Liêm Trinh ở cung phu thê
Liêm Trinh thủ cung phu thê, không phải là sao lành, nhưng chủ về sinh li nhiều hơn tử biệt, vợ chồng bất hòa nhưng có thể sống với nhau đến bạc đầu, tạm coi là có kết cục tốt. Nếu Liêm Trinh Hóa Kị, lại trùng điệp với chính diệu khác Hóa Kị (của đại vận hoặc lưu niên), còn gặp sát tinh tụ hợp, thường thường là cung hạn ứng nghiệm sinh li tử biệt.
Liêm Trinh thủ cung phu thê, tối kị Tham Lang, Phá Quân. Đây là luận đoán đại cương. Nếu gặp các sao sát, kị, thường thường chủ về hai, ba lần hôn nhân, nữ mệnh chủ về làm nhị phòng hay kế thất, nam mệnh chủ về lấy vợ mà không cử hành hôn lễ chính thức, đây cũng có thể là đạo “xu cát tị hung”. Liêm Trinh cũng rất kị Hỏa Tinh đồng cung, dù gặp cát tinh và cát hóa, cũng chủ về vì hoàn cảnh khách quan mà vợ chồng ở hai nơi.
Liêm Trinh ở cung phu thê, nam mệnh nên lấy vợ nhỏ tuổi, nữ mệnh nên lấy chồng lớn tuổi, chênh lệch trên 12 tuổi cũng được.
“Liêm Trinh, Thiên Tướng” ở hai.cung Tí hoặc Ngọ, đối nhau với Phá Quân, là tính chất không tốt. Dù có cát hóa, sao cát, vẫn chủ về vợ chồng bảo thủ ý kiến của riêng mình, mạnh ai nấy lo mà không cùng nhau tính toán, vì vậy mà dẫn đến bất hòa.
“Liêm Trinh, Thiên Tướng” ở hai cung Tí hoặc Ngọ, có Kình Dương đồng độ hoặc vây chiếu, lại gặp Hỏa Tinh, Linh Tinh, hoặc Địa Không, Địa Kiếp, chủ về người bạn đời bị nạn tai, bệnh tật. Các cung hạn Thất Sát, “Tử Vi, Thiên Phủ”, Phá Quân, Tham Lang là đại vận hoặc lưu niên xảy ra ứng nghiệm.
“Liêm Trinh, Thiên Tướng” ở hai cung Tí hoặc Ngọ, thủ cung phu thê, không nên gặp “sao lẻ” phụ, tá, đây cũng là điềm tượng tái hôn. Đại vận hoặc lưu niên ứng nghiệm thường thường đến cung hạn có Văn Xương hay Văn Khúc Hóa Kị.
“Liêm Trinh, Thiên Tướng” ở hai cung Tí hoặc Ngọ, thủ cung phu thê, vợ chồng nên chênh lệch tuổi tác, trên 12 tuổi cũng được. Gặp Văn Xương, Văn Khúc, chủ về hòa hợp và sống với nhau đến bạc đầu.
“Liêm Trinh, Thất Sát” ở hai cung Sửu hoặc Mùi, trong tình huống có Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa tụ tập đủ, mà còn gặp “sao đôi” phụ, tá, mới có thể sống với nhau đến bạc đầu, nhưng vẫn có một thời gian vợ chồng xa nhau.
Nếu “Liêm Trinh, Thất Sát” gặp “sao lẻ” phụ, tá, cũng chủ về tái hôn; gặp Kình Dương, Đà La đồng độ, sẽ chủ về “hình khắc”, ứng nghiệm tái hôn là đến các cung hạn Thiên Đồng, Cự Môn, “Vũ Khúc, Phá Quân”; ứng nghiệm hình khắc là đến cung hạn “Liêm Trinh, Thất Sát” Hóa Kị trùng điệp xung chiếu, ở cung phu thê, cung điền trạch, hoặc cung phúc đức đều đúng.
“Liêm Trinh, Thất Sát” ở hai cung Sửu hoặc Mùi, có Kình Dương đồng độ hoặc vây chiếu, lại gặp Thiên Hình, mà không gặp “sao lẻ” phụ, tá, không chủ về “hình khắc” không chủ về chi li, chỉ chủ về người bạn đời được người khác giới để mắt, ưu ái. Thích họp với các nghề nghiệp thường tiếp xúc người khác giới.
Liêm Trinh ở hai cung Dần hoặc Thân, đối cung là “Hỏa Tham”, ” Linh Tham “, chủ về tình yêu nồng cháy, nhưng dễ đứt đoạn giữa chừng. Nếu Liêm Trinh có Văn Xương, Văn Khúc hội hợp, thì vợ chồng có thể giữ lễ, không đến nỗi vượt qua giới hạn.
Liêm Trinh ở hai cung Dần hoặc Thân, đồng độ với Hỏa Tinh, Linh Tinh, chủ về thành hôn hấp tấp, vội vàng. Nếu gặp thêm Thiên Diêu, phần nhiều ở chung trước rồi mới kết hôn. Trường hợp có các sao sát, kị trùng trùng, chủ về tái hôn hoặc ba lần hôn nhân.
Liêm Trinh ở hai cung Dần hoặc Thân, hội Thiên Tướng bị “Hình kị giáp ấn”, nữ mệnh chủ về là nhị phòng.
Liêm Trinh ở hai cung Dần hoặc Thân, thường chủ về có tình yêu với người đã có gia đình. Đến cung hạn phu thê “Vũ Khúc, Thiên Phủ”, mà còn gặp các sao đào hoa, Văn Xương, Văn Khúc, là đại vận hoặc lưu niên ứng nghiệm.
Đối với Liêm Trinh ở hai cung Dần hoặc Thân, các cung hạn Phá Quân, Tham Lang, Thiên Lương (ở cung Tị), Thiên Đồng (ở cung Tị) là những đại vận hoặc lưu niên ứng nghiệm cát hung có tính then chốt.
“Liêm Trinh, Phá Quân” đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu, tính chất đổ vỡ khá nghiêm trọng, dù có cát hóa và sao cát, cũng chủ về vợ chồng bất hòa.
“Liêm Trinh, Phá Quân” đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu, lại gặp Hỏa Tinh, Linh Tinh đồng độ, là họa lớn, chủ về người bạn đời gặp bất trắc, hoặc vì người bạn đời mà dẫn đến thất bại. Lúc luận đoán cung phu thê của đại hạn cần phải xem lúc nào xảy ra ứng nghiệm và tính chất của sự kiện (ví dụ như cung phu thê của đại hạn là “Vũ Khúc, Tham Lang” mà Vũ Khúc Hóa Kị, có thể là điềm thất bại; là Thiên Đồng Hóa Kị thì có thể là gặp bất trắc).
“Liêm Trinh, Phá Quân” đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu, gặp “sao lẻ” phụ, tá là chủ về tái hôn; gặp sao đôi Văn Xương, Văn Khúc, còn gặp thêm các sao đào hoa, sẽ chủ về thay lòng đổi dạ, có người khác. Phần nhiều tái hôn vẫn không thấy tốt đẹp; nữ mệnh tái hôn thường không có danh phận.
Đối với “Liêm Trinh, Phá Quân” đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu, thủ cung phu thê, đến các cung hạn “Vũ Khúc, Tham Lang”, “Thiên Đồng, Thái Âm”, “Thiên Cơ, Thiên Lương”, Thiên Tướng, thủ cung phu thê của đại vận hoặc lưu niên là ứng nghiệm cát hung có tính then chốt.
“Liêm Trinh, Thiên Phủ” đồng độ ở hai cung Thìn hoặc Tuất, kết cấu khá ổn định, phần nhiều chỉ chủ về bất hòa, nhưng không có “hình khắc” hay chia li.
“Liêm Trinh, Thiên Phủ” đồng độ ở hai cung Thìn hoặc Tuất, cũng chủ về dễ bị người đã có gia đình theo đuổi, nhất là lúc “Vũ Khúc, Thiên Tướng” bị Thiên Đồng Hóa Kị, hoặc Cự Môn Hóa Kị giáp cung, càng dễ xảy ra sự cố. Nếu “Liêm Trinh, Thiên Phủ” hội “sao lẻ” phụ, tá, thì thường do đó mà vợ chồng li dị.
“Liêm Trinh, Thiên Phủ” đồng độ ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Liêm Trinh Hóa Kị, hoặc hội Vũ Khúc Hóa Kị, còn gặp thêm các sao sát, hình, không, kiếp, cũng chủ về vợ chồng li dị. Có điều, nam mệnh sau khi li hôn lại lấy được vợ đẹp, có năng lực làm việc, nhưng với vợ cũ thì “ngó đứt mà tơ chưa lìa”.
Đối với “Liêm Trinh, Thiên Phủ” đồng độ ở hai cung Thìn hoặc Tuất, các cung hạn “Thái Dương, Thiên Lương”, “Vũ Khúc, Thiên Tướng”, “Thiên Đồng, Cự Môn” và “Liêm Trinh, Thiên Phủ” là những đại vận hoặc lưu niên có tính then chốt.
“Liêm Trinh, Tham Lang” đồng độ ở hai cung Tị hoặc Hợi, hội “Tử Vi, Phá Quân” và “Vũ Khúc, Thất Sát”, thủ cung phu thê thì tính chất không lành. Dù được cát hỏa và có sao cát, cũng chủ về hôn nhân không được tốt đẹp. Gặp các sao sát, hình, không, kiếp, chủ về vợ chồng li dị, hoặc vì sự cố sắc tình mà dẫn đến kiện tụng. Nếu lại gặp Hóa Kị, thì chủ về hình khắc.
“Liêm Trinh, Tham Lang” đồng độ ở hai cung Tị hoặc Hợi, có Hỏa Tinh, Linh Tinh đồng cung, chủ về vợ chồng hữu danh vô thực, hoặc bề ngoài hòa hợp nhưng trong lòng có nỗi khổ đau thầm kín.
“Liêm Trinh, Tham Lang” đồng độ ở hai cung Tị hoặc Hợi gặp “sao lẻ” phụ, tá, nam mệnh hay nữ mệnh đều chủ về hai lần nhân duyên, lần thứ hai tốt hơn lần đầu.
“Liêm Trinh, Tham Lang” đồng độ ở hai cung Tị hoặc Hợi, nếu là mượn sao an cung thì tính chất xấu hơn so với “Liêm Trinh, Tham Lang” của nguyên cung, chủ về tái hôn không tốt hơn hôn nhân lần đâu.
“Liêm Trinh, Tham Lang” đồng độ ở hai cung Tị hoặc Hợi, gặp Lộc Tồn, Thiên Mã, Hỏa Tinh, Linh Tinh, cũng chủ về vì hoàn cảnh khách quan mà người bạn đời phải ở nơi khác.
“Liêm Trinh, Tham Lang” đồng độ ở hai cung Tị hoặc Hợi, có sao đào hoa cùng bay đến, chủ về người bạn đời có tài năng nghệ thuật, nhưng hôn nhân cũng dễ đổ vỡ.
Đối với “Liêm Trinh, Tham Lang” đồng độ ở hai cung Tị hoặc Hợi, các cung hạn “Tử Vi, Phá Quân”, “Vũ Khúc, Thất Sát”, “Thiên Đồng, Thiên Lương”, Cự Môn là những đại vận hoặc lưu niên có tính then chốt.
Theo Trung Châu Tam Hợp Phái – Nguyễn Anh Vũ biên dịch
Liêm Trinh thủ cung phu thê, tối kị Tham Lang, Phá Quân. Đây là luận đoán đại cương. Nếu gặp các sao sát, kị, thường thường chủ về hai, ba lần hôn nhân, nữ mệnh chủ về làm nhị phòng hay kế thất, nam mệnh chủ về lấy vợ mà không cử hành hôn lễ chính thức, đây cũng có thể là đạo “xu cát tị hung”. Liêm Trinh cũng rất kị Hỏa Tinh đồng cung, dù gặp cát tinh và cát hóa, cũng chủ về vì hoàn cảnh khách quan mà vợ chồng ở hai nơi.
Liêm Trinh ở cung phu thê, nam mệnh nên lấy vợ nhỏ tuổi, nữ mệnh nên lấy chồng lớn tuổi, chênh lệch trên 12 tuổi cũng được.
“Liêm Trinh, Thiên Tướng” ở hai.cung Tí hoặc Ngọ, đối nhau với Phá Quân, là tính chất không tốt. Dù có cát hóa, sao cát, vẫn chủ về vợ chồng bảo thủ ý kiến của riêng mình, mạnh ai nấy lo mà không cùng nhau tính toán, vì vậy mà dẫn đến bất hòa.
“Liêm Trinh, Thiên Tướng” ở hai cung Tí hoặc Ngọ, có Kình Dương đồng độ hoặc vây chiếu, lại gặp Hỏa Tinh, Linh Tinh, hoặc Địa Không, Địa Kiếp, chủ về người bạn đời bị nạn tai, bệnh tật. Các cung hạn Thất Sát, “Tử Vi, Thiên Phủ”, Phá Quân, Tham Lang là đại vận hoặc lưu niên xảy ra ứng nghiệm.
“Liêm Trinh, Thiên Tướng” ở hai cung Tí hoặc Ngọ, thủ cung phu thê, không nên gặp “sao lẻ” phụ, tá, đây cũng là điềm tượng tái hôn. Đại vận hoặc lưu niên ứng nghiệm thường thường đến cung hạn có Văn Xương hay Văn Khúc Hóa Kị.
“Liêm Trinh, Thiên Tướng” ở hai cung Tí hoặc Ngọ, thủ cung phu thê, vợ chồng nên chênh lệch tuổi tác, trên 12 tuổi cũng được. Gặp Văn Xương, Văn Khúc, chủ về hòa hợp và sống với nhau đến bạc đầu.
“Liêm Trinh, Thất Sát” ở hai cung Sửu hoặc Mùi, trong tình huống có Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa tụ tập đủ, mà còn gặp “sao đôi” phụ, tá, mới có thể sống với nhau đến bạc đầu, nhưng vẫn có một thời gian vợ chồng xa nhau.
Nếu “Liêm Trinh, Thất Sát” gặp “sao lẻ” phụ, tá, cũng chủ về tái hôn; gặp Kình Dương, Đà La đồng độ, sẽ chủ về “hình khắc”, ứng nghiệm tái hôn là đến các cung hạn Thiên Đồng, Cự Môn, “Vũ Khúc, Phá Quân”; ứng nghiệm hình khắc là đến cung hạn “Liêm Trinh, Thất Sát” Hóa Kị trùng điệp xung chiếu, ở cung phu thê, cung điền trạch, hoặc cung phúc đức đều đúng.
“Liêm Trinh, Thất Sát” ở hai cung Sửu hoặc Mùi, có Kình Dương đồng độ hoặc vây chiếu, lại gặp Thiên Hình, mà không gặp “sao lẻ” phụ, tá, không chủ về “hình khắc” không chủ về chi li, chỉ chủ về người bạn đời được người khác giới để mắt, ưu ái. Thích họp với các nghề nghiệp thường tiếp xúc người khác giới.
Liêm Trinh ở hai cung Dần hoặc Thân, đối cung là “Hỏa Tham”, ” Linh Tham “, chủ về tình yêu nồng cháy, nhưng dễ đứt đoạn giữa chừng. Nếu Liêm Trinh có Văn Xương, Văn Khúc hội hợp, thì vợ chồng có thể giữ lễ, không đến nỗi vượt qua giới hạn.
Liêm Trinh ở hai cung Dần hoặc Thân, đồng độ với Hỏa Tinh, Linh Tinh, chủ về thành hôn hấp tấp, vội vàng. Nếu gặp thêm Thiên Diêu, phần nhiều ở chung trước rồi mới kết hôn. Trường hợp có các sao sát, kị trùng trùng, chủ về tái hôn hoặc ba lần hôn nhân.
Liêm Trinh ở hai cung Dần hoặc Thân, hội Thiên Tướng bị “Hình kị giáp ấn”, nữ mệnh chủ về là nhị phòng.
Liêm Trinh ở hai cung Dần hoặc Thân, thường chủ về có tình yêu với người đã có gia đình. Đến cung hạn phu thê “Vũ Khúc, Thiên Phủ”, mà còn gặp các sao đào hoa, Văn Xương, Văn Khúc, là đại vận hoặc lưu niên ứng nghiệm.
Đối với Liêm Trinh ở hai cung Dần hoặc Thân, các cung hạn Phá Quân, Tham Lang, Thiên Lương (ở cung Tị), Thiên Đồng (ở cung Tị) là những đại vận hoặc lưu niên ứng nghiệm cát hung có tính then chốt.
“Liêm Trinh, Phá Quân” đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu, tính chất đổ vỡ khá nghiêm trọng, dù có cát hóa và sao cát, cũng chủ về vợ chồng bất hòa.
“Liêm Trinh, Phá Quân” đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu, lại gặp Hỏa Tinh, Linh Tinh đồng độ, là họa lớn, chủ về người bạn đời gặp bất trắc, hoặc vì người bạn đời mà dẫn đến thất bại. Lúc luận đoán cung phu thê của đại hạn cần phải xem lúc nào xảy ra ứng nghiệm và tính chất của sự kiện (ví dụ như cung phu thê của đại hạn là “Vũ Khúc, Tham Lang” mà Vũ Khúc Hóa Kị, có thể là điềm thất bại; là Thiên Đồng Hóa Kị thì có thể là gặp bất trắc).
“Liêm Trinh, Phá Quân” đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu, gặp “sao lẻ” phụ, tá là chủ về tái hôn; gặp sao đôi Văn Xương, Văn Khúc, còn gặp thêm các sao đào hoa, sẽ chủ về thay lòng đổi dạ, có người khác. Phần nhiều tái hôn vẫn không thấy tốt đẹp; nữ mệnh tái hôn thường không có danh phận.
Đối với “Liêm Trinh, Phá Quân” đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu, thủ cung phu thê, đến các cung hạn “Vũ Khúc, Tham Lang”, “Thiên Đồng, Thái Âm”, “Thiên Cơ, Thiên Lương”, Thiên Tướng, thủ cung phu thê của đại vận hoặc lưu niên là ứng nghiệm cát hung có tính then chốt.
“Liêm Trinh, Thiên Phủ” đồng độ ở hai cung Thìn hoặc Tuất, kết cấu khá ổn định, phần nhiều chỉ chủ về bất hòa, nhưng không có “hình khắc” hay chia li.
“Liêm Trinh, Thiên Phủ” đồng độ ở hai cung Thìn hoặc Tuất, cũng chủ về dễ bị người đã có gia đình theo đuổi, nhất là lúc “Vũ Khúc, Thiên Tướng” bị Thiên Đồng Hóa Kị, hoặc Cự Môn Hóa Kị giáp cung, càng dễ xảy ra sự cố. Nếu “Liêm Trinh, Thiên Phủ” hội “sao lẻ” phụ, tá, thì thường do đó mà vợ chồng li dị.
“Liêm Trinh, Thiên Phủ” đồng độ ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Liêm Trinh Hóa Kị, hoặc hội Vũ Khúc Hóa Kị, còn gặp thêm các sao sát, hình, không, kiếp, cũng chủ về vợ chồng li dị. Có điều, nam mệnh sau khi li hôn lại lấy được vợ đẹp, có năng lực làm việc, nhưng với vợ cũ thì “ngó đứt mà tơ chưa lìa”.
Đối với “Liêm Trinh, Thiên Phủ” đồng độ ở hai cung Thìn hoặc Tuất, các cung hạn “Thái Dương, Thiên Lương”, “Vũ Khúc, Thiên Tướng”, “Thiên Đồng, Cự Môn” và “Liêm Trinh, Thiên Phủ” là những đại vận hoặc lưu niên có tính then chốt.
“Liêm Trinh, Tham Lang” đồng độ ở hai cung Tị hoặc Hợi, hội “Tử Vi, Phá Quân” và “Vũ Khúc, Thất Sát”, thủ cung phu thê thì tính chất không lành. Dù được cát hỏa và có sao cát, cũng chủ về hôn nhân không được tốt đẹp. Gặp các sao sát, hình, không, kiếp, chủ về vợ chồng li dị, hoặc vì sự cố sắc tình mà dẫn đến kiện tụng. Nếu lại gặp Hóa Kị, thì chủ về hình khắc.
“Liêm Trinh, Tham Lang” đồng độ ở hai cung Tị hoặc Hợi, có Hỏa Tinh, Linh Tinh đồng cung, chủ về vợ chồng hữu danh vô thực, hoặc bề ngoài hòa hợp nhưng trong lòng có nỗi khổ đau thầm kín.
“Liêm Trinh, Tham Lang” đồng độ ở hai cung Tị hoặc Hợi gặp “sao lẻ” phụ, tá, nam mệnh hay nữ mệnh đều chủ về hai lần nhân duyên, lần thứ hai tốt hơn lần đầu.
“Liêm Trinh, Tham Lang” đồng độ ở hai cung Tị hoặc Hợi, nếu là mượn sao an cung thì tính chất xấu hơn so với “Liêm Trinh, Tham Lang” của nguyên cung, chủ về tái hôn không tốt hơn hôn nhân lần đâu.
“Liêm Trinh, Tham Lang” đồng độ ở hai cung Tị hoặc Hợi, gặp Lộc Tồn, Thiên Mã, Hỏa Tinh, Linh Tinh, cũng chủ về vì hoàn cảnh khách quan mà người bạn đời phải ở nơi khác.
“Liêm Trinh, Tham Lang” đồng độ ở hai cung Tị hoặc Hợi, có sao đào hoa cùng bay đến, chủ về người bạn đời có tài năng nghệ thuật, nhưng hôn nhân cũng dễ đổ vỡ.
Đối với “Liêm Trinh, Tham Lang” đồng độ ở hai cung Tị hoặc Hợi, các cung hạn “Tử Vi, Phá Quân”, “Vũ Khúc, Thất Sát”, “Thiên Đồng, Thiên Lương”, Cự Môn là những đại vận hoặc lưu niên có tính then chốt.
Theo Trung Châu Tam Hợp Phái – Nguyễn Anh Vũ biên dịch