TỬ VI tọa Tí Ngọ
Tử vi tọa tí ngọ: có 2 đặc tính là ngụy danh / chính danh
khi Tử-vi hội Cát diệu và Cát hóa: là chính danh.
Khi Tử-vi hội Sát Kị: là ngụy danh.
Tử vi độc tọa ở tí không bằng ở Ngọ.
ở Ngọ Tử vi miếu thì lãnh đạo lực, cùnglực chế hóa điều hòađều mạnh hơn Tử vi ở tí. Cho nên: địa vị cùng tài phúc tốt hơn.
Tử vi độc tọa được bách quan triều củng, phúc lộc nhiều.
nếu quần thần viễn li ắt là cô quân thì tuy tư tưởng siêu thoát, nhưng ý nguyện khó đạt.
nếu “cô quân” lại:
– kiến Thiên không, Địa không, nên nghiên cứu triết lí dễ trở thành 1 chức sắc tôn giáo, cũng có thể trở thành một nhân tài lãnh đạo.
– gặp Hoa Cái tín ngưỡng càng sâu có thể khám phá những điều thần bí.
Tử vi độc tọa, có Phụ Bật, Xương Khúc, Long Phượng hiệp mệnh: có thể gia tăng khí thế, giảm thiểu gian lao.
Tử vi độc tọa cùng thấy cả Phụ Tá lẫn Sát Hóa chư diệu, phải xét rõ lực để định cát hung. Nói chung người này lí tưởng cao nhưng lực hành động không đủ, cần hậu thiên bổ cứu, chú ý thực hiện nỗ lực tìm cầu lý tưởng.
không Cát diệu hội hợp, chỉ có Sát diệu: dễ ôm hòai bão mà không gặp thời, nên theo kinh thương. chỉ cần Sát diệu miếu và khi Sát diệu không nhiều: có thể kinh doanh làm giàu. Sát diệu cũng phải phân rõ: Sát trọng chủ tranh chấp thị phi, đặc biệt gặp Kình hãm chủ từ tụng hoặc ngoại khoa thủ thuật.
tốt nhất được cùng Lộc tồn hoặc hoá Lộc hội hợp: ắt giàu và có địa vị trong xã hội, đặc biệt tại xã hội thương nghiệp, càng dễ phát, nhưng nếu theo đuổi chính trị, văn giáo: thì lạc lỏng, trắc trở.
Tử vi độc tọa cũng thích “hóa Quyền, hóa Khoa”.
– hóa Quyền: tăng khả năng lãnh đạo, cạnh tranh lực.
– hóa Khoa: ắt có thanh dự, nên theo nghiên cứu học thuật, có thể dung hợp các học thuyết để sáng tạo, Tuy nhiên, thích nghe sàm ngôn thị phi.
Tử vi độc toạ, đối cung tất là Tham Lang, cũng chủ là người háo sắc, ý nghĩa mạnh thêm khi nhiều sao đào hoa hội hợp, nhưng nếu đồng thờì hội hợp Thiên Hình lại trở thành khuôn phép.
Tử vi độc toạ Tí Ngọ /đối cung là Tham lang độc toạ / cùng Vũ Tướng, Liêm Phủ tương hội.
cần chú ý bản tính của Tử vi độc tọa, giữa vật chấtvà tinh thần (còn lại những gì sau khi gia giảm).
bản thân Tử vi,
thuộc tinh thần tính như chủ quan mạnh, yêu ghét đặc biệt, quyết đoán.
thuộc vật chất tính như thích hưởng thụ, có năng lực lãnh đạo, tổ chức…
khi hội hợp với những “tinh diệu bất đồng khác”: Cuối cùng hoặc tăng lực tinh thần, hoặc tăng thêm lực vật chất, hoặc hai điều trên có 1 đã yếu, thậm chí chuyển hóa thành 1 đặc tính khác, trong suy đoán phải rất cẩn trọng
Tham lang, Vũ khúc, Thiên phủ có vật chất tính.
Liêm trinh, Thiên tướng có tinh thần tính
Như Tham hóa kị, Vũ hóa kị ắt Tử vi giảm bớt tính vật chất, nhân đó tinh thần tính có khả năng mạnh thêm.
Liêm hóa Lộc, Thiên tướng thành [tài ấm hiệp ấn] cách: ắt giảm bớt tinh thần tính của Tử vi, nhân đây vật chất tính có khả năng tăng mạnh.
Tử-vi chịu ảnh hưởng của Cát Hóa và Cát diệu mà vật chất tínhtăng mạnh.
Tham hóa Lộc, hóa Quyền,
Vũ hóa Lộc, hóa Quyền,
Thiên phủ hóa Khoa.
Tả Hữu hội.
có “bách quan triều củng”.
Tử vi hóa Quyền.
Tử-vi chịu ảnh hưởng của hóa Kị và Sát tinh mà tinh thần tính tăng mạnh
Tham hóa Kị,
Tham đồng cung Hình
Tham đồng cung Không diệu
Liêm có các sao đào hoa,
Liêm cùng Xương Khúc,
Thiên tướng. (giáp Hình Kị)
Vũ hóa Kị.
Tử vi gặp Không diệu, hội Hoa cái, các sao đào hoa,
Tử vi “tại dã cô quân”,
Tử vi hóa Khoa.
Phải lường được tính chất của Tử vi tại tí ngọ cung, sau mới có thể suy đoán khi tử vi chuyển 12 cung, tính chất của Tử vi khi hội hợp với các tinh hệ khác.
Nói chung khi:
Tử vi độc tọa mà vật chất tính trọng, mừng khi chuyển đến các cung có Phá quân, Liêm Phủ, Vũ Tướng, Thất sát, Thiên cơ, nếu các cung này cũng vật chất tính mạnh, ắt có thê hợp: tất có thể đắc chí hoặc phát tài ở đại vân hoặc lưu niên này.
Gọi là vật chất tính trọng (v) như
Phá hoá Lộc, hoá Quyền /
Liêm Phủ mà Liêm hoá Lộc.
Vũ Tướng mà Vũ hoá Lộc.
Thất sát hội kiến hoá Lộc hoặc Lộc tồn /
Thiên cơ hoá Lộc kiến Phụ Bật.
Tử vi mà tinh thần tínhtrọng (t) khi vận hành các cung gặp Thái âm, Dương- Lương. nếu tại 2 cung này cũng tinh thần tính trọng, cả 2 phối hợp tất là đắc danh, đắc thanh dựở đại vận hoặc lưu niên.
Gọi là tinh thần tính trọng là:
Thái âm hóa Lộc Quyền Khoa;
Thái dương hóa Lộc Quyền Khoa;
Lương hóa Khoa.
những tinh hệ tinh thần tính trọng là:
Liêm Phủ mà Phủ hoá Khoa.
Vũ Tướng mà Tướng giáp Hình Kị.
Thiên cơ hoá Khoa, gặp Xương Khúc, văn diệu,
nếu có thể hiểu rõ những nguyên tắc suy đoán cao thì cũng sẽ không khó hiểu các biến hóa của tạp diệu…không cần nhất nhất chi tiết.
Tử vi lưu niên vận hạn qua 12 cung.
cung Tí Ngọ: Tham lang.
Tham hoá Lộc, hóa Quyền là vật chất tính trọng (v)
Tham hoá Kị, Tham + Hình, Tham + Không diệu là tinh thần tính trọng (t)
Tử vi vật chất tính đến Tham lang (t): ắt chuyển hóa thành sắc dục.
khi Tham lang là lưu niên (mệnh cung, phúc đức cung, phu thê cung): phát sinh những cảm tình với 1 người khác.
nếu Tham là tật ách cung, chủ bệnh ở sinh thực khí, thận.
Tử vi vật chất tính đến Tham lang (v): không chủ sắc dục, nếu ở Tật ách cung ắt là can bệnh, tràng vị bệnh.
Tử vi tinh thần tính đến Tham lang (v) có khả năng chuyển hóa làm sắc dục
Tử vi tinh thần tính đến Tham lang (t): lại lánh đời Hoặc sẽ trở thành nghệ thuật sáng tạo,
vận trình phát huy tinh thần hưởng thụ.
nếu Tham lang là Tật ách cung, chủ bệnh (cơ năng thất điều), thần kinh kháng phấn hoặc thần kinh suy nhược…có thể không phải là bệnh hoạn
cung Sửu Mùi: Đồng Cự.
Tử vi tinh thần tính đến: phát sinh tình cảm rắc rối.dễ bệnh, sự nghiệp thất ý, Tùy sao Phụ Tá Sát Hóa hội hợp mà định.
Tử vi vật chất tính đến
nếu Đồng hóa Lộc: có thu hoạch.
Nếu Đồng hóa Kị, cũng có thu hoạch, nhưng quá trình bị trở ngại.
sợ nhất Cự hóa Kị: thất bại, tổn thất.
cung có Thất sát tại Thìn Tuất.
Tử vi vật chất tính đến: lập tức phát sinh chuyển biến: chủ yếu là chuyển biến vật chất
Tử vi tinh thần tính đến: chủ về sau mới chuyển biến: chuyển biến tinh thần
(như Thất sát là lưu niên mạng cung, chủ nữa năm sau chuyển biến, Thất sát là đại vận mạng cung, chủ 5 năm sau chuyển biến).
cung có Phá quân tạiDần Thân.
cũng giống Thất sát. nhưng chuyển biến với mức độ lớn hơn.
Trên lược cử vài trường hợp, đã được đưa vào tinh yếu của.[tử vi tinh quyết]. Sau đây cung cấp cho một số ví dụ đoán cụ thể
cung có Liêm Phủ tại Thìn Tuất.
Liêm trinh có tinh thần tính.
nếu nguyên cục Liêm hóa Kị Tử vi là tinh thần tính mạnh: ắt chủ sinh hoạt tinh thần có khiếm khuyết, sau đó phải xem Phá quân ở cung phúc đức, nếu thấy Đào hoa, Đại hao, Mộc dục, Thiên riêu, ắt chủ tinh thần “hư không. cho nên hạn hành đến [Liêm Phủ] phát sinh tình cảm thống khổ:
nếu Liêm Phủ là Huynh đệ cung: chủ huynh đệ, hay đối tác có cảm giác thất vọng;
Liêm Phủ là Phu Thê cung: chủ tự mình ở ngoài có tình cảm riêng;
nếu Liêm Phủ ở Tật ách cung: có bệnh ở đường tiết niêu.
căn cứ tính chất cơ bản mà suy đoán nếu Liêm Phủ nhập 12 cung.,
cung có Vũ Tướng tại Dần Thân..
Vũ hóa Lộc, hóa Quyền là vật chất tính.
Vũ hóa Kị có tinh thần tính.
Thiên tướng có tinh thần tính.
nếu nguyên cục Vũ hóa Kị, (Tử vi vật chất tính mạnh) đến: chủ sinh hoạt vật chất có khiếm khuyết, sau đó phải xét nguyên cục sự nghiệp cung (cung Quan có Liêm Phủ).
Nếu Liêm Phủ đắc Lộc, ắt khiếm khuyết sinh hoạt vật chất do bởi quá phát triển sự nghiệp mà nên;
như Liêm Phủ vô Lộc, hoặc Không khố, hoặc Lộ khố, ắt vận chuyển đến Vũ Tướng thủ mệnh niên vận: có thất nghiệp, phá bại.
Cử 2 thí dụ, học giả xét kỉ tính chất tinh hệ, dễ dàng quán thông, có thể suy đoán chi tiết.
Tử vi đẩu sổ cơ bản chỉ có mười hai, một chính một phản (như Tử vi tại Tí, Tử vi tại Ngọ) Có thể được coi là đã có sáu cấu trúc cơ bản. nương theo cách sắp xếp của 14 chính tinh, tổng số là 38 nhóm, Phân phối trong sáu cấu trúc, tức thành sáu mươi tinh hệ.
Giải đoán Tử vi đẩu sổ, ngoài hiểu biết tính chất cơ bản của 12 chính diệu, còn phải thấu rõ tính chất cơ bản của 60 tinh hệ.
Thí dụ: Tử vi tại Tí cung độc tọa, với Tử vi tại Ngọ cung độc tọa tính chất đại khái bất đồng,
Tử Sát, Tử Tham, Tử Phá, Tử Phủ, Tử tướng, đều có đặc điểm khác nhau, với tử vi độc tọa hoàn toàn khác. Phải có một sự hiểu biết về tổng thể, sau đó mới có thể bàn luận về đẩu số.
Ngoài ra, phải hiểu rõ các tính chất hổ tương qua lại của các tổ hợp tinh hệ. Đây là bí quyết của Trung Châu Phái .
Về lối suy diễn của đẩu số, phần này chỉ giới thiệu suy đoán [tam phương tứ chánh] căn bản chưa xem xét kĩ giao thoa của các tổ tinh hệ.
thí dụ: như [Thái âm độc tọa tị cung] là đại hạn của mệnh cung hoặc lưu niên mệnh cung, tổng quát chỉ nói tính chất của Thái âm tại tỵ cung, cũng như các tinh diệu hội hiệp trong [tam phương tứ chính], có thể suy đoán cát hung của đại hạn hoặc lưu niên này. nhưng Trung Châu Phái không như thế, trừ Thái âm ra, [tam phương tứ chánh] cũng là điều quan trọng cần lưu ý.
(1) khởi đầu tính chất mệnh cung của người này như thế nào?
Thí dụ: đại hạn lưu niên chuyển đến Thái âm tại Tị,
người mệnh tại Mùi có Thiên Đồng Cự môn,
và người mệnh tại dần cung Vũ khúc Thiên tướng.
: bất đồng.
vì người tọa mệnh Thiên Đồng Cự Môn, có bản chất riêng, người có Vũ khúc Thiên Tướng tọa mệnh, cũng có bản chất riêng, cả hai bản chất bất đồng chuyển đến lưu niên hoặc đại hạn Thái âm tại Tị có phản ứng khác nhau.
Do đó có thể biết, bản khắc cũ đời nhà Minh (phường bổn) chỉ chú trọng [tam phương tứ chánh] để giải đoán, thực chất hết sức sơ lậu, không đủ để [Trung Châu Phái ] coi trọng.
Những đặc điểm ban đầu của các cung, xem tinh hệ niên hạn giao thoa nhau để suy đoán cho chính xác.
(2) Khi luận đoán lưu niên, cũng phải chú ý tính chất tinh hệ ở cung đại vận.
Thí dụ,
– Vũ khúc Thiên Tướng tại cung Thân tọa mệnh, Tham lang tại Ngọ cung là đại hạn mệnh cung, đến Liêm trinh Thiên phủ lưu niên
– Vũ khúc Thiên Tướng tại thân cung tọa mệnh, Thái dương Thiên lương là đại hạn mệnh cung, cùng xem Liêm trinh Thiên phủ lưu niên,
vận trình tất có bất đồng. điều này do ban đầu mệnh cung tuy đồng, lưu niên mệnh cung tương đồng, mà đại vận mệnh cung tinh hệ bất đồng mà ra.
Như vậy suy đoán đặc sắc chỉ Trung Châu Phái mới có. Trung Châu Phái có khẩu truyền Tử vi tinh quyết, để thảo luận chi tiết. bút giả có thể nói rằng, “Tử vi tinh quyết” này hiện nay, chỉ có bút giả đã được truyền thụ, Hiện giờ đã được mô tả trong [lục thập tinh hệ], khẩu quyết này đã được tích hợp. đương nhiên, Nó không phải là một hệ thống tự thuật. “Tử vi tinh quyết”, Nếu mô tả hệ thống, bề dài sẽ rất lớn. Bút giả tại [Tử Vi Đẩu Số Học Hội] thuyết trình “Tử vi tinh quyết”, mỗi quyết giảng phải mất 3 giờ, tổng cộng hơn 600 quyết, phải hơn 5 năm mới giảng xong, do đó có thể biết nội dung rất phong phú.
Do “Tử vi tinh quyết” xưa nay chỉ truyền cho một người (mỗi đời chỉ truyền cho 1 đệ tử), nên người biết được không nhiều, thậm chíkhông ai biết,
như vậy khi nói đến Tử vi hội Thiên đồng Cự môn, hoặc lúc nói Phá quân hội Thái dương Thiên lương nếu không biết đến “Tử vi tinh quyết”, có thể thành một câu nói đùa, nếu biết “Tử vi tinh quyết” ắt sẽ được thảo luận nghiêm túc.
Cần minh bạch điểm này, sau đó mới có thể nghiên cứu phần nói về “Tử vi tinh quyết”
Tổ hợp đầu tiên
Tổ này bao gồm 10 tinh hệ:
1. Tử vi độc tọa;
2. Phá quân độc tọa;
3. Liêm trinh Thiên phủ;
4. Thái âm độc tọa;
5. Tham lang độc tọa;
6. Thiên đồng Cự môn;
7. Vũ khúc Thiên tướng;
9. Thất sát độc tọa;
10. Thiên cơ độc tọa.
Mười tinh hệ hổ tương qua lại, hơn nữa mười hai cung giao thoa tính chất bất đồng.
(Dẫn theo blog Trần Nhật Thành)