Toát yếu lục vấn đoán
ĐẨU SỐ RẤT NHIỀU, CÁI GÌ LÀ TOÁT YẾU?
Phàm con người ta sau khi lập Thân an Mệnh, thích hợp nhất là xem cung Thân, Mệnh có Lộc tồn, Thiên mã không lạc ở Không vong, nặng nhất là gặp Tiệt lộ, tiếp đến là Tuần không. Sao chủ ở cung Mệnh là quan trọng, sau đó đến sao chủ ở cung Thân. Trước hết phải xem Đế tướng đắc ở chỗ nào mới có thể luận được sang hèn. Phải xem Tham lang, Vũ khúc như thế nào và xem sự tốt xấu của các tinh thần. Giả như, đế củng chiếu tướng, quân củng chiếu thần, Nhật, Nguyệt phản bối, Hao tinh cùng tọa thì luận là hỗn tạp. Nếu như cung Thân, Mệnh phản bối gặp sát tinh thì đoán định là mệnh nghèo hèn.
HỎI: NẾU CÓ HỢP THÌ SAO NÀO ĐỊNH PHÚC?
Lại lấy cung Thân hợp, như trong cung Thân, cát lợi là thượng cách, hung hiểm là hạ cách, 1 hung 1 cát bị chế hóa thì luận là hỗn tạp. Họa phúc đoán định dựa vào đó. Lại nói: Thái âm, Văn xương bị khắc chế trái lại là không phúc, nếu như ở chỗ miếu vượng là phú quý.
HỎI: PHÚ QUÝ ĐÃ ĐỊNH, LẤY GÌ ĐỂ BIẾT LẼ SINH TỬ?
Trước tiên, xem đại hạn, thứ đến xem tiểu hạn. Đại hạn suy thì 10 năm gian khổ, tiểu hạn vượng nhưng chỉ có 1 năm vinh mà thôi. Nếu như luận về sinh tử, trước tiên xem cung Mệnh có Thất sát, Thái tuế, lưu sát giao hợp đối xung hay không, đại, tiểu hạn có Tử vi, Thiên lộc, Không vong có lạc hãm không. Nếu như Đế tướng, Lộc tồn tam hợp có thể hóa giải chỉ có thể đoán là tai họa, phải hết sức cẩn thận.
HỎI: MỆNH NAM LẤY GÌ ĐỂ DÙNG? MỆNH NỮ LẤY GÌ ĐỂ DÙNG?
Trước tiên, xin luận về mệnh nữ. Mệnh nam và mệnh nữ không giống nhau tinh thần và mệnh cũng khác biệt. Ví như, mệnh nữ lấy cung Quan lộc, Phụ mẫu sát tinh làm chủ, lạc hãm thì tiếp theo lấy cung Điền trạch, Tài bạch. Cung mạnh lấy cung Tử nữ, Phúc đức làm chính, cung mạnh đóng ở chỗ vượng trái lại không tốt, nếu ở chỗ Không vong thì tốt. Trong cung Thân, Mệnh lại phải xem đào hoa, Thiên hình, ngoài ra, lại xem cung Điền trạch, Tài bạch, Tử nữ, Phu thê, Phúc đức để luận mới tránh được sai sót. Nếu như sát tinh độc tọa ở cung Phúc đức thì luận là mệnh làm kỹ nữ.
HỎI: CÁCH CỤC ĐÃ ĐỊNH, TÍNH CÁCH ĐOÁN NHƯ THẾ NÀO?
Nếu như suy xét về tính cách có thể dựa vào sao tọa ở cung. Nếu như cung Thân, Mệnh có 1 sao nhanh, 1 sao chậm thì đoán người này có tính cách bất thường, thiện ác không rõ, gió thổi chiều nào theo chiều ấy. Nếu như tọa thủ ở cung Thân thì bản tính hiền từ, đôn hậu. Nếu như sát tinh tọa thủ ở cung Thân, Mệnh thì bẩm tính tàn bạo, ngang ngược, ít hòa hợp với người xung quanh. Ngoài ra, còn có thể xem sự sinh khắc của Ngũ hành mà suy tỏ sự huyền diệu thâm sâu.
HỎI: NGŨ HÀNH DÙNG NHƯ THẾ NÀO?
Trước tiên xem sự sinh khắc chế hóa, thứ đến xem lạc hãm ở cung nào. Nếu như Thất sát, Hỏa tinh tọa ở cung Dần là miếu vượng. Mộc có thể sinh Hỏa, Kim là Vũ khúc. Nếu như cùng độ với Thất sát thì Vũ khúc là tài, lại vô dụng, dựa vào đó để suy đoán. Nếu như Kim nhập cung Hỏa đều bị khắc chế. Nếu như Kim nhập cung Thổ đều được hóa giải.
NGŨ THẦN THIÊN THƯƠNG, THIÊN SỨ, TẤU THƯ, QUAN PHÙ, TƯỚNG QUÂN
Phàm các sao tù không thể phạm nhiều lần, ác sát không thể hợp tấu, lại thêm tuế hạn hợp chủ yểu mệnh. Nếu như lưu niên đại, tiểu hạn phạm có 1 hoặc 2 cung vị trùng thì có tai họa nặng. Nếu như thêm đại, tiểu hạn Thái tuế tấu hợp cát tinh thì gặp hung sẽ hung họa, lại tấu hợp với hung tinh đến cung Thân, Mệnh, tai ương rất nặng. Phàm là luận mệnh thì phải biết giờ mối có thể tường tận được. Giờ Tý có 10 khắc, 5 khắc trước thì thuộc ngày hôm trước, 5 khắc sau thuộc ngày hôm sau. Nếu như sinh giờ Tý ban đêm thì thuộc 5 khắc trước.
CA QUYẾT ĐOÁN ĐỊNH GIÀU SANG
Thiên khố tọa ở cung Mệnh gặp cát tinh, phú quý suốt đời hanh thông. Thiên cơ, Thiên lương, Thiên đồng, Thiên phúc, Thiên thọ, Thái dương, Thái âm, Tả phù, Hữu bật, trường sinh gặp sát cả đời tiến thoái. Vũ khúc, Phá quân hóa cát thì tài hoa xuất chúng. Tham lang, Liêm trinh chủ viên thì cực hung, Văn xương, Văn khúc nhập miếu chủ về khoa danh. Lộc tồn đến chiếu đều tốt, rất sợ Dương nhẫn, Hỏa tinh, Đà la, Linh tinh, Cự môn, nếu hóa cát thì phú quý, cùng tọa với hung tinh thì không vinh hiển. Thiên khôi, Thiên việt củng chiếu chủ về phát đạt, cả đời được gần người cao quý có công danh. Trung cục rất hiếm gặp Địa không, Địa kiếp, các sao không thể đồng cung.
GIÁP HỢP LUẬN
Đế vương không thể độc tọa, Tả phù, Hữu bật không thể đơn hành. Nếu như không đối chiếu cung Kim, tam hợp giáp Đế tướng sau này mới thành công. Ngoài ra, độc tọa ở cung Tài bạch, cung trước sau hoặc giáp Thái âm, Thái dương chủ giàu có. Hạn nếu như gặp chúng thì tụ tài, phát phúc. Ngoài ra, đại, tiểu hạn gặp sát tinh, niên sát, nguyệt sát, hạn sát ở cung Thân, Mệnh, hung hiểm khó tránh.
LUẬN HỌA PHÚC 10 NĂM GIAO HẠN
Nếu cung mà toàn cát tinh chiếu, miếu vượng không có sát tinh, trong 10 năm chủ về phát tài nhanh chóng. Nếu như sao ở chỗ cát lợi có cả sát tinh và cát tinh, lại có Dương nhẫn, Đà la, Hỏa tinh, Địa không thì thành bại bất nhất. Nếu như sao chiếu ở chỗ hãm địa lại gặp Dương nhẫn, Hỏa tinh, Đà la, lại thêm lưu niên, sát tinh tấu hơp chủ về kiện tụng thị phi. Nếu như nhập giao hạn, trong hạn 10 năm, cát tinh nhiều thì 5 năm trước sẽ cát lợi, 5 năm sau bình thường, nếu như hung tinh tụ hợp thì 5 năm trước sẽ bị kẹp, 5 năm sau phát phúc, ít được như ý. Đại hạn nếu như có cát tinh tụ hội thì ít tai ương, hung tinh tụ hợp thì nhiều tai họa.
CÁCH CỤC TAM PHƯƠNG GIA HỘI
Phàm an Mệnh thì phải xem bản cung sao chủ ở chỗ miếu địa thì xem Tam phương có cát hóa là thượng cách. Nếu như không có sát tinh, Phá quân là trung cục. Nếu như cung Mệnh không có chính tinh, Tam phương có cát tinh gia hội thì có cách cục tốt. Nếu như Cung Mệnh không có cát tinh mà có sát tinh, kỵ tinh chiếu lại không nhập miếu là hạ cục, mặc dù Tam phương có cát tinh cũng không phải là trung cục, trước nhỏ, sau lớn, phá bại, yểu mệnh. Nếu như cung Mệnh ở chỗ hãm địa lại hóa kỵ, thêm Dương nhẫn, Hỏa tinh, Địa không, Địa kiếp xung thủ ắt mang bệnh tật. Thấy cung Tật ách có sát tinh chủ về lúc nhỏ bị tàn tật. Lại thấy vận hạn có sát tinh nhiều thì không cát tường là hạ cục.
Phàm thấy Thái tuế gặp hung tinh chiếu hạn, căn nguyên có chuyển biến tốt đẹp. Nếu như đại, tiểu hạn có hung tinh thì còn phải xem xét. Phàm luận về các sao tọa ở 12 cung, lại được 10 can Lộc nguyên chầu thủ, lại thêm trong cung Mệnh có hóa khoa, hóa quyền là mệnh sang quý, làm quan, hưởng phúc, vợ giàu sang, vận con cái hanh thông, cả đời hưởng phúc. Nếu như niên hạn gặp thì xem cung nào, gặp cát tinh chủ về phát tài, Thiên lộc gặp hung tinh thì họa hại không lớn, đều là vì cung Mệnh vượng, cung Thân mạnh.
Phàm các sao tọa ở cung Mệnh phản bối hóa kỵ cả đời không thể phát đạt. Thái dương tọa ở cung Dậu, Tuất, Hợi. Thái âm tọa ở Thìn, Tỵ, Ngọ, người này không thể giữ được tổ nghiệp chỉ có thể rời xa quê hương mói có thể phát tài. Cung Mệnh nếu như có Tài tinh, gặp hóa cát có thể làm quan.
Phàm người mới sinh ra đã được hưởng phú quý, không phá bại, đến già vẫn được hưởng phúc. Đấy là mệnh hạn hòa hợp, từng bước nối nhau. Tinh thần nhập miếu địa, trong vài năm sẽ không có họa. Phàm người mới sinh ra đã vui vẻ, hưởng phúc, vợ hiển đạt, con hiếu kính, đến trung niên gặp hình thương, tiền của hao tán hoặc bản thân yểu thọ ắt là do niên hạn không được trợ giúp, hoặc xuất hạn, giao hạn từ cát chuyển thành hung. Trung niên phạm sát xung thủ hoặc sao ở chỗ hãm địa, Thái tuế gặp hung tinh đến lúc này nghèo hay không sẽ biết. Phàm người mới sinh ra đã hèn kém, khởi nghiệp những năm đầu khó khăn, đến trung niên và về già thì đường thẳng thăng tiến, tài lộc như ý, uy quyền xuất chúng. Đây đều là trung cục, niên hạn trung niên, vãn niên, các sao mạnh ở chỗ miếu vượng, trước khó mà sau dễ.
Lộc triều nguyên. Ví như: Giáp Lộc đến Dần, người sinh năm Giáp an Mệnh tại Dần, như thế này luận là Văn xương, Văn khúc tọa ở Tỵ, Dậu là cung dương, không sang quý cũng giàu có. Tham lang tọa ở cung Tỵ, Hợi gặp Văn xương, Văn khúc, tuy phú quý nhưng không dài lâu. Các sao hóa kỵ, nêu như Thái dương tọa ở cung Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ hóa kỵ, Thái âm tọa ở Dậu, Tuất, Hợi hóa kỵ, trái lại là kỵ cát đắc địa. Mệnh nữ hạn gặp Tang môn, Điếu khách chủ về gặp tai họa không nhỏ. Tử vi tọa ở 2 cung Thìn, Tuất gặp Thái tuế, hạn gặp đến đây bất luận mệnh nam hay nữ, già hay trẻ đều chủ về tai hung, thị phi, người trong nhà chia ly, tiền của hao tán, gặp tang vong. Nếu như bản thân vô sự, ắt gặp đại nạn.
Tử vi, Thiên phủ, Thiên tướng tọa ở Tý, Hợi, hội với Tả phù, Hữu bật trợ giúp, chủ về phúc không ít, lại thêm hóa cát thì phú quý song toàn đến hết đời.
Nếu như Thiên lương, Thiên đồng tọa Mệnh ở Tý, Hợi, mệnh nam phiêu bạt, mệnh nữ làm kỹ nữ.
[Nguyên văn]
Đẩu số nhất lý tối nan minh.
Tổng tại cao nhân nhất chưởng trưng.
Nam nữ họa phúc y kinh đoán.
Nữ tỷ nam hề phù bất đồng.
Tiên suy Mệnh nội chư thần sát.
Vượng hậu chung gia sổ nội tinh.
Tiểu nhi quan sát hành tầm biến.
Sinh khắc chế hóa biện phân minh.
[Thích nghĩa]
Lý luận Đẩu số rất khó hiểu.
Nói chung ở trong bàn tay của cao nhân.
Họa phúc của nam, nữ dựa vào kinh để đoán.
Nữ so với nam không giống nhau.
Trước tiên suy từ các sao trong cung Mệnh.
Sau xem các sao ở chỗ miếu vượng.
Trẻ nhỏ xem sự vận hành của sát tinh.
Biện biệt rõ lẽ sinh khắc chế hóa.
(Tử vi đẩu số phi tinh – Trần Đoàn)