Lập cực và tự làm thể dụng
【飞星漫谈四十三】立极和自为体用
四十三【立极和自为体用】两个不同的慨念
最近谈论到「立极」(或移「太极点」)的问题。发觉到很多人会把「立极」和「自为体用」当成是同一回事。
「立极」就是把「命宫」移动到另一个宫,再以所在之宫为「命宫」,立十二宫。
例如,以「官禄宫」「立极」,那么原来的「命宫」,就可以看成以「官禄宫」为太极的「财帛宫」,所以「命宫」也可以是「官禄的财帛宫」。
同样道理,「命宫」也是「财帛的气数位」,因为如果以「财帛宫」「立极」,那么「命宫」就是以「财帛宫」为太极的「官禄宫」,也就是气数的宫位。如此类推。
虽然「立极」好像很玄,但其实大限的用法也是「立极」的一个例子。第二个大限开始,「大限盘」就会顺(或逆)移一格。如果是顺行,你第二个大限的「命宫」就是你本命的「父母宫」。以飞星派的说法,就是等同「在父母宫立极」。
立了极后,以这个「太极点」为首的十二宫就是「体」。如果以「太极点」的宫位做飞化,就叫做「自为体用」。
三合派的人习惯运用大限「命宫」的四化,而大限「命宫」所飞出来的四化,以飞星派的说法,就是「自为体用」。
那么,什么时候「立了极」,但又不等同「自为体用」呢?其实第一篇飞星漫谈【飞星漫谈 一】 如何看没有良心的人也已经是一个好例子。以「官禄宫」的飞化飞回本命的命盘,其实就是「以命宫为体,官禄为用」。也就是说,以「命宫」为太极,「官禄宫」为用。
例如,想知道「夫妻宫」飞忌往「福德宫」(「夫妻宫」的宫干使福德宫内坐的星化忌)代表什么,可以以「夫妻宫」「立极」,再看看以「夫妻宫」为太极的飞化去了以「夫妻宫」为「体」的那一个宫。你会发觉,本命的「福德宫」其实是以「夫妻宫」「立极」时的「官禄官」,也就是说,可以视为「配偶」飞忌入「配偶的官禄宫」,是代表配偶是工作狂。
[Phi tinh mạn đàm 43] – Lập cực và tự làm thể dụng43. [Lập cực và tự làm thể dụng] – Hai khái niệm bất đồng
Gần đây đàm luận đến vấn đề “Lập cực” (hoặc dời “Thái cực điểm”). Phát hiện ra rất nhiều người đem “Lập cực” và “Tự làm thể dụng” trở thành một.
“Lập cực” chính là đem “cung Mệnh” dời đến một cung khác, lại lấy chỗ của cung đó làm “Cung Mệnh”, lập lại mười hai cung.
Ví dụ như lấy “cung Quan lộc” “Lập cực”, như vậy thành ra “Cung Mệnh” có thể được xem là cung Tài bạch của cung Quan lộc lập cực, cho nên “Cung Mệnh” cũng có thể là “Quan lộc của cung Tài bạch”.
Tương tự như vậy, “Cung Mệnh” cũng là “khí số vị của tài bạch”, bởi vì nếu như lấy “Cung tài bạch” “Lập cực”, như vậy “Cung Mệnh” chính là lấy cung Quan lộc của cung Tài lập cục, cũng chính là cung khí số vị… Cứ như vậy suy ra.
Mặc dù “Lập cực” thật giống như rất khó hiểu, nhưng thực ra cách dùng đại cùng là một ví dụ về cách “Lập cực” mà thôi. Đại hạn thứ hai bắt đầu, “Đại hạn bàn” sẽ thuận (hoặc nghịch) dời một ô. Nếu như là thuận, “Cung Mệnh” của đại hạn thứ hai chính là “cung Phụ mẫu” nguyên cục. Lấy phi tinh phái giải thích, chính là xem như “Ở cung Phụ mẫu lập cực”.
Lập cực xong, lấy “Thái cực điểm” đứng đầu mười hai cung, đây chính là “Thể”.
Nếu như lấy cung vị “Thái cực điểm” mà phi hóa, thì gọi là “Tự làm thể dụng”.
Những người của Tam hợp phái có tập quán dùng tứ hóa đại hạn “Cung Mệnh”, mà đại hạn “Cung Mệnh” phát xuất tứ hóa ra ngoài, theo lối giải thích của phi tinh phái thì cũng chính là “Tự làm thể dụng”.
Như vậy, lúc nào “Lập cực”nhưng lại không phải là “Tự làm thể dụng”? Thật ra thì phần đầu tiên của phi tinh mạn đàm [Phi tinh mạn đàm 1] – Làm sao khán một người không có lương tâm cũng đã là một ví dụ điển hình. Lấy “Cung quan lộc” phi hóa bay về mệnh bàn nguyên cục, thật ra thì chính là “Lấy Cung Mệnh làm thể, quan lộc làm dụng”. Nói cách khác, lấy “cung Mệnh” làm Thái cực, “Cung Quan lộc” làm dụng.
Ví dụ, muốn biết “cung Phu thê” phi kỵ đến “cung Phúc đức” (Can “cung Phu thê” khiến cho sao trong tọa trong cung Phúc đức hóa kỵ) đại biểu cái gì ? Ta có thể lấy “cung Phu thê” “Lập cực”, lại lấy phi hóa của “Cung phu thê” làm Thái cực để xem. Rồi lấy “cung Phu thê” làm “Thể”. Ngươi sẽ phát giác, “cung Phúc đức” bản mệnh thật ra là cung Quan lộc của cung Phu thê khi lập cực. Nói cách khác, có thể coi là “Phối ngẫu” phi kỵ nhập “cung quan lộc của phối ngẫu”, là đại biểu phối ngẫu của ngươi là người cuồng công việc.
TỬ VI ĐẨU SỐ PHI TINH TỨ HÓA CỬU THIÊN MẠN ĐÀM – Diệp Khai Nguyên biên dịch