét đoán người khác, và nên nhìn người khác qua cặp kính mầu hồng, chứ đừng nhìn họ qua cặp kính mầu đen.
“Bát Tự Hà Lạc – Lược Khảo” của Học Năng.
38.Hỏa trạch khuê
Ðại cương:
Tên Quẻ: Khuê là Vi, Bội (trái ngược nhau, khác nhau).
Thuộc tháng 2.
Lời tượng
Thượng Hỏa hạ Trạch: Khuê. Quân tử dĩ đồng nhi dị.
Lược nghĩa
Trên lửa dưới đầm là quẻ Khuê (trái nhau). Người quân tử lấy đấy mà tuy cùng nhau, nhưng vẫn khác nhau.
Hà Lạc giải đoán
Những tuổi Nạp giáp:
Đinh: Tỵ, Mão, Sửu
Kỷ: Dậu, Mùi, Tỵ
Lại sanh tháng 2 là cách công danh phú quý
THƠ RẰNG:
Lẻ hồng bay tít dặm ngoài,
Tiệc vui sinh ý ngược đời, xa nhau
Hào 1:
Hối vong, táng mã vật trục, tự phục; Kiến ác nhân, vô cữu. Ý HÀO: Mất ứng viện mà rồi lại được.
MỆNH – HỢP – CÁCH: Ðức vọng làm cho người tin, ngay thẳng làm cho người hết bạo ngược, nhỏ khó phát triển, lớn lên thành đạt lớn.
MỆNH – KHÔNG – HỢP: Gian nan chẳng gặp dịp may, vãn cảnh mới khó.
XEM – TUẾ – VẬN: _Quan chức: Ðược phục chức cũ, hoặc bị giáng thì được phục hồi. _Giới sĩ: Tiến thủ trắc trở. _Người thường: Trước mất sau được, trước giận sau lành. Ðề phòng hao tổn lục súc và lo lắng.
Hào 2:
Ngộ chủ vu hạng, vô cữu. Ý HÀO: Hết lòng vì chủ.
MỆNH – HỢP – CÁCH: Người trung nghĩa, sửa được lỗi trên, đổi được tục dưới.
MỆNH – KHÔNG – HỢP: Cũng hiểu nhân tình, nhiều người giúp mình, ở nơi ngõ hẻm, chẳng quan tâm đến vinh nhục.
XEM – TUẾ – VẬN: _Quan chức: Gặp cấp chủ, sẽ được thăng chuyển. _Giới sĩ: Ðược tuyển chọn và tiến lên. _Người thường: Kinh doanh đắc ý.
Hào 3:
Kiến dư duệ, kỳ ngưu xiết, kỳ nhân thiên thả tỵ, vô sơ hữu chung. Ý HÀO: Trước giận nhau, sau mới hợp.
MỆNH – HỢP – CÁCH: Tính người mẫn tiệp, trước bị người ngược đãi, sau hợp được và tính việc gì cũng thành.
MỆNH – KHÔNG – HỢP: Hay bị hình thương ở sau ngựa trước xe, tân khổ, về sau mới được an vui.
XEM – TUẾ – VẬN: _Quan chức: Phòng kẻ xu nịnh ngăn bước. _Giới sĩ: Bài thi bị bỏ lại, được xét lại. _Người thường: Trước trở sau thành. Số xấu bị xương thịt hình thương.
Hào 4:
Khuê cô, ngộ nguyên phu, lệ vô cữu. Ý HÀO: Ðược gặp bạn, không buồn nỗi cô đơn.
MỆNH – HỢP – CÁCH: Có tài xuất chúng, giao thiệp giỏi, gặp bạn hay, giúp dẹp loạn thành trị, chuyển giận hoá thành hòa. Nữ mạng thành bà lớn.
MỆNH – KHÔNG – HỢP: Cũng là người tự lập, trước khuê ly, sau tương ngộ.
XEM – TUẾ – VẬN: _Quan chức: Ðược đồng chí tiến bạt. _Giới sĩ: Ðược cấp trên biết đến. _Người thường: Hôn nhân thành, khỏi nguy đến an, mưu tính trước nghịch sau thuận.
Hào 5:
Hối vong, quyết tông phệ phu, vãng, hà cữu. Ý HÀO: Dễ dàng tri ngộ, cứ tiến đi.
MỆNH – HỢP – CÁCH: Vị cao, đức lớn, được người giỏi phụ tá, lập công danh, hưởng phú quí.
MỆNH – KHÔNG – HỢP: Ðược nhờ âm công tổ nghiệp hưởng thụ, không khó nhọc gì, ra ngoài cũng gặp tri kỷ, nhưng phòng xương thịt bị cắn đứt.
XEM – TUẾ – VẬN: _Quan chức: Ðược đền bù công lao. _Giới sĩ: Ðược lên cao. _Người thường: Thau lợi, hôn nhân thành, có người đề cử, số xấu thì bạn bè oán ghét, xương thịt bị hình thương, quan sự rắc rối.
Hào 6:
Khuê cô, kiến thỉ phụ đồ, tải quỉ nhất xa, tiền trương chi hồ, hậu thoát chi hồ, phỉ khấu hôn cấu, vãng ngộ vũ đắc cát. Ý HÀO: Ðối với người ứng viện, trước ngờ sau hợp.
MỆNH – HỢP – CÁCH: Quá xét nét đâm ngờ vực, trước gặp khó khăn sau dễ dàng, hoặc sự hôn nhân trùng điệp, hoặc nhà binh lập được công, mưu là phúc trạch vui người, lợi vật.
MỆNH – KHÔNG – HỢP: Cô độc, ô trọc, giối trá, thị phi, tán tụ bất thường.
XEM – TUẾ – VẬN: _Quan chức: Bị dèm pha oán trách. _Giới sĩ: Trước u mê, sau làm được. _Người thường: Gặp ô nhục, bị vu oan, trước tổn sau ích.
(Dẫn theo trang huyenhocvadoisong.com)