Số tham hợp trong Tử vi

Tôi sẽ trả lời từng bài của anh chị em lần lượt theo thứ tự.

Quan điểm cá nhân:

Con đường Tôi đi trong cuộc đời, không có ánh sáng ban ngày, chỉ có ánh sáng ban đêm. Người ở nơi tối có thể thấy được sự vật rất bé nhỏ trong ánh sáng, và ta hiểu rằng cái mà Ta dùng ý niệm để đạt được là phần tinh túy của vật, mà không phải là phần thô của vật, nên tự ta không thể “chấp”. Nhưng, đã hiểu được con đường mình đi là bằng phẳng rồi, thì sống không còn cảm thấy vui mà khi có chết cũng không cho là tai họa. Phải chăng đây là điều ta đã nhận thấy, nhờ bản chất nhu thuận mà có thể đồng hóa được dương cương. (Thái âm)

Cái ở trong đêm tối, thì không thể “tranh huy” với cái đẹp tự nhiên khi ngày sáng. Không thể “tranh huy” khi ngày sáng, cũng có nghĩa rằng, cái ở ngày sáng khó mà nắm bắt được cái ở đêm tối. Mặt trời ban ngày nào có biết được ánh sáng khi đêm đến. Mặt trăng ban đêm có cố đi bao nhiêu chăng nữa, cũng không thể đi trước được ánh sáng ban ngày. Khởi từ ngày mồng 1 cho đến ngày 15, chứa nhất nhị tam, từ ngày 16 cho đến ngày tận của tháng chứa tứ ngũ lục. Từ ngày mồng 1 đến ngày 15 nói Thượng, từ ngày 16 đến ngày tận của tháng nói Hạ. Tùy theo thiên can ngày đầu của tháng để mà biết. Tự nhiên vậy !

Cỗ máy của Trời đang ở thời mây mù che phủ, thì phải hiểu rằng, người ta chỉ soi bóng vào mặt nước yên tĩnh, mà không thể soi bóng khi mặt nước trôi chảy. Chỉ khi mặt nước yên tĩnh, thì mới thấy được thứ tự và trật tự, không bị bối rối (rối loạn ở sau), hỗn độn ở trước. Và như vậy, thì đầu mối cỗ máy của Trời không bị mất đi đầu mối của Cơ.

Mệnh phối cục, thì theo 12. Đây nói thường lý vậy, có nghĩa tương ứng với 30

Mệnh cục phối Tài cục, thì theo 24, có nghĩa tương ứng với 15, số của Hà lạc vậy, số đầy của Nguyệt vậy.

Mệnh phối Tài cục + Quan cục, thì theo 36, có nghĩa tương ứng với 10, số của trời đất vậy. Số của Lữ vậy.

—-

Đây là tổng kết của cá nhân về huyền học – phân định mối quan hệ Thời gian:

– Mệnh phối cục, thì theo 12. Đây nói thường lý vậy, có nghĩa tương ứng với 30. Nôi dung của câu nói này, chỉ ra mối quan hệ một năm “bình dân” là 360 ngày. Khi xét 12 cung thì mỗi cung ứng 30 ngày.

– Mệnh cục phối Tài cục, thì theo 24, có nghĩa tương ứng với 15. Số của Hà Lạc vậy. Số đầy của Nguyệt vậy. Câu này, dụ ý noi theo “Dịch là nghịch số”. Theo đó xét từ Mệnh rồi tới Tài tiếp theo tới Quan, là nghịch vậy. Khi xét Mệnh rồi tới Quan, tiếp theo là Tài, thì là thuận vậy. Mệnh cục tương ứng với 12 cung, hợp với Tài cục tương ứng với 24 cung, có nghĩa mỗi cung sẽ tương đương với 15 ngày. Ví như Huyền Không phân 24 cung, mỗi cung 15 độ.

– Mệnh phối Tài cục + Quan cục, thì theo 36, có nghĩa tương ứng với 10, số của trời đất vậy. Số của Lữ vậy. Theo đó, khi ta xét Mệnh – Tài – Quan, thì mỗi cung tương ứng với 1 Tuần là 10 ngày (10 độ).

Một cung,

– Xét Mệnh tương đương 30 ngày (30 độ).

– Xét đến Mệnh Lý và Tài tương đương 15 ngày (15 độ). (Hoặc xét đến Mệnh và Quan – kỹ thì lưỡng, 30 phân đôi được 15)

– Xét đến Mệnh + Tài + Quan tương đương với 10 ngày (10 độ). Thực chất là “một chứa ba”, đây là một chìa khóa của hư huyền.

Mối quan hệ của Tuần bắt đầu từ đây !

—-

Mùa Đông vạn vật tàng ẩn, đã là tàng ẩn thì làm sao có thể nói về Ngôi + Vị được nữa. Hóa Tính của mùa Đông thường làm mất đi tính trật tự ở sau (bối rối). Hóa Lý của mùa Đông thường làm hỗn độn ở trước. Khi ta theo mùa Đông để hóa Tính, thì thường đồng nghiệp lấy nghiệp vụ ra để “tranh” (phân theo loài). Khi ta theo mùa Đông để hóa Lý (hỗn độn ở trước), thì thường mất đi định hướng, cái bên trong của ta đang bị “chấp”. Như vậy, thì khoảng cách của ta với trước ngày một xa. Ta với trước ngày một xa, ví như nhiệm vụ trên giao phó, đồng nghĩa với không hoàn thành nhiệm vụ, cũng như việc ta đang làm xét về hiệu quả và giá trị, đang chuyển biến có dấu hiệu của sự rủi ro ngày một cao.

Đầu mối của Cơ đang ở vào thời mây đen che lấp, Cơ ngộ Kị thì nên như thế nào đây?

Đã không thể bàn về Ngôi + Vị, thì ta hiểu rằng tại sao Dịch nói: “Người ở vào hoàn cảnh này không ra khỏi địa vị của mình” (Lời tượng của Dịch, ngôi quẻ Cấn – chứa cung Tài cư Dần ngộ Đồng Lương)

—-

Tùy theo thiên can ngày đầu của tháng để mà biết. Tự nhiên vậy !

Câu trích dẫn này được hiểu như thế nào?

Ngày 14/09/1928 là ngày mồng 1 tháng Tám âm lịch, là ngày có can chi Đinh Tị. Như vậy, ngày khởi Tháng là can Đinh.

– Từ ngày mồng 1 đến ngày mồng 10 thuận tự ta có: 1 Đinh Tị – 2 Mậu Ngọ – 3 Kỷ Mùi – 4 Canh Thân – 5 Tân Dậu – 6 Nhâm Tuất – 7 Quý Hợi – 8 Giáp Tý – 9 Ất Sửu – 10 Bính Dần ==> 11 Đinh Mão + 12 Mậu Thìn ngộ Tuần Sơ.

– Từ ngày 11 đến ngày 20 thuận tự ta có: 11 Đinh Mão – 12 Mậu Thìn – 13 Kỷ Tị – 14 Canh Ngọ – 15 Tân Mùi – 16 Nhâm Thân – 17 Quý Dậu – 18 Giáp Tuất – 19 Ất Hợi 20 Bính Tý ==> 21 Đinh Sửu – 22 Mậu Dần ngộ Tuần Trung.

– Từ ngày 21 đến ngày tận của tháng Tám thuận tự ta có: 21 Đinh Sửu – 22 Mậu Dần – 23 Kỷ Mão – 24 Canh Thìn – 25 Tân Tị – 26 Nhâm Ngọ – 27 Quý Mùi – 28 Giáp Thân – 29 Ất Dậu ==> tháng thiếu có 29 ngày.

—-

Cháu xin phép thử vài thức, kính mong cụ nhận xét.

Cụ Hỏa Lục Cục, Ngoại Cục là Kim tứ cục, nên nội chế ngoại.

Kỳ số cục của cụ là Thổ Ngũ Cục, nên áp dụng ý tưởng về lý thuyết vòng thái tuế của Thiên Lương thì vào các năm Giáp, cụ sẽ có những biến chuyển lớn. Vì cụ là người đã đạt đến mức độ bước ra khỏi vòng sinh tử, vượt trên thế nhân, nên cháu mới lạm đoán rằng cụ sẽ vận hạn cực lớn vào năm 2014 nhập hạn giáp Dần, vì khi đó Hỏa cục kết hợp với Tuần Giáp biến trở thành Kỳ Số Cục.

—-

Chào An Khoa

Tại Topic: “Tử vi – cái nhìn khi ta say”, bài #39 tôi nói: tập trung vào Quyền mà không tập trung vào kích Lộc – sau đó An Khoa có trích dẫn và hỏi tại sao?

Tập trung vào Quyền mà không tập trung vào kích Lộc, nói như vậy là căn cứ vào Số.

Số được thiết lập trên nguyên tắc: thứ tự số theo 60 hoa Giáp + thứ tự số can chi.

Ví dụ:

– Giáp Tý: thứ tự số trong 60 là 1, thứ tự can Giáp là 1, thứ tự chi Tý là 1, nên số của Giáp Tý là 1 + 1 + 1 = 3

– Giáp Tuất: thứ tự trong 60 là 11, thứ tự can Giáp là 1, thứ tự chi Tuất là 11, số của Giáp Tuất là: 11 + 1 + 11 = 23

…v.v.

Theo đó, xét ví dụ lá số của Tôi:

Cung Mệnh, tuổi Mậu – Mệnh cư Ngọ ứng can chi Mậu Ngọ được số 63, tham hợp Mệnh + Tài + Quan được số: Mệnh + Tài + Quan = 63 + 55 + 71 = 189 (Dần – Ngọ – Tuất)

– Tương tự như vậy thiết lập cho tham hợp Tị – Dậu – Sửu, Hợi – Mão – Mùi, và Thân – Tý – Thìn, sẽ được 3 tổ hợp số của 3 tham hợp còn lại.

– Từ 4 tổ hợp số tham hợp, căn cứ theo lớn nhỏ của số tham hợp, kết hợp với số âm luật của Mệnh và trị số Cục, để đánh giá mức độ hóa Tính và hóa Lý của Mệnh (hóa Lý theo Cục, hóa Tính theo Cách), thì biết được nên kích Quyền hay sử dụng Quyền, mà không nên dùng lý hay dùng tình

An Khoa tham khảo cho vui

—-

Minh An thân mến

Bạn cho Tôi thời gian thiết lập và suy Số + Lý cho thấu đáo, sau đó chúng ta cùng nhau thanh đàm về tổ hợp năm tháng ngày giờ đã ứng với con người của bạn.

Minh An đã tâm giao cùng Tôi tại web: tuvilysosaigon, nền tảng của Tử vi đứng trên Mệnh quẻ Tứ trụ, đây là cái mà tôi được đào tạo, mà không phải là “tự học”. Nên, Minh An tự thiết lập một quẻ ứng 120 biến cho 64 quẻ, chuyển sang 64 bảng như Tôi đã làm, nền tảng của trường phái lý + số đều chứa đựng ở trong đó.

Minh An tự thiết lập về số:

– Số cho tham hợp (của năm Giáp – Kỷ, Ất – Canh, Bính – Tân, Đinh – Nhâm, Mậu – Quý = khuôn mẫu)

– Số cho Nhị giao (nhị hợp) theo khuôn mẫu

– Số tứ chính theo khuôn mẫu

– Số tứ duy (4 góc – nơi an Trường sinh) theo khuôn mẫu

– Ghi nhận một số câu sách viết: “số thì không rõ ràng, lý thì không thể suy đến tận cùng”, “thiên biến tại tứ, địa hóa tại bát”, “hóa Lý theo Cục, hóa Tính theo Cách”, … khi thiết lập mối quan hệ số với hóa Lý và hóa Tính của Mệnh

Minh An tham khảo thêm cho vui.

—–

An Khoa thân mến

Cơ sở số tham hợp từ bảng tính dưới đây, Bạn kiểm lại giúp. Số 2550 được dùng rất nhiều trong Tam thức, cũng như Kinh Thái Huyền hay Kinh Hoàng Cực

Tuần Giáp Tý:

  • Giáp Tý = 1 + 1 + 1 = 3
  • Ất Sửu = 2 + 2 + 2 = 6
  • Bính Dần = 3 + 3 + 3 = 9
  • Đinh Mão = 4 + 4 + 4 = 12
  • Mậu Thìn = 5 + 5 + 5 = 15
  • Kỷ Tị = 6 + 6 + 6 = 18
  • Canh Ngọ = 7 + 7 + 7 = 21
  • Tân Mùi = 8 + 8 + 8 = 24
  • Nhâm Thân = 9 + 9 + 9 = 27
  • Quý Dậu = 10 + 10 + 10 = 30
  • Tuần Giáp Tý = 165

Tuần Giáp Tuất:

  • Giáp Tuất = 11 + 1 + 11 = 23
  • Ất Hợi = 12 + 2 + 12 = 26
  • Bính Tý = 13 + 3 + 1 = 17
  • Đinh Sửu = 14 + 4 + 2 = 20
  • Mậu Dần = 15 + 5 + 3 = 23
  • Kỷ Mão = 16 + 6 + 4 = 26
  • Canh Thìn = 17 + 7 + 5 = 29
  • Tân Tị = 18 + 8 + 6 = 32
  • Nhâm Ngọ = 19 + 9 + 7 = 35
  • 10 Quý Mùi = 20 + 10 + 8 = 38
  • 11 Tuần Giáp Tuất = 269 = 165 + 104

Tuần Giáp Thân:

  • Giáp Thân = 21 + 1 + 9 = 31
  • Ất Dậu = 22 + 2 + 10 = 34
  • Bính Tuất = 23 + 3 + 11 = 37
  • Đinh Hợi = 24 + 4 + 12 = 40
  • Mậu Tý = 25 + 5 + 1 = 31
  • Kỷ Sửu = 26 + 6 + 2 = 34
  • Canh Dần = 27 + 7 + 3 = 37
  • Tân Mão = 28 + 8 + 4 = 40
  • Nhâm Thìn = 29 + 9 + 5 = 43
  • 10 Quý Tị = 30 + 10 + 6 = 46
  • 11 Tuần Giáp Thân = 373 = 269 + 104

Tuần Giáp Ngọ:

  • Giáp Ngọ = 31 + 1 + 7 = 39
  • Ất Mùi = 32 + 2 + 8 = 42
  • Bính Thân = 33 + 3 + 9 = 45
  • Đinh Dậu = 34 + 4 + 10 = 48
  • Mậu Tuất = 35 + 5 + 11 = 51
  • Kỷ Hợi = 36 + 6 + 12 = 54
  • Canh Tý = 37 + 7 + 1 = 45
  • Tân Sửu = 38 + 8 + 2 = 48
  • Nhâm Dần = 39 + 9 + 3 = 51
  • 10 Quý Mão = 40 + 10 + 4 = 54
  • 11 Tuần Giáp Ngọ = 477 = 373 + 104

Tuần Giáp Thìn:

  • Giáp Thìn = 41 + 1 + 5 = 47
  • Ất Tị = 42 + 2 + 6 = 50
  • Bính Ngọ = 43 + 3 + 7 = 53
  • Đinh Mùi = 44 + 4 + 8 = 56
  • Mậu Thân = 45 + 5 + 9 = 59
  • Kỷ Dậu = 46 + 6 + 10 = 62
  • Canh Tuất = 47 + 7 + 11 = 65
  • Tân Hợi = 48 + 8 + 12 = 68
  • Nhâm Tý = 49 + 9 + 1 = 59
  • Quý Sửu = 50 + 10 + 2 = 62
  • Tuần Giáp Thìn = 477 + 104 = 581

Tuần Giáp Dần:

  • Giáp Dần = 51 + 1 + 3 = 55
  • Ất Mão = 52 + 2 + 4 = 58
  • Bính Thìn = 53 + 3 + 5 = 61
  • Đinh Tị = 54 + 4 + 6 = 64
  • Mậu Ngọ = 55 + 5 + 7 = 67
  • Kỷ Mùi = 56 + 6 + 8 = 70
  • Canh Thân = 57 + 7 + 9 = 73
  • Tân Dậu = 58 + 8 + 10 = 76
  • Nhâm Tuất = 59 + 9 + 11 = 79
  • Quý Hợi = 60 + 10 + 12 = 82
  • Tuần Giáp Dần = 581 + 104 = 685
  • 165 + 269 + 373 + 477 + 581 + 685 = 2550

—————–

Năm Giáp – Kỷ

  • Bính Dần + Canh Ngọ + Giáp Tuất = 9 + 21 + 23 = 53
  • Đinh Mão + Tân Mùi + Ất Hợi = 12 + 24 + 26 = 62
  • Mậu Thìn + Nhâm Thân + Bính Tý = 15 + 27 + 17 = 59
  • Kỷ Tị + Quý Dậu + Đinh Sửu = 18 + 30 + 20 = 68

Năm Ất – Canh

  • Mậu Dần + Nhâm Ngọ + Bính Tuất = 23 + 35 + 27 = 95
  • Kỷ Mão + Quý Mùi + Đinh Hợi = 26 + 38 + 40 = 104
  • Canh Thìn + Giáp Thân + Mậu Tý = 29 + 31 + 31 = 91
  • Tân Tị + Ất Dậu + Kỷ Sửu = 30 + 34 + 34 = 98

Năm Bính – Tân

  • Canh Dần + Giáp Ngọ + Mậu Tuất = 37 + 39 + 51 = 127
  • Tân Mão + Ất Mùi + Kỷ Hợi = 40 + 42 + 55 = 137
  • Nhâm Thìn + Bính Thân + Canh Tý = 33 + 45 + 45 = 123
  • Quý Tị + Đinh Dậu + Tân Sửu = 36 + 48 + 48 = 132

Năm Đinh – Nhâm

  • Nhâm Dần + Bính Ngọ + Canh Tuất = 51 + 53 + 65 = 169
  • Quý Mão + Đinh Mùi + Tân Hợi = 54 + 56 + 68 = 178
  • Giáp Thìn + Mậu Thân + Nhâm Tý = 47 + 59 + 59 = 165
  • Ất Tị + Kỷ Dậu + Quý Sửu = 50 + 62 + 62 = 174

Năm Mậu – Quý

  • Giáp Dần + Mậu Ngọ + Nhâm Tuất = 55 + 67 + 79 = 201
  • Ất Mão + Kỷ Mùi + Quý Hợi = 58 + 70 + 82 = 210
  • Bính Thìn + Canh Thân + Giáp Tý = 61 + 71 + 3 = 135
  • Đinh Tị + Tân Dậu + Ất Sửu = 64 + 76 + 6 = 146

—————–

An Khoa khảo xét kỹ sẽ nhận thấy ý tứ mà cổ nhân đã nói

Ví dụ ngài Dương Hùng nói: “Số của Luật là 42”

Bạn nhận thấy số Giáp Tý là 3, số Giáp Ngọ là 39, hợp số của Giáp Tý và Giáp Ngọ là 3 + 39 = 42

Hay thứ tự số của tuần Giáp Thân, đến Nhâm Thìn và Quý Tị thì số “biến”, ..v.v…

Số 104 được gọi là “căn số”, phải chăng vì tuần Giáp Tý được số 165 – 104 = 61, 60 là Nhất cục, từ 61 đến 120 là Nhị cục chăng (!)

Đẩu và Số vậy.

—————–

Lời đề nghị của Bạn đối với sao Hỷ Thần, nội dung này người đi trước Tôi cho là quan trọng, trải nghiệm để tự tìm hiểu nguyên tắc tại sao Thầy mình nói sao Hỷ Thần là quan trọng? Vấn đề ở đây, nguyên tắc lấy Hỷ Thần phối với Chủ (tinh) thùy theo nơi nhập cung, kết hợp với nạp âm nơi an Triệt, mà đưa ra giải pháp cho Ta lựa trọn để hành dụng.

Ví như:

– Giáp Kỷ an Triệt tại Thân Dậu, nạp âm Giáp Thân là Thủy, nạp âm Kỷ Dậu là Thổ, hợp lại là Thủy Thổ

– Ất Canh an Triệt tại Ngọ Mùi, nạp âm Ất Mùi là Kim, nạp âm Canh Ngọ là Thổ, hợp lại là Kim Thổ

– Bính Tân an Triệt tại Thìn Tị, nạp âm Bính Thìn là Thổ, nạp âm Tân Tị là Kim, hợp lại là Thổ Kim

– Đinh Nhâm an Triệt tại Dần Mão, nạp âm Đinh Mão là Hỏa, nạp âm Nhâm Dần là Kim, hợp lại là Hỏa Kim

– Mậu Quý an tại Tý Sửu, nạp âm Mậu Tý là Hỏa, nạp âm Quý Sửu là Mộc, hợp lại là Hỏa Mộc

Theo đó dụng theo hàm nghĩa nơi quy tụ cái “Hỷ” của “Thần” (sao Hỷ Thần), phù theo tính lý của Chủ (tinh), để Ta quyết định tiến hay lùi, khi xét mối quan hệ của Tiểu vận với lưu Thái tuế (không xét Đại vận – chỉ xét hạn cho từng năm)

—————–

Để nói về Tuần Triệt tác Âm Dương, đáng ra Minhgiac nên đưa ra khái niệm này trước:

Trời Đất tác Ngũ phương

Âm Dương tác ngũ hành

Muốn khảo cứu để từng bước có nhận thức sâu rộng hơn, thì Minhgiac nên bắt đầu từ câu Trời 3 Đất 2

Nói Trời 3 đất 2, theo ngài Trần Đoàn sáng tạo nên Dịch Long Đồ, khi Dịch nói Trời 7 Đất 8, vậy thì “tổ” của số sinh thành là 5 đã được hàm chứa, cho nên số thuận nghịch có thể nói Trời 2 Đất 3

Minhgiac hiểu về điều Tôi dẫn chuyện này như thế nào? Có thể nói ra được không? Vì rằng khái niệm này Tôi vẫn rất mơ hồ vậy !

Để có tiếng nói đồng thuận, Minhgiac bắt đầu nên (rất nên) đặt dấu “hỏi” về số Thái Huyền:

– Trời Giáp Kỷ – Đất Tý Ngọ = 9

– Trời Ất Canh – Đất Sửu Mùi = 8

– Trời Bính Tân – Đất Dần Thân = 7

– Trời Đinh Nhâm – Đất Mão Dậu = 6

– Trời Mậu Quý – Đất Thìn Tuất = 5

– Trời không – Đất Tị Hợi = 4

Mệnh tính cho Người khi xét số Tử Vi, cũng căn cứ vào số Thái Huyền, Minhgiac hãy tìm nguyên nhân tại sao Trời không lại ứng với Tị Hợi hàm chứa số 4?

—————–

Bài #189 – #190 – #191 chỉ để dẫn tới, nhằm làm sáng tỏ tuổi Bính, thuận tới cung Tị ngộ can Quý, theo đó Lộc Tồn (thuận) nghịch tới cung Tị, nên Mệnh số được hưởng sao Hỷ Thần vậy !

Tôi có thể hiểu được tại sao Minhgiac có khả năng, và nói rằng “học trong giấc mơ …”

Của Cụ ấy viết thực chất là cụ nói tới vòng lộc tồn. Này nhé, minhgiac tuổi bính, mệnh tại Tị cung theo ngũ hổ độn, bính tân thì mệnh đóng tại tị cung có nạp âm là quý tị. Tuổi bính lộc tồn tại Tị, hỷ thần tại Tý, vì mệnh gặp Quý – quý tị – nên tại Tý thì có Hỷ thần, là cung Tật ách – một cung mệnh thứ hai?, đặt dấu hỏi là vì tôi không theo thuyết này – thành thử Hỷ thần hiện ra, do mệnh gặp Quý như Tồn tại mệnh vậy. Theo đó mà xét sự phối hợp Hỷ thần với chính tinh để có kết luận – cũng như một dạng tìm sao chủ cung vậy !!!

Thân ái.

—————–

@ Minh An:

Tôi đang lựa chọn một số tiêu chuẩn nhân sự, để kê cứu phương án mà Minh An đã nêu ở trên, thì thấy vẫn có đôi chỗ chưa thỏa mãn tiêu chuẩn mà mình đặt ra.

Ví dụ như: tiêu chuẩn về “tam nguyên”, đương số ứng với Thượng nguyên là khó khảo cứu, vì quy tắc số 5 khi động – biến – hóa, thì người sinh Thượng Nguyên nguyên quy định Nam ở cung Cấn – nữ ở cung Khôn (người sinh Thượng nguyên đến thời điểm này là khó kê cứu). Người sinh ở Trung Nguyên, thì nam sinh năm Dương và nữ sinh năm Âm đều ở cung Cấn, năm sinh năm Âm và nữ sinh năm Dương đều ở cung Khôn (thế hệ bọn tôi). Và người sinh thuộc Hạ nguyên, thì định lệ Nam ở cung Ly nữ ở cung Đoài.

Hoặc lựa chọn theo tiêu chuẩn “thanh trong” và “nặng đục”, theo Hư Trung thì Mộc Hỏa thuộc “thanh trong”, còn Thổ Thủy Kim thuộc “nặng đục”, theo đó thì “cảnh giới” của những đương số thuộc Mộc và Hỏa, khi hành Đại vận tới phương Tây và phương Bắc, cũng như “cảnh giới” của những lá số lựa chọn thuộc “nặng đục” hành Đại vận về phương Đông và phương Nam, …

Hoặc lựa chọn lá số mẫu theo Ngũ bại, Thủy và Thổ cùng bại tại Dậu, năm Ất Canh có Thủy bại tại Dậu, năm Đinh Nhâm có Thổ bại tại Dậu, …

…v.v…

Một số ý kiến để xét theo tiêu chuẩn, chọn những lá số tiêu biểu cho việc kê cứu, Minh An thấy có cần bổ xung thêm tiêu chuẩn nào nữa không?

—————–

Minh An nói: “lấy những thường thức căn bản để tham khảo”, vậy thì hàm nghĩa của chữ “nguyên” ở đây là gì?

Có phải hàm nghĩa của chữ “nguyên” là cái khởi đầu (lớn), ví dụ như nói cái khởi đầu của thời gian, đối với niên chi khởi từ Tý, đối với nguyệt chi khởi từ Dần, …

Nói “nguyên thần”, có thể hiểu là “(cái) nơi khởi đầu của Thần”? Nếu theo hàm nghĩa này, thì xác định “(cái) nơi khởi đầu của Thần” để làm gì? Ví như lá số Tử vi ứng với con người Tôi, thì Minh An xác định lại, có phải Thiên Phủ an tại Hợi không? (dư 4)

Thiên phủ tại Hợi, “cái khởi đầu lớn của Thần” an tại Tị, và như vậy cung Mệnh của Tôi không có chủ (vô chủ), Tử vi hóa Thất sát thành “quyền”, nhưng “cô quân”, vậy thì nên hiểu như thế nào về “nguyên thần” với lá số Tử vi của Tôi?

(Chép bài hướng dẫn của cụ Hà Uyên trên TVLS)

Trusted by some of the biggest brands

spaces-logo-white
next-logo-white
hemisferio-logo-white
digitalbox-logo-white
cglobal-logo-white
abstract-logo-white
white-logo-glyph

We’re Waiting To Help You

Get in touch with us today and let’s start transforming your business from the ground up.