Ghi chép các bài viết hay về Tử Vi trên các diễn đàn

Bài viết ghi chép lại một số bài và topic hay trên các diễn đàn lý số để nghiên cứu.

Về việc ngũ hành trong Tử Vi

Chép lại bài viết trong thread diễn đàn của tác giả VDTT

Mỗi chúng ta có một loại cơ duyên, cũng có một loại nợ nào đó. Vì vậy người học Tử Vi đã tin một lối xem nào đó thì rất khó bỏ. Nhưng tối thiểu thời nay vấn đề truyền thông đã đạt mức toàn cầu, chúng ta mau chóng cập nhật được những gì xảy ra hoặc đã xảy ra ở nơi khác, nhờ đó dễ tránh được các vết xe đổ của người khác.

Khoa học từng có những bước dzích dzắc, trước đi từ A đến B, sau lai thấy A đúng phải lùi lại A, nên tôi không dám khẳng định thuyết nào đúng thuyết nào sai, nhưng thiết nghĩ chúng ta nên biết đại khái diễn trình hưng suy của ngũ hành trong Tử Vi ở Đài Loan trong thời trăm hoa đua nở. Bởi không có gi đáng tiếc bằng bỏ bao nhiêu công lao mà chỉ đi vào vết xe đổ của ngưòi xưa.

Năm 1985 ông Sở Hoàng (Đài Loan) ra quyển “Tử Vi Hỉ Kị thần đại đột phá” bảo rằng ngũ hành đóng vai trò chủ yếu trong Tử Vi. Điểm chính là ông dựa vào lý vượng tướng hưu tù tuyệt mà luận sự cường nhược của chính tinh.

Cùng trong khoảng thời gian từ đầu đến giữa thập niên 80 có ông Phương Vô Kị mở trường dạy Tử Vi,có phổ biến 7 tập giáo tài ra ngoài thị trường, trong đó có 4 tập cực kỳ đồ sộ (nghe đâu mỗi tập đồ sộ này đều dày trên 500, 600 trang). Tiếc là tôi chỉ mua được hai tập bề dày bình thường (dưới 200 trang) nên không rõ toàn thể lý thuyết của ông Phương Vô Kị, tuy nhiên cũng thấy ông áp dụng lý ngũ hành vượng tướng hưu tù tuyệt để luận sự cường nhược của các chính tinh.

Hai vị này là những nhân vật nổi tiếng một thời,nhưng mau chóng chìm vào quên lãng để nhường chỗ cho một trào lưu khác mà đại biểu nổi bật đầu tiên là ông Liễu Vô cư sĩ.

Khiông Sở Hoàng ra sách Tử Vi Hỉ Kị thần đại đột phá ông Liễu Vô cư sĩ đã thành danh từ khá lâu trong làng Tử Bình (sách ra từ năm1980). Điểm này quan trọng vì nó cho ta biết là ông Liễu Vô cư sĩ hết sức quen thuộc với lý ngũ hành hỉ kị của khoa Tử Bình.

Xin tự trích một phần tôi đã viết đăng báo ngày xưa về nhân vật độc đáo này:

“Từ cách lập luận trong các bài viết cũng như dựa theo thư mục các sách đã xuất bản đầu thập niên 1990 ta biết ông Liễu Vô Cư Sĩ lập danh là chuyên gia Tử Bình, với hai quyển sách “Hiện đại nhân đích bát tự” (bát tự của người hiện đại) và “Bát tự đích thế giới” (thế giới của khoa bát tự) in năm 1980. Soạn giả chưa được đọc hai quyển này, nhưng nghe nói trong đó ông kịch liệt đả phá cách xem bát tự của người xưa. Thì ra, ngay với hai quyển sách đầu tay, dấu hiệu cách mạng (hay “phá hoại”, tùy người nhận định) của ông đã tỏ lộ ra rồi.

Vì một tình cờ của lịch sử, thập niên 1980 chính là lúc mà khoa Tử Vi vào giai đoạn sôi bỏng của phong trào “trăm hoa đua nở” kéo dài hai thập niên ở Đài Loan cũng như Hồng Kông. Có lẽ vì coi Tử Vi là một cuộc cách mạng so với khoa bát tự như ông giải thích sau này trong quyển “Đẩu số nghi nan 100 vấn đáp – hiện đại thiên”, Liễu Vô cư sĩ hăng hái tham gia phong trào này, và trở thành một tên tuổi lớn. Tính đến năm 1993 ông đã cho ra đời 11 tựa sách tử vi, tổng cộng 22 quyển. (Các sách ông ra sau này thì soạn giả không nắm vững, mong được các vị khác bổ túc.)

Dựa trên thành tích mà đoán thì khúc quanh lớn nhất trong sự nghiệp mệnh lý của ông phải kể là năm 1992. Năm ấy, ngoài việc tái bản hai quyển sách bát tự kể trên, ông còn xuất bản quyển “Tử Bình chân thuyên hiện đại bình chú” và hai quyển tiên đoán tình hình chính trị, tuyển cử ở Đài Loan bằng mệnh lý. Nhưng thành công rực rỡ nhất của ông năm này là quyển ‘Tử Vi luận mệnh bất cầu nhân’ (Luận mệnh bằng tử vi không cần nhờ người khác). Giữa lúc sách Tử Vi mới được in như rừng, sách này của ông bán chạy ngoài sức tưởng tượng, chỉ sau 20 ngày đã tái bản.

Nhờ tính hiện tượng của sách “Tử Vi luận mệnh bất cầu nhân” mà cách xem Tử Vi khá ngược đời của ông Liễu Vô cư sĩ trở thành kiến thức phổ thông ở Đài Loan cũng như Hồng Kông, lần hồi được vài người khác trong giới trí thức tin theo và viết sách xiển dương, đưa ông lên vị trí của một nhà lập thuyết có chỗ đứng vững chắc trong lịch sử hiện đại của khoa Tử Vi.

Về căn bản Tử Vi, ông xuất phát từ phái Tử Vân. Chủ trương chính của phái này là phải khảo sát mọi ngành huyền học bằng nhãn quan khoa học. Mặc dù sau này chọn một con đường khác, ông Liễu Vô cư sĩ vẫn tiếp tục xiển dương chủ trương trọng khoa học của phái Tử Vân. Thỉnh thoảng ông vẫn nhắc lại những quan điểm của ông Tử Vân (mà ông gọi là “Tử Vân tiên sinh” tức “thầy Tử Vân”) một cách trân trọng, mặc dù trong đó có một số quan điểm mà ông không còn đồng ý nữa.

Với cái nhìn khoa học và thực tế, ông Liễu Vô cư sĩ chủ trương thực nghiệm là tiêu chuẩn tối hậu. Hiển nhiên quan điểm của ông khác hẳn người xưa. Có lẽ vì thế mà lắm khi ông phê bình người xưa, kể cả đạo sĩ Trần Đoàn tức nhân vật được tin là tổ sư của khoa Tử Vi, rất gay gắt. Đặc điểm này có thể thấy rõ trong “Đẩu số tuyên vi hiện đại bình chú” (2 quyển) và “Đẩu số nghi nan 100 vấn đáp” (2 quyển, có tên “cổ điển thiên” và “hiện đại thiên”).

Cuối cùng, như đã nói ở một bài trước, một điểm độc đáo nữa của ông Liễu Vô cư sĩ là ông rất trọng nhân tài mới, ngay cả khi nhân tài ấy có chủ trương ngược lại ông. Nên không có gì đáng ngạc nhiên rằng, mặc dù luận đề lớn của ông là Tử Vi không dính líu gì đến ngũ hành, một người được ông quý trọng và nâng đỡ lại là ông Sở Hoàng, tác giả quyển “Tử Vi hỉ kị thần đại đột phá” với luận đề cho rằng ngũ hành là nền tảng quan trọng nhất của khoa Tử Vi.

Năm 1984, tức là một năm trước khi sách”Tử Vi Hỉ Kị thần đại đột phá” (coi ngũ hành là yếu tố quyết định trong Tử Vi) của ông Sở Hoàng ra đời, ông LIễu Vô đã ra sách Tử Vi rồi và tạo ngay được tiếng vang. Tiếng vang này dẫn đến bộ Hiện Đại Tử Vi gồm 7 tập bắt đầu phát hành trong khoảng thời gian 1985-1986. Tập sách này đã giúp LIễu Vô cư sĩ tiến lên vị trí hàng đầu trong làng Tử Vi, đồng thời tạo ra huyền thoại Tử Vân. Cần nói rõ là lúc ấy ông Tử Vân chưa ra sách nhưng được ông Liễu Vô nhắc tới với những huyền thoại người thật việc thật “xem số như thần”, trong đó có chuyện ông Tử Vân xem số cho một số những chuyên gia khoa học toàn cỡ tiến sĩ, thạc sĩ du học Mỹ Anh về, không tin Tử Vi. Theo lời kể của ông LIễu Vô cư sĩ thì ông Tử Vân dùng Tử Vi để xem phong thủy đoán mọi sự đúng vanh vách khiến các chuyên gia này phải buộc lòng khẩu phục (tâm phục hay không thì không biết).

Vài năm sau, vẫn trong thập niên 1980, ông Tử Vân bắt đầu ra sách. Mức độ thành công của ông thì không cần nhắc lại, nhưng có thể thấy rằng làng Tử Vi Đài Loan chỉ trong vòng vài năm đã có biến chuyển to lớn. Lực lượng song đôi của hai ông Liễu Vô cư sĩ – Tử Vân và những người liên hệ đến họ như tiến sĩ Hứa Hưng Trí, ông Tuệ Canh v.v… mạnh như cuồng phong bão tố, khiến tất cả những nhân vật một thời phong quang như Chính Huyền Sơn Nhân, Phan Tử Ngư, Thẩm Bình Sơn, Sở Hoàng, Phương Vô Kị vân vân mau chóng trở thành quá khứ.

Và rồi khi ông Liễu Vô cư sĩ tuyên bố phải loại bỏ ngũ hành ra khỏi Tử Vi thì ông và thầy cũ của ông (Tử Vân) biến thành hai lực lượng chính yếu của Tử Vi Đài Loan. Tình hình cứ kéo dài như thế cho đến hết thời trăm hoa đua nở.

Tại sao hai ông LIễu Vô cư sĩ và Tử Vân lại thành công như vậy? Mỗi người sẽ có ý kiến riêng của họ. Riêng tôi cho rằng họ có ưu điểm to lớn là có thực chứng. Ông Tử Vân dù không nhìn nhận có lẽ đã xem trên 5000 lá số người thật việc thật. Nếu những gì Liễu Vô cư sĩ thuật lại trong Hiện Đại Tử Vi và những gì ông Tử Vân tự thuật trong các sách của ông không phải là bịa đặt thì ông Tử Vân bị các nhân tài trẻ cũng như già, tin cũng như không tin Tử Vi, thách thức rất nhiều lần, và mọi lần ông đều chứng tỏđược khả năng đoán mệnhđúng ngoài mức tưởng tượng của những người thách đố ông, đồng thời vẫn giữ sự khiêm cung với họ.

Ông Liễu Vô cư sĩ thì có hẳn một văn phòng xem số, sách Tử Vi của ông không đoán mài mại hoặc đoán những chuyện không ai kiểm chứng được, mà ông dám đoán trước tương lai của các nhân vật chính trị đương thời. Và trên mặt học thuật thì ông rất thẳng thừng, không ngần ngại đối đầu với những người muốn thách đố ông.

Theo những gì có thể kiểm chứng được trên Hiện Đại Tử Vi và những lời đồn đãi về sau (không kiểm chứng được) thì những thành quả của ông đã khiến đại cao thủ Thiết Bảng Đạo Nhân (được coi là cùng cỡ với cụ Hà Mậu Tùng, thầy của ông Tử Vân) phải chú ý và thiết lập liên hệ. (Cứ theo thư mục xem thấy trên mạngthì về sau ông Liễu Vô cư sĩ có ra sách phối hợp Tử Vi và thiết bảng thần số, phải chăng là đã được chân truyền của Thiết Bảng đạo nhân?)

Đã biết thành tích của ông Liễu Vô cư sĩ như vậy, ta có dám nói rằng ông đòi loại bỏ ngũ hành ra khỏi Tử Vi là vì ông không hiểu ngũ hành, hoặc không hiểu Tử Vi hay không?

Tôi xưa nay (giờ vẫn thế) vốn bất đồng với chủ trương loại ngũ hành ra khỏi khoa Tử Vi của ông Liễu Vô cư sĩ, nhưng tôi vẫn sợ cái học của ông như thường. Chẳng bao giờ dám chê bai. Ấy bởi vì sau mấy mươi năm nghiên cứu từ kỹ thuật, khoa học đến huyền học, tôi cuối cùng đã hiểu rằng đời này không chỉ có trắng và đen, đúng và sai, mà còn có những trường hợp trong đúng có sai, trong sai có đúng, tưởng đúng mà sai, tưởng sai mà đúng v.v… Cho nên bất cứ cái gì mà những người có trình độ bỏ nhiều công khó mới tìm ra, dù tôi cho là sai đi nữa tôi cũng không vội vàng bác bỏ ngay. Biết đâu, ngày mai tôi lại thấy cái sai ấy đúng.

Tôi hy vọng những người thuộc các thế hệ sau tôi cũng làm như thế.

Như trở lại chuyện hiện tại, thấy có người bảo phải tận dụng ngũ hành thì xem Tử Vi mới đúng, mình kiểm lại thấy có vẻ như vậy thì đừng quên rằng:

1- Từ xưa đến nay luôn luôn có người chủ trương như vậy, nên đây chẳng phải là một chủ trương mới lạchưa ai biết.

Riêng cách so nạp âm năm sinh với các trụ để luận mệnh thì trên kệ tôi có quyển sách “Trung Hoa nạp âm dự trắc học” của một tác giả Hồng Kông. Thì ra so nạp âm năm sinh với các trụ để luận mệnh là một cách luận bát tự thời xưa. Xem các thí dụ thì thấy thuyết phục lắm, nhưng tự nhiên tôi giật mình hỏi lại: Vậy tại sao cách xem này đã bị người ta đào thải để nhường chỗ cho khoa Tử Bình như chúng ta biết trong hiện tại (hoàn toàn không dùng nạp âm nữa)?

Vì anh HoTuVu trưng ra các lá số tổng thống rồi so sánh nạp âm năm sinh với tháng sinh, tôi nghĩ anh nên suy ngẫm về vấn đề này.

2- Người không chủ trương coi trọng ngũ hành trong Tử Vi chẳng phải là những ngưòi không biết gì về ngũ hành hoặc về Tử Vi. Trái lại, trong những người không chủ trương như vậy chẳng thiếu gì các tay cao thủ, như ông Liễu Vô cư sĩ chỉ là một thí dụ gần đây.

Vậy thì ai đúng ai sai, theo ai bỏ ai đây?

Cuối cùng, tôi nghĩ, đáp án vẫn là mỗi người chúng ta vẫn phải quyết định một con đường cho chính mình. Xem ra chỉ có cách đó mà thôi!

Nhận xét về Lưu Tứ Hóa ở Đại Vận của VDTT

Kính Gởi Anh VDTT:

Trong bài viết giải lá số cho “binhan” sinh ngày 13/5/mậu thân vào giờ ngọ AL, dương nữ, anh có viết:

“Hạn sang Mỹ ứng hợp vì cung Can của đại hạn (14-23 ở cung Hợi) là Quý có lưu Quyền ở cung Thiên di của đại hạn(cung Tỵ)”.

Do đó để tìm Can của cung Đại Hạn có phải là làm như sau không:

Người này sinh năm Mậu Thân, như thế khởi từ Cung Dần là Giáp, rồi Ất, Bính….đến cung Hợi là Quý.

Mà Can Quý thì có Hóa Lộc đi với Phá Quân, Hóa Quyền đi với Cự Môn, Hóa khoa đi với Thái Âm, Hóa Kỵ đi với Tham Lang.

Như vậy trong Đại hạn (14-23) này cung Di của Đại hạn an tại Tỵ có Cự Môn thủ đã được hưởng lưu Hóa Quyền.

Thưa Anh VDTT, không biết những điều tôi vừa viết ra có đúng như thế không ạ?

Và nếu đúng như ý của Anh, thì xin cho được đặt vài câu hỏi như sau:

Để tính Đại hạn cho chi tiết thì phải:

1. Tìm Can cho Cung Đại Hạn?

2. Rồi tìm bộ sao Tứ Hóa cho Đại Hạn?

Thưa Anh, Xin Anh có thể giải thích giúp cho tôi về sự quan trọng của Bộ Tứ Hóa này được không ạ, trong cuộc đời, cũng như trong các vận hạn (Đại cũng như Tiểu Hạn.)

Nhắc đến cuộc đời thì mình có nên tìm Bộ Tứ Hóa cho các Cung Mệnh và Cung Thân không ạ theo như nguyên tắc ở trên?

Và cũng xin Anh cho biết về Lưu Triệt trong các đại vận có ảnh hưởng như thế nào trong cách giải lá số?

Xin Chân Thành Cảm Ơn Anh.

Kính anh/chị thienhi,

Lưu tứ hóa là một cách xem ít người biết, nhưng chẳng phải là không ai xử dụng trong làng tử vi VN. Bằng cớ là năm 1990 tôi đã gặp một ông thầy VN xem theo cách này.

Ở ĐL, HK thì lưu tứ Hóa là cách xem tiêu chuẩn.

Mười hai cung trên lá số đại biểu một năm, đồng thời ứng với cả đời nguời. Mỗi cung trên lá số đại biểu một tháng, đồng thời ứng với một đại hạn. Do đó muốn tính lưu đại hạn tứ hóa thì tính ra can mỗi cung (coi như một tháng), hạn đến đâu lấy can cung đó mà tính lưu tứ hóa.

Sao lưu bay đầy trời. Tôi nghĩ phải nghiên cứu có hệ thống mới xác định đuợc sao nào quan trọng, sao nào không. Tôi hiện chỉ dám xác quyết lưu tứ Hóa hiển nhiên quan trọng; ấy bởi vì tứ Hóa là cái nền của Tử Vi. (Nếu không có chính tinh và Tứ Hóa thì Tử Vi chẳng có giá trị gì cả so với khoa tứ trụ.)

Lưu Triệt Tuần tôi chưa thấy ứng nghiệm, chẳng dám có ý kiến. Có người còn an lưu Xương, lưu Khúc v.v… nữa.

Về cách xem lưu tứ hóa, có hai trừơng phái chính:

1. Mệnh vận phân ly: Bỏ sao tứ Hóa nguyên thủy không tính. Đến mỗi hạn xem sao lưu Hóa ở đâu rồi tính. Đại khái Lộc tốt, Kỵ xấu; Quyền Khoa tùy trứong hợp. Có một chi phái giản lược bỏ luôn Quyền Khoa khi xem hạn.

2. Mệnh vận tương phùng: Xem cả tứ Hóa nguyên thủy và lưu tứ Hóa (uy lực bằng nhau trong hạn).

Phái thứ nhất khá mạnh ở Đài Loan khi tôi rời nơi này (tháng 12, 2001).

Tôi theo phái thứ hai.

Vài dòng chia sẻ.

Kính Anh VDTT,

Xin cám ơn Anh đã mau chóng giải đáp cho tôi. Trong tinh thần nghiên cứu học hỏi, tôi xin được hỏi anh một vấn đề nữa cũng liên quan đến bộ sao Tứ Hóa.

Như thế trong 1 lá số tử vi, ngoài bộ sao Tứ Hóa Nguyên Thuỷ, ta con phải ghi thêm:

1. Bộ TỰ HÓA

2. Bộ Lưu Tứ Hóa theo Đại vận

3. Bộ Lưu Tứ Hóa theo Tiểu vận

Ngoài ra không kể bộ Lưu Tứ Hóa cho Cung An Mệnh, và Bộ lưu Tú Hóa Cho Cung An Thân mà tôi đã hỏi Anh, nhưng không thấy Anh cho ý kiến.

Anh nghĩ sao về Lưu Lộc Tồn cho cung an Đại vận? 1 sao cho biết là ta sẽ được hưởng, hay không được hưởng khi vào đại vận.

Xin cám ơn anh.

Anh/chi thienhi than,

Ở ĐL có người xem không những hóa Mệnh, hóa Thân, còn 12 cung hóa (phụ mẫu hóa, nô bộc hóa v.v…).

Nói chung đây là phái “Huyền không tứ hóa” của ông Chính Huyền Sơn Nhân (tác giả bộ “Thiên Địa Nhân Tử Vi đẩu số” gồm 12 quyển phát hành đầu thập niên 1980’s).

Có những tác giả ra những tập sách dày cộm (có người vài ba tập), chỉ bàn về tứ Hóa.

Theo tôi, tất cả đều là mò mẫm. Ta không nên vội áp dụng.

Hiện nay tôi chỉ đang cố chứng nghiệm:

– Tự hóa + hóa nguyên thủy trong việc xem số tòan thể cuộc đời.

– Đại hạn hóa + hóa nguyên thủy khi xem đại hạn.

– Tiểu hạn hóa + hóa nguyên thủy khi xem lưu niên/tiểu hạn.

Đã thấy điên đầu lắm rồi. Vẫn chưa dám nói là đã xác định được nền tảng khoa học của các cách này. Chỉ tạm thời xử dụng rồi tính sau.

Vài dòng chia sẻ.

T.B. Lưu Lộc Tồn, Khôi Việt, Kình Đà v.v… cho đại vận cũng là một cách quen thuộc ở Á Châu. Theo lý luận của tôi, cái nền của tử vi là chính tinh và tứ hóa, tất cả các sao còn lại chỉ thêm vào cho bài tóan tử vi dễ tính mà thôi. Bởi vậy chưa biết phút cuối cùng kết quả sẽ ra sao, nhưng tôi chỉ muốn bắt đầu bằng cái đơn giản nhất, tức là tứ hóa.

VDTT: Nghiệm lý lá số Liêm Sát cư Sửu của ông Donald Trump

Hơn một năm trở lại đây mặc dù không có thời giờ tham gia diễn đàn, tôi vẫn theo dõi những cuộc bàn tán tranh luận liên hệ đến cuộc bầu cử tổng thống vô tiền khoáng hậu năm 2016. Ấy bởi vì ứng cử viên ồn ào nhất tức Donald Trump có đầy đủ dữ liệu năm tháng ngày giờ nơi sinh hết sức khả tín (AA) nên cuộc tranh cử này của ông cho người nghiên cứu Tử Vi một cơ hội hiếm có để nghiệm lý các cách xem cũ cũng như mới.

Hôm nay là ngày lễ Tạ Ơn, thứ Năm 24 tháng 11 ở Hoa Kỳ, hơn hai tuần sau khi ông Trump được dân chúng bầu lên làm tổng thống, đủ lâu để những cảm tình bức xúc đã có cơ hội lắng đi, thêm có chút thời giờ rảnh rỗi, tôi tẩn mẩn ngồi đọc lại các bài viết về ông Trump và bà Clinton trên diễn đàn này (và một vài diễn đàn khác). Xin có ngay vài nhận xét về các lá số của ông Trump:

1) Lá số Âm Dương cư Sửu (sinh giờ Tị ngày 15 tháng 5 âm lịch) có vẻ được nhiều người chấp nhận.

2) Lá số Liêm Sát cư Sửu (sinh giờ Tị ngày 16 tháng 5 âm lịch) được một thiểu số đáng kể chấp nhận.

3) Giờ Ngọ chẳng được mấy người chấp nhận, giờ Mùi thấy có người xử dụng ở mạng khác.

Thiết nghĩ theo khai sinh phải bỏ giờ Mùi vì xa quá. Giờ Ngọ xác xuất đúng cũng thấp, vì phải giả sử là nhà thương ghi sai giờ trên khai sinh. Thành thử chỉ còn lại hai lá số giờ Tị, tức mệnh Âm Dương (ngày 15) và mệnh Liêm Sát (ngày 16). Chú ý rằng ngày 15 là theo âm lịch Việt Nam, còn ngày 16 là theo âm lịch địa phương, tức âm lịch dựa vào nơi ông Trump sinh ra. Tôi từ năm 2003 đã chủ trương phải tính ngày, giờ theo âm lịch địa phương khi lập lá số Tử Vi, nên dĩ nhiên chọn lá Liêm Sát.

Trong tinh thần học hỏi nếu vị nào cho rằng phải chọn ngày 15 (dẫn đến lá số Âm Dương) mới hợp lịch pháp thì tôi rất muốn biết vị ấy lập luận như thế nào, rồi sẽ tùy trường hợp mà chấp nhận hoặc phản biện.

Nhưng bất luận diễn biến ra sao, lá số Liêm Sát vẫn là một chủ điểm của đề mục này. Rõ ràng hơn tôi xin đặt các vấn đề có tính nghiệm lý sau đây với các vị có hứng thú với lá số ấy (kể cả những vị không cho rằng lá số ấy đúng theo lý của lịch pháp):

1) Lá số Liêm Sát có phù hợp với con người và đời sống của Donald Trump không? Chi tiết hơn, các tín hiệu nào trên lá số ứng với các dữ kiện rõ nét (vợ đều đẹp, nhưng đã qua ba đời, làm ăn to, từng khai sạt nghiệp nhiều lần, v.v…)

2) Lá số Liêm Sát có ứng việc Donald Trump ra tranh cử không? Có ứng việc thắng cử không?

Từ căn bản nghiệm lý, hai vấn đề trên đây hết sức trọng yếu, bởi lá số Liêm Sát được lấy theo âm lịch địa phương. Nghiệm lý là dùng dữ kiện để kiểm chứng theo cách xem của mình, nên nghiệm lý không có chuyện đúng sai, mà chỉ có ứng hoặc không ứng mà thôi. Nếu lá số Liêm Sát không ứng sự thật thì những người có chủ trương dùng âm lịch địa phương (như tôi) cần xét lại quan điểm của mình, và làng Tử Vi Việt có thêm dữ kiện để biết phải lấy các lá số người nước ngoài như thế nào trong tương lai. Thành thử bỏ công lao làm chuyện này chẳng phải là uổng vậy.

Tôi hy vọng được đọc nhiều bài viết hoặc ngắn gọn súc tích, hoặc nhiều lời dài ý tập trung vào hai điểm trên đây. Dĩ nhiên tôi cũng sẽ đóng góp phần mình.

Để bắt đầu mong một bạn nào đó pốt dùm lá số ông Trump lấy theo năm Bính Tuất (1946) ngày 16 tháng 5 âm lịch giờ Tị (Liêm Sát cư Sửu). Khi lá số hiện lên rồi, vị nào có nhã ứng xin cứ viết ra ý kiến của mình, không cần chờ tôi viết trước. Tôi chỉ xin làm một trong những người góp ý mà thôi.

Donald Trump,Nam, 14/06/1946 DL, sinh tại NY, múi giờ UTC-5.

Posted Image

….

v/v Nghiệm lý bằng lá số Liêm Sát (muốn gọi là “gọt” xin cứ tùy ý):

Về giới hạn cũng như ưu điểm của khoa Tử Vi, ông Tử Vân (Đài Loan) đã có một nhận xét hết sức sâu sắc, cá nhân tôi coi là khuôn vàng thước ngọc, tạm dịch “Có tín hiệu trên lá số không có nghĩa có sự thật ngoài đời, nhưng nếu có sự thật ngoài đời thì phải có tín hiệu trên lá số”. Áp dụng vào trường hợp ông Trump, giả như chỉ xem lá số Tử Vi mà đoán ông Trump thành tổng thống thì chỉ là ăn theo xác xuất. Nhưng lá số đúng của ông Trump CHẮC CHẮN (tức là xác xuất trăm phần trăm) phải có tín hiệu phù hợp với việc ông ra tranh cử năm 2015 và đắc cử tổng thống Mỹ năm 2016.

Với những người đã đoán ông Trump sẽ thắng cử bằng lá số Liêm Sát: Xin viết lại lập luận cho có chi tiết hơn, để người khác có cơ hội học hỏi cái hay của quý vị.

Với những người đã cho rằng ông Trump phải thất cử nếu lá số là Liêm Sát: Xin cho biết quý vị đã đổi ý kiến hay chưa, hay vẫn cho rằng lá số này sai. Cả hai trường hợp, xin đề ra lập luận chi tiết.

Với những người muốn nghiệm lý lá số Liêm Sát (bất luận đã từng đoán hay chưa, bất luận có cho rằng lá số có đúng hay không): Xin trả lời hai câu hỏi đã đề ra trong message 1.

….

So đời ông Donald Trump với lá số Liêm Sát

Mệnh thân đối kháng: Mệnh cư Sửu, thân cư Hợi là mệnh thân ở thế kình chống nhau, nhất là sinh giờ Tị khiến Hình cư mệnh, Riêu cư quan; thành thử trong đời phải có tối thiểu một thay đổi hết sức to lớn. Sự thật là đời ông Trump có quá nhiều thay đổi to lớn, nên tính chất này hiển nhiên đã ứng.

Liều lĩnh, quyền biến, thô lỗ, sáng tạo: Mệnh Liêm Sát trong tam hợp hành kim Tị Dậu Sửu (lại cùng cung với sao chủ hành là Phá Toái) nên Sát thuộc kim được tiếp trợ đóng vai chủ, Liêm thuộc hỏa đóng vai phụ.

Sát can đảm liều lĩnh nhưng giỏi toan tính. Sự thật trong lãnh vực làm ăn ông Trump nổi tiếng quyền biến và sẵn sàng làm những chuyện táo bạo người khác không dám động đến. Sự thật nữa là ông thành bại đa đoan, thất bại nhiều nhưng lại có những thành công ngoài sức tưởng tượng của người ta. Đều ứng cả.

Liêm Trinh Hình Kị đắc Xương Khúc ứng với sự kiện là ngôn ngữ có khi đốp chát sống sượng khiến người ta tưởng là bất cẩn, có khi lễ độ khiến người ta tưởng là uốn lưỡi bảy lần. Đặc biệt có tài nhục mạ địch thủ, hẳn là do tính đào hoa của Liêm Trinh phối hợp với hóa Kị mà thành (thí dụ: Đặt ra các biệt hiệu “chết tên” đọc nghe nổ và có vẻ hợp nhưng hết sức tàn độc là “Lyin’ Ted” làm hại thượng nghị sĩ Ted Cruz, “Little Rubio” làm hại thượng nghị sĩ Marco Rubio, “Low Energy” làm hại cựu thống đốc Jeb Bush, “Crooked Hillary” làm hại cựu đệ nhất phu nhân kiêm cụu thượng nghị sĩ kiêm cựu tổng trưởng ngoại giao, tức bà Hillary Clinton).

Hôn nhân có vấn đề: Thế nhưng Liêm Trinh là thứ đào hoa nên khi cư mệnh lại hóa Kị thì hôn nhân phải có vấn đề nghiêm trọng, quả ứng trong trường hợp ông Trump. (Chú: trường hợp thứ đào hoa khác là lá số tôi đã lấy cho ông Clinton, cũng là Liêm Trinh hóa Kị, nhưng là Liêm Phủ ở Thìn. Đệ nhất đào hoa Tham Lang hóa Kị cư mệnh thì có ông Mao Trạch Đông ở Thân. Ít người nhớ hơn là thượng nghị sĩ John Edwards mệnh Tham Lang hóa Kị ở Dần. Sự thật là cả ba ông này đều có vấn đề đào hoa nghiêm trọng).

“Lộ thượng mai thi”: Và dĩ nhiên phải nói đến cách rất xấu của Liêm Sát với Liêm hóa Kị là “lộ thượng mai thi” (chết đường). Hình như vì cho rằng lá số Liêm Sát có cách này mà một số người bảo nó không thể ứng với ông Trump được, lại có người cho rằng nếu lá số này (Liêm Sát) ứng thì ông sẽ bị ám sát chết, thậm chí có thể bị ám sát trước khi chính thức thành tổng thống.

Từ lâu tôi đã tránh luận chuyện tương lai, chuyện sống chết lại càng tối kị. Tuy nhiên, tôi xin chú ở đây rằng mặc dù Liêm hóa Kị nhưng toàn thể lục sát tinh (Kình Đà Hỏa Tinh Không Kiếp) đều vắng bóng; xin các độc giả tự kết luận.

Mệnh thân phú cách, kỳ ngộ chính không: Hóa Kị ở mệnh được Khoa ở quan điều chỉnh, nhất là lại đắc cách Thanh Long Lưu Hà đồng cung (rất mạnh) ở di, nên có khả năng biến khó khăn, trở ngại thành cơ hội. Lộc Tồn “hậu trọng đa y thực” cư Tị chiếu về mệnh, thân nên dễ gặp may mắn hơn người, nhất là may mắn về tài chính. Thân lại ở Hợi có Tướng độc thủ thật tốt cho giới thương mại (theo ông Tử Vân thì cung mệnh của ông Thái Vạn Xuân, đại gia Đài Loan làm nên sự nghiệp thời Nhật thuộc, có cách này). Tất cả đều ứng hợp với sự kiện ông Trump là một đại gia.

Sự nghiệp của ông Trump chủ yếu là khai thác và tạo dựng bất động sản. Vì cha ông đã là đại gia bất động sản, ta có thể nói đây là chuyện cha truyền con nối, không dính líu gì đến Tử Vi. Sự thật là chẳng phải cứ cha truyền thì con sẽ nối. Theo dữ kiện chính xác được ghi lại thì thuở ấu thơ ông Trump ngỗ nghịch đến nỗi cha ông phải quyết định bắt ông vào thiếu sinh quân để bị khép vào kỷ luật. Khi ấy người được cha ông kỳ vọng sẽ nối nghiệp không phải là ông, mà là anh lớn của ông. Nhưng người anh này chịu không nổi áp lực nghề nghiệp, sinh ra nghiện ngập rồi sau này chết sớm; trong khi ông Trump sau khi tốt nghiệp đại học lại “cải tà quy chính”, say sưa theo cha học nghề. Cho nên sự kiện ông theo đuổi sự nghiệp bất động sản chẳng thể quy hết vào lý “cha truyền con nối”.

Nhìn lá số ta thấy cung điền ở Thìn gặp chính Triệt thêm Đà La Địa Kiếp (chú: Kiếp nghĩa đen là “cướp”) thêm Linh ở Thân hội về (chú: Tôi nay an Hỏa Linh theo chiều thuận cả) thật là xấu quá. Kỳ diệu làm sao Thìn có Đồng cực hãm độc thủ hóa Lộc, thành cách “chính tinh hãm đáo Quyền Lộc quang vinh” lật ngược thế cờ, khiến Đà La biến thành mưu sâu, Địa Kiếp thành “cướp cơ hội”. Ông Trump phát bằng bất động sản thật là phải vậy. Mệnh đã có Liêm Trinh là thứ đào hoa, thân có Thiên Tướng là sao của hình thức bề ngoài, lại có đủ nhóm sao đào hoa là Đào Hồng Hỉ Riêu hội họp, thành thử ông Trump hay “dính” vào những kế hoạch thương mai có tính đào hoa, như sòng bài, vũ trường, hoa hậu v.v… cũng ứng. Tuy thế, cần phải thêm rằng ông cũng dính líu nhiều đến thể thao (football Mỹ, đấu vật v.v…), ứng với sao Thất Sát trong mệnh.

Có một điểm rất ly kì về cung thân của ông Trump: Hợi là vị trí chính không của tuổi Tuất (có Hồng Hỉ Không Cô Quả Kiếp Sát hội họp). Vì đây là cung thê, nên rõ ràng đã ứng với sự thật là đời ông hôn nhân bất ổn (vợ hiện tại, tức đệ nhất phu nhân tương lai của Hoa Kỳ, là đời thứ ba). Nhưng tôi cho rằng nó còn có một ý nghĩa quan trọng hơn nữa, và là một lý do dẫn đến việc ông Trump quyết định ra tranh cử vào năm 2015.

Mệnh thân phú cách, kỳ ngộ chính không (tiếp theo): Thiên Không khi ở tứ mã Dần Thân Tị Hợi (chỉ xảy ra cho tuổi tứ mộ Thìn Tuất Sửu Mùi) thì các sao nhân tế quan hệ mâu thuẫn một cách cực đoan là Đào Hồng Hỉ Cô Quả Kiếp Sát hội họp cọ xát nhau. Đây ví như trường hợp một người đang kịch liệt đấu tranh trong trường danh lợi chợt hiểu ra mọi sắc hương chỉ là giả tướng, dễ nẩy ra ý bỏ cái có lấy cái không, phát nguyện hy sinh cho người khác. Chính tinh Thiên Tướng độc thủ ở Hợi lại càng dễ khiến khuynh hướng tâm lý này biến thành sự thật, vì Tướng vốn có duyên với sự tu hành.

Phái tiên thiên tứ hóa của Khuyến Học trai chủ (Đài Loan) gọi cung quan lộc của mỗi cung (tức cung thứ 5 theo chiều thuận từ cung chính tính đi) là cung “khí số”, ý nói đây là cung có tính quyết định. Cung khí số của đại hạn hiện tại, tức Ất Mùi (2010-2019), lại chính là Hợi, ứng hết sức với chuyện ly kì là năm 2015 ông Trump bỗng xưng là “không ai chịu làm chuyện phải làm thì tôi làm”, xung phong ra tranh cử. Chỉ trong giai đoạn sơ bộ (tức trong nội bộ đảng Cộng Hòa) ông đã tốn mất 50 triệu tiền túi. Khi tranh cử với bà Clinton mặc dù có nguồn viện trợ chắc chắn ông cũng đã tốn thêm nhiều triệu mỹ kim nữa, rồi khi thắng cử ông lại tuyên bố là làm tổng thống không nhận lương (chỉ nhận tượng trưng 1 đô la cho khỏi phạm luật).

Người không thích ông Trump dĩ nhiên sẽ nói vào nói ra, nhưng không ai có thể phủ nhận rằng đối với ông cuộc tranh cử này đã là một ván bài tố hết sức nặng, về tiền bạc cũng như danh tiếng. Bây giờ ông đã thắng rồi thì mọi chuyện trở thành dễ dàng, nhưng thử trở lại vài tháng trước, chẳng phải là ông có dấu hiệu sẽ mất hết tất cả hay sao? Bỏ công việc làm ăn, xuất tiền túi ra tranh cử là bỏ có lấy không, giả như thất cử thì mọi sự sẽ thành một con số không to tướng. Vậy thì tại sao ông Trump tranh cử. Tôi xin thưa rằng đáp án đã nằm ngay trên lá số của ông, vì cung khí số của đại hạn ở Hợi có Thiên Tướng độc thủ lại là vị chính không.

Rất may cho ông Trump là ông đã biến không thành có bằng cách thắng cử oanh liệt. Nếu lá số Liêm Sát đúng thì nó phải chứa tín hiệu ứng với chiến thắng oanh liệt này.

Trong kỳ 2 của loạt bài này tôi đã giải thích vì cung thân của ông Trump ở Hợi lâm vào vị “chính không” lại có Thiên Tướng độc thủ nên ông Trump mới có quyết định “hy sinh cho đồng bào” ra tranh cử tổng thống. Người nghi hoặc sẽ hỏi: “Nhưng nếu thế tại sao ra tranh cử năm 2016 mà không trước đó, như 2012, 2008 chẳng hạn?”

Nhìn lại năm 1987, tức là cuối nhiệm kỳ thứ hai của tổng thống Reagan, ông Trump đã xuất tiền túi gần trăm ngàn Mỹ kim ra đăng quảng cáo nguyên trang “bức thư ngỏ của Donald Trump gửi đồng bào Mỹ về lý do tại sao nước Mỹ nên ngưng tài trợ quốc phòng cho các nước có thể tự tài trợ được cho mình” trên ba tờ báo lớn New York Times, Boston Globe, và Washington Post. Hành động khá tốn kém ấy cho thấy khuynh hướng muốn tạo ảnh hưởng chính trị của ông đã bắt đầu từ lâu lắm rồi. Cũng năm 1987, trong một cuộc phỏng vấn (vẫn còn trên Youtube) bà Oprah hỏi ông có ý định ra tranh cử tổng thống hay không thì ông trả lời là ông thích những chuyện ông đang làm và không muốn ra tranh cử tổng thống, nếu có người khác làm tổng thống thì hay hơn. Nhưng rồi ông thêm rằng ông rất thất vọng vì nhìn quanh chẳng thấy ai có thể “hoàn thành trách vụ tổng thống”. Nhiều người tưởng là ông sẽ ra tranh cử năm 1988, nhưng chuyện này không xảy ra. Năm 2000 ông ra tranh cử ứng viên tổng thống trong một đảng nhỏ là đảng Cải Cách (Reform party) rồi giữa chừng rút lui mặc dù đã thắng hết cả hai cuộc bầu cử sơ bộ. Hỏi tại sao thì ông trả lời là đảng Cải Cách quá lộn xộn, dù ông được đề cử cũng không thể nào thắng cử tổng thống. Năm 2012 ông lại có vẻ muốn tranh cử, nhưng rồi thôi và ủng hộ ứng viên Romney (thua Obama và sau bị ông Trump gọi là “born loser” -kẻ sinh ra để thua cuộc- khi hai bên xích mích năm 2016).

Thành thử câu hỏi đúng hơn là tại sao ông Trump cứ chần chừ mãi đến năm 2015 mới ra tranh cử. Vì vấn đề rõ là phức tạp nên phải bắt đầu với cách cục nguyên thủy rồi sau đó xem các hạn phát triển ra sao.

Cách cục

Cách xấu của mệnh ông Trump hiển nhiên là hóa Kị cư mệnh, cách cứu hiển nhiên là cặp sao Thanh Long Lưu Hà xung chiếu từ cung di. Ấy bởi vì Thanh Long ví như kẻ hùng tài đại lược nhưng phải gặp thời thế hỗn mang mới có cơ hội trổ tài làm nên chuyện, do đó rất thích hội họp hóa Kị. Thanh Long gặp hóa Kị cũng như ông cảnh sát giỏi gặp thằng ăn cướp, chẳng những không sợ mà chính là cơ hội lập công. Thanh Long hội Lưu Hà ví như rồng gặp mây, cùng cung càng mạnh hơn nữa. Thành thử hóa Kị trong mệnh của ông Trump xem thì có vẻ đe dọa đấy, nhưng chính là miếng mồi ngon của cách Thanh Long Lưu Hà đồng cung ở di. Đó là chưa kể trong tam phương tứ chính của cặp Thanh Long Lưu Hà chỉ có Liêm Trinh là sao duy nhất có thể hóa Kị nên cách cục rất “tinh ròng”, nói cách khác ông Trump đắc thượng cách của Long Hà Kị. Nếu vận dụng được cách này thì có thể thành công ngoài sức dự liệu của người ta. Rõ ràng hơn là khi ai cũng tưởng mình thất bại, thậm chí chính mình cũng tưởng mình sẽ thất bại, mình lại oanh liệt thành công.

Tiếc rằng di là hoàn cảnh ta gặp phải mà không phải là ta, do đó phải gặp đúng điều kiện mới mong nhờ di mà làm nên đại sự. Trong trường hợp ông Trump, vì mệnh thân xung khắc nên di cùng nhóm với thân, thành thử muốn vận động di cứu mệnh thì phải qua thân. Nói cách khác, cách Long Hà Kị của ông Trump mặc dù là cách cục nguyên thủy, nhưng chỉ có tác động sau khi cung thân trở thành quan trọng mà thôi.

Hành hạn

Hạn đầu (1950-59) vì đặc tính Liêm Kị Sát Hình của mệnh nên ngỗ nghịch lại thích đánh nhau, may mà cha nghĩ ra cách giải quyết là bắt vào học nội trú thiếu sinh quân, bị khép vào kỷ luật và không có cơ hội gây chuyện đáng tiếc.

Đến hạn thứ hai (1960-69) thì Thái Dương ở Ngọ là hạn quan đã được cát hóa liên tiếp hai hạn nên học hành thành tựu (ra trường Ivy League với bằng cử nhân kinh tế, chuyên bất động sản) và chịu khó theo học nghề địa ốc của cha.

Hạn thứ ba (1970-79) vào thế tam hợp với cung thân, Thái Dương ở hạn điền được thêm một lần cát hóa, thì đã hoàn toàn thoát xác, thành một đại gia bất động sản trẻ tuổi giỏi giang, làm ăn to, lấy vợ đẹp (Ivana năm 1977), và sinh con trai đầu lòng (Eric, 1977).

Hạn thứ tư (1980-89) nhập cung điền nguyên thủy, nhờ kỳ cách nguyên thủy (đã luận trong kỳ 1) mà có nhiều cơ hội đầu tư bất động sản, lại có thêm hai đứa con xinh đẹp (gái Ivanka 1981, trai Eric 1984). Nhưng cũng vì mọi chuyện đều thuận lợi mà đắc ý vong hình, vung tay quá trán, để rồi phải trả hậu quả vào hạn kế tiếp.

Chú: Hạn này có chính Triệt (sinh năm dương, gặp Triệt ở cung dương) mà không sụp đổ, nên đến hạn chính Triệt không nên vội cho là phải xảy ra chuyện hư hỏng, chỉ có nghĩa là phải có hiện tượng bất thường. Như trong trường hợp này hiện tượng bất thường là phát triển quá khả năng chịu đựng của mình. Còn may là mặc dù lăm le nhưng không ra tranh cử tổng thống, bằng như tranh cử thì e là tan nát hết cả rồi.

Hạn thứ năm (1990-99) là giai đoạn hoàn toàn khủng hoảng. Làm ăn thì khai phá sản 4 lần (một lần năm 1991, ba lần năm 1992), khai thua lỗ đến bạc tỷ Mỹ kim. Hôn nhân thì ngoại tình, phải ly dị vợ (1990), lấy người tình (1993) sinh con gái (Tiffany) rồi ly thân và li dị người tình (1997, 1999) và bắt đầu liên hệ với người tình mới (1998), sau thành vợ thứ ba.

Nhìn lại lá số thấy quá hợp lý vì hạn vào mã địa Tị tượng biến động gặp Vũ Phá. Phá nhờ can Quý hóa Lộc nhưng Tị chính là song tuyệt địa (tuyệt địa của năm sinh và nạp âm, vì đều là dương thổ cả) hóa Lộc chỉ là hư hoa. Phần xấu thì Tham ở hạn quan hóa Kị, và nghiêm trọng hơn nữa là kích khởi Kị nguyên thủy, tức là cả hạn lẫn mệnh –kiêm hạn tài- đều bị song Kị hội họp. Năm 1992 là Nhâm Thân, can Nhâm khiến Vũ hóa Kị, tức là cả mệnh tài quan nguyên thủy cũng như của hạn đều bị ba đời Kị chia nhau phá hoại, chính là năm khai phá sản 3 lần. Về hôn nhân thì hạn gặp Hồng Riêu Xương xung cung chính không, hạn thê nhập phúc nguyên thủy, vô chính diệu bị Tham Khúc xung, thêm Đào Hỉ Mộc Binh Tướng; đào hoa hỗn loạn thế nào tưởng chẳng dẫn diễn tả cũng thấy rõ. Còn may là lúc này ảnh hưởng của cung thân đã mạnh nên mặc dù cách cung vẫn được hưởng hơi hướng của Thanh Long Lưu Hà, nhất là lại được cặp Khôi Việt chiếu về giải cứu nên nương vào ảnh hưởng tốt của Lộc Tồn trong cung mà thoát qua cơn khốn khó dựng lại sự nghiệp.

Hạn thứ sáu (2000-2009) gặp cách Nhật Lệ trung thiên tức là Thái Dương cư Ngọ cực thịnh, tiếc rằng hạn can là Giáp khiến Nhật hóa Kị lại gặp Kình Không thành thử vẫn phải hai lần khai phá sản (năm 2004, 2009). Nhưng Thái Dương cư Ngọ khó mà dở được, nhất là Kình được Hỏa chế (chú: Cách Hỏa Kình cùng cung là hung tinh đắc chế, ví như con dao sắc, có thể đứt tay nhưng được việc) lại có sức phấn đấu của Bạch Hổ (chú: Đến hạn Bạch Hổ người ta tranh đấu rất hăng, chẳng vì khó khăn mà lùi bước) nên phát triển được ưu điểm của Thái Dương (văn nghệ), là thành ngôi sao trình diễn trong trương trình TV nổi tiếng thế giới Apprentice. Đây cũng là hạn ông Trump đính hôn (2004) rồi kết hôn với cô Melania (2005) và sinh con trai (Baron, 2006).

Các độc giả thích thú có thể dùng phép Thái Tuế nhập quái để xem các dữ kiện liên hệ đến ba bà vợ của ông Trump: Ivana (sinh 1949), Marla (1963), Melania (1970).

Hạn thứ bảy (2010-19) tức hạn hiện tại thì chúng ta đã biết là ông Trump ra tranh cử năm 2015 và đắc cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2016. Vì bài đã dài xin luận hạn này vào kỳ tới.

Tại sao ra tranh cử trễ thế?

Các kỳ trước đã đề cập sơ ông Trump ra tranh cử phần lớn là do ảnh hưởng “chính không” của cung thân nguyên thủy. Cung này trong hạn 65-74 (2010-19) là hạn quan, tức cung “khí số” của hạn, nên có ảnh hưởng trong hạn hết sức to lớn.

Nhưng tại sao năm 2015 mới chịu ra tranh cử? Cần đặt câu hỏi này vì 4 năm trước đó, tức năm 2011, có nhiều cuộc thăm dò cho thấy nếu ông Trump ra tranh cử thì ông sẽ là một trong vài ứng viên dẫn đầu của đảng Cộng Hòa, và so sánh với đương kim tổng thống Obama (đảng Dân Chủ) thì ông chỉ thua vài điểm. Triển vọng như thế tại sao ông Trump không ra năm 2011, mà lại ra 4 năm sau tức năm 2015 là khi triển vọng rất thấp, vì đảng Cộng Hòa có đến mười mấy dũng tướng xuất hiện tranh hùng cùng một lúc.

Trời đất luôn luôn có những an bài mà người thường như chúng ta chẳng thể nào hiểu được, nhưng giờ chuyện xảy ra rồi thì chúng ta hãy thử nhìn lại lá số xem có ứng hợp hay không. Vì cách nhau 4 năm, hai 2011 và 2015 có cùng vòng tam hợp tất nhiên khá giống nhau, nhưng xem kỹ thì thấy khác biệt hết sức to lớn vì:

Thứ nhất, năm 2015 Tuế trùng đại hạn ở Mùi, dùng được Thanh Long Lưu Hà trong cung, lại có Liêm Kị xung chiếu, đây ví như mình là cảnh sát giỏi thấy thằng cướp đang lởn vởn đằng xa, cơ hội lập công làm sao bỏ qua được. Năm 2011 xung chiếu là Tử Tham Khúc, lỏng lẻo hẳn so với 2015.

Thứ hai, hạn trước (2000-09) can Giáp khiến cung Thái Dương ở Ngọ hóa Kị, hạn này (2010-19) can Ất khiến cung Thái Âm ở Thân hóa Kị, thành thử cung hạn là Mùi có hai Kị giáp (chú: Cách xem tạm gọi là “xuyên hạn hóa” này chỉ ứng cách giáp và phải cùng loại hóa, là một cách xem của phái Tử Vân, tôi thấy hợp lý nên áp dụng). Năm 2015 lại là năm Ất, thành thử có ba sao Kị giáp cách Thanh Long Lưu Hà. Đây ví như ông cảnh sát nhìn gần đã thấy đến mấy “con mồi” (kẻ tội phạm) nên hăng máu nhất định lập công.

Đó là chưa kể cung Mùi có 3 cặp sao đôi quần tụ, hung cát đầy đủ là Hỏa Linh giáp, Quang Quý trong cung, Thai Tọa tam hợp. Tuế trùng hạn lại tái ngộ cách cục nguyên thủy, khí thế bừng bừng, thành thử năm 1915 hung hăng bất chấp mọi trở ngại khó khăn nhảy ra tranh cử; và vì đã tự cho mình vai trò của một “cảnh sát trừ gian” (như Dirty Harry) nên xem đám đông địch thủ như pha, lại thẳng miệng nói năng chạm nọc, chẳng buồn lịch sự, lấy lòng ai cả.

Tại sao thắng cử tổng thống?

Năm 2015 có những cách kể trên nên mặc dù bị các đối thủ cũng như giới truyền thông coi nhẹ, trừ thời gian ngắn ban đầu và thêm một đoạn ngắn nữa ở giữa ra, ông Trump dẫn đầu quần hùng đảng Cộng Hòa trong các cuộc thăm dò toàn quốc.

Nhưng đến năm 2016 các cuộc đầu phiếu sơ bộ mới bắt đầu và dĩ nhiên cuộc tranh cử tổng thống cũng xảy ra năm 2016 nên hạn năm Bính Thân 2016 mới có tính quyết định. Năm này Tuế nhập cung Thân gặp ngay hạn Kị (Âm) ở đó, thêm can Bính khiến Liêm tái hóa Kị. Theo mô hình cảnh sát và kẻ cướp kể trên thì đây rõ ràng ứng với lúc công an và kẻ cướp chạm trán nhau, chính là ứng kỳ để cảnh sát lập nên công trạng. Thành thử có hiện tượng kỳ quái là trong khi người khác sợ hạn Kị, lá số này năm 2016 chính nhờ Kị hiện lung tung mà yếu tố bất ngờ (Thanh Long Lưu Hà) có dịp hiển lộ thần uy, ai cũng đoán thua hóa ra lại thắng.

Nếu xét lá số không thôi thì yếu tố thắng cử chỉ có thế. Người nghi hoặc sẽ hỏi “Nhưng đây là lá số chung, làm sao có thể dùng nó để đoán ông Trump thắng cử”. Câu hỏi hợp lý, vì sự thật đến đây chỉ có thể nói ông Trump có hy vọng thắng cử thôi.

Nhưng chưa hết…

Thêm một trường hợp tuổi Bính Tuất ly kỳ:

Trong bài “George W Bush: Thời thế tạo anh hùng” dưới tít nhỏ “tuổi Bính Tuất ly kỳ” tôi đã đưa nhận xét sau đây về tuổi Bính Tuất:

“Phải tức thì mở một dấu ngoặc về năm Bính Tuất. Xét trên nền tảng tam tài thiên địa nhân thì Bính Tuất thiên can Bính thuộc hỏa, địa chi Tuất thuộc thổ, nạp âm (tức yếu tố nhân) cũng thuộc thổ (Ốc Thượng Thổ); nghĩa là cả địa lẫn nhân đều được thiên sinh. Thêm nữa, vì Tuất là vị trí mộ của hành hỏa nên tính thổ của Tuất chính là biến tính của hỏa. Do đó, chỉ cần xét đơn giản bằng ngũ hành, nếu mọi điều kiện khác như nhau, tuổi Bính Tuất sẽ dễ đạt thành công hơn nhiều tuổi khác. Thật là đúng quá, vì Bính Tuất cũng chính là năm sinh của hai nhân vật nổi tiếng khác của chính trường Hoa Kỳ là cựu tổng thống hai nhiệm kỳ Bill Clinton (1993-1996, 1997-2000) và ông tổng thẩm tra Kenneth Starr, người đã làm Bill Clinton nhục nhã và suýt mất chức trong nhiệm kỳ 2 (Đó là ta chưa kể các địa hạt khác, như đại đạo diễn Stephen Spielberg cũng sinh năm Bính Tuất).”

Mấy mươi năm trở lại đây nước Mỹ đã có đến hai tổng thống sinh năm Bính Tuất 1946, lại trị vì kế tiếp nhau (Clinton và W Bush từ 1993 đến 2008). Thế tưởng là quá nhiều rồi, ai ngờ trời đất có những an bài lạ lùng ngoài sức tưởng tượng. Khoảng lễ Tạ Ơn (cuối tháng 11 tây) năm ngoái, có chút thời giờ tôi nhìn qua danh sách các ứng cử viên tổng thống Hoa Kỳ. Giật mình khi thấy ứng viên đang đứng đầu nhiều tiểu bang trong các cuộc thăm dò cử tri đảng Cộng Hòa lúc ấy, tức ông Donald Trump, cũng sinh năm Bính Tuất, tôi đã thầm hỏi: “Chẳng lẽ đây là trời đất an bài?” nhưng sau cuộc bầu cử năm 2004 tôi đã nhất định không đoán trước các cuộc bầu cử tổng thống nữa, nên tôi cố bỏ qua chuyện này không nghĩ thêm.

Thái Tuế nhập quái thành công rực rỡ!

Khi ông Trump thắng cử sơ bộ rồi và trở thành đối thủ của bà Clinton thì dù tôi cố không nghĩ thêm về cuộc tranh cử tổng thống này cũng không được, vì xưa khi viết Tử Vi và thế cuộc tôi đã bắt đầu với bài “Bill và Hillary Clinton: Tình yêu và phản bội” và vẫn nhớ bà sinh năm Đinh Hợi 1947. Như vậy ông Trump và bà Hillary đều cùng là Ốc thượng thổ, nhưng thổ của bà Clinton yếu hơn… Bước hiển nhiên kế tiếp là dùng phép Thái Tuế nhập quái, tôi phải cố dằn lắm mới không làm chuyện này…

Bây giờ mọi chuyện đã xảy ra rồi, không sợ mang họa Dương Tu nữa, tôi xin thưa rằng cuộc bầu cử tổng thống này là một trường hợp mà chiêu Thái Tuế nhập quái thành công rực rỡ; bởi dù chỉ mới học Tử Vi, và dù không biết chọn ông Trump sinh giờ nào (Tị, Ngọ?) ngày nào (15, 16?) chỉ cần nhập Thái Tuế của bà Clinton vào cung Hợi là kẻ thắng người bại sẽ thấy rõ như ban ngày.

Bạn nào mới học phép Thái Tuế nhập quái còn chưa dám tin vào tài của mình cứ thử sẽ thấy ngay.

Đóng góp chính của tôi cho đề mục này đến đây là hết. Các message còn lại chỉ xin trả lời câu hỏi và giải quyết thị phi thôi.

….

Hơn năm nay tôi nghiên cứu quá nhiều thứ, Tử Vi dù là một nhưng thời gian không nhiều. Dù sao, tôi cũng có suy nghĩ như sau về cung trọng điểm, như sau:

1) Cung trọng điểm là một cách xem hợp lý, nhưng chẳng phải thuộc loại “mì ăn liền”, ngay cả có thày dạy cũng phải tự mình lăn vào bếp, tức là tự mình chứng nghiệm nhiều lá số, mới hòng có kết quả. Theo chỗ hiểu biết của tôi, thì đây là một cách xem hóc búa đối với ngay cả các đệ tử của ông Tử Vân.

2) Tôi thỉnh thoảng áp dụng cung trọng điểm để nghiệm lý, kết luận là mình chưa đủ sức xử dụng nó để xem số chính xác được.

Lời đề nghị của tôi là nếu anh thích thú với “cung trọng điểm” thì cứ tiếp tục âm thầm áp dụng nó. Việc xem số rất kỳ, có nhiều cách xem học mười mấy năm chẳng xem ra gì, tự nhiên một ngày vỡ ra, bỏ xa những kẻ đồng hành (Chuyện này đã xảy ra cho chính ông Tử Vân, qua chính lời ông kể lại).

….

Miễn hai bên có liên hệ mật thiết, thì cả hai lá số đều xem được, và (xét lý) phải cho cùng kết quả. Nhưng trường hợp đặc biệt này phải phân biệt.

1) Xem lá số vợ thì vì là vợ của người làm chính, phải chú trọng hai cung là cung quan của chồng (tức cung phúc đức) cho cả mệnh lẫn hạn.

2) Xem lá số chồng thì vì là người làm chính cứ định cung trọng điểm như bình thường (chọn giữa quan nguyên thủy, hạn quan, và lưu quan).

….

Mặc dù anh và Alex nói có vẻ khác nhau nhưng theo tôi đều đúng cả. Cung trọng điểm được định nghĩa là cung có tín hiệu mạnh nhất, nên có tính xác định, nhưng thế nào là “tín hiệu mạnh nhất” thì lại có tính không xác định.

Và đồng ý với anh rằng cung trọng điểm là một kỹ thuật rất “mạnh”, vì nó giúp người ta có thể dùng lá số chung mà coi chuyện riêng. Riêng tôi đánh giá thì đây là một sáng kiến đột phá. Chỉ tiếc là duyên của mình với nó chưa đủ, nên mức thành tựu chưa đủ hỏa hầu.

….

Anh Alex bàn rất hay, cung trọng điểm phải dựa vào định nghĩa mà tìm, tập mãi (mà có duyên) thì có lúc đột phá. Ông Tử Vân chẳng có gì để dấu. Tập chưa thành thì vô dụng, tập thành rồi thì vô chiêu thắng hữu chiêu, bỏ xa các bạn đồng hành.

Trong đám đệ tử của ông Tử Vân chỉ thấy ông Phan Học Sơn (tựa sách tôi đã quên) luận số ông học trưởng (đàn anh ở trường cũ) bằng cung trọng điểm, tỏ ra là mình đã đạt pháp này. Dựa theo các bài đoán số ghi lại trong các sách Tử Vân thì nhiều đệ tử khác (của ông Tử Vân) vẫn ở mức ù ù cạc cạc mà thôi.

….

Về ý nghĩa “tinh ròng” (hoặc trường sở hơn thì gọi là “tinh thuần”) xin xem phần tôi trả lời anh café kế tiếp.

“Tinh ròng” không có nghĩa là không sợ kỵ, hợp kỵ; vì Thanh Long Lưu Hà dĩ nhiên là không sợ Kỵ lại còn thích Kỵ là đằng khác. Nhưng tinh ròng thì cách cục nguyên thủy mạnh hơn, không được tinh ròng thì cách cục nguyên thủy yếu hơn, thế thôi.

Tử Vi rất trọng cách cục nguyên thủy, hạn dù xấu hay tốt cũng tùy cách cục nguyên thủy mà ra mức độ khác nhau.

Có cách cục nguyên thủy tốt ví như đi bằng xe hơi, có cách cục nguyên thủy xấu ví như đi bằng xe đạp (hoặc đi bộ, bò càng). Xe hơi gặp đường tốt thì vọt xa, bò càng dù gặp đường tốt cũng chẳng qua mặt ai được.

Thí dụ cũng sinh năm Bính, nhưng Liêm Tham cư Hợi, Vũ Sát cư Mão vậy là Long Hà Kị cũng thành cách, nhưng không được tinh ròng vì Vũ, Tham cũng có thể hóa Kị, thành thử cách cục nguyên thủy vẫn là có Long Hà Kị, nhưng là thứ cách.

Lại thí dụ, cũng sinh năm Bính nhưng mệnh Tử Phá ở Sửu thì Thanh Long Lưu Hà ở Mùi không thể hội họp với Kị (ở Tị), vậy là không có cách Thanh Long Lưu Hà nguyên thủy. Trường hợp này rất cần sinh giờ âm để vận dụng cách Thanh Long Lưu Hà qua cung thân, là thứ thứ cách.

….

Anh nói rất đúng ý tôi. Sách Tử Vi ít thấy nói đến lý tinh ròng, nhưng theo kinh nghiệm của tôi lý này rất quan trọng.

Một cách tinh ròng nữa là chỉ có một sao, thay vì 2. Như Đồng Cự ở Thìn Tuất là hãm địa, nhưng chỉ có một sao (độc thủ) nên được cát hóa thì khẳng định là kỳ cách, dễ có thành tựu to tát, ấy là nhờ có tính tinh ròng (phú nói “Cự Môn Thìn Tuất vi hãm địa, Tân Nhân hóa cát lộc tranh vinh”; “Thiên Đồng Tuất cung vi phản bội, Đinh nhân hóa cát phản đại quý”). Trong khi đó Đồng Cự cùng cung ở Sửu Mùi thì dù được cát hóa thì chỉ mới có thể kể là được cứu giải thôi, còn thêm điều kiện nữa mới mong thành tựu đáng kể, ấy là vì không có tính tinh ròng.

….

1) Trường hợp 3 đời Kị ba đời Lộc như anh viết thì tôi chưa thấy ông Tử Vân bàn lá số nào như thế cả. Nhưng tôi nghĩ đáp án rất giản dị: dùng lý tương ứng. Việc xảy ra ứng với cung nào hơn thì dùng cung đó, việc tốt thì phải chọn cung ba đời Lộc, việc xấu cung ba đời Kị.

2) Đưa thí dụ giản dị để anh thấy các bước định cung trọng điểm. Như năm nay cô X có việc làm mới. Việc làm là chuyện hết sức quan trọng tất nhiên phải là “quan lộc”, do đó phải chọn một trong ba cung Tuế Lộc, hạn Lộc, và nguyên Lộc làm cung trọng điểm. Cách chọn là xem cung nào có tín hiệu mạnh nhất, xấu tốt bất kể, nếu có hai cung một xấu một tốt nhưng cùng đẳng cấp thì phải dùng lý tương ứng mà chọn (trường hợp này chọn tốt nếu cô X đang tìm việc vì tìm việc được việc là tốt, nếu đổi việc thì rắc rối hơn, cần xem thêm yếu tố khác vì đổi việc chưa chắc đã là chuyện tốt). Tất nhiên khi chọn như thế phải bất chấp tầng hoặc cộng hưởng phương vị.

Lưu ý rằng mặc dù ông Tử Vân tối trọng cung mệnh (và tôi đồng ý), kỹ thuật cung trọng điểm cốt xem sự việc phát triển ra sao, và dù mệnh tốt sự việc đặc thù có thể xấu, nên (theo tôi) không thể quy về cung mệnh được, chỉ có thể dùng mệnh làm yếu tố châm chước tối hậu mà thôi (như dùng cung trọng điểm thấy năm xxx tài chánh lâm nguy, mệnh vững chắc thì chỉ hao tài lớn thôi, nhưng mệnh không vững có thể sạt nghiệp).

….

Xem bằng tượng thế này cũng là một cách xem hợp lý, nhưng phối hợp tượng không phải là giản dị và muốn phối hợp tượng cho chính xác phải hiểu tượng từ đâu mà ra.

Thanh Long trong bộ ba Long-Phi-Phục thuộc vòng Bác Sĩ, ở thế đối kháng bộ ba đắc thắng Lộc Tồn-Tướng Quân-Bệnh Phù. Long là vị trí sẵn sàng tung hoành (nhưng còn phải chờ thời) ví như “con rồng trong loài người”, Phi là lúc có thể cướp thời cơ trong tay kẻ khác, Phục là lúc phải chịu ẩn khuất.

Cho nên bảo rằng Long là con cá cũng đúng, nhưng phải hiểu là con cá đang chờ thời, đúng lúc là vượt Vũ Môn. Còn có bị người ta kho tộ hay không thì “anh hùng khi khuất cũng khoanh tay”, cũng có thể xảy ra; nhưng không phải là trường hợp này. Tôi không đồng ý ngay cả với tượng “con bò sát có độc dưới nước” vì Kiếp Sát ở tam hợp không mạnh, lại ở trong vị chính không càng yếu hơn nữa, ảnh hưởng trên Thanh Long chẳng có gì. Cách chính đây là Thanh Long Lưu Hà, tùy ý gọi là “con rồng dưới nước” (theo Tử Vi Việt Nam) hoặc “con rồng trong mây” (theo Tử Vi Đài Cảng), đều mạnh mẽ cả, ấy là vì Lưu Hà cho con rồng Thanh Long có đủ nước để nó có thể tung hoành.

Tôi lại từng đọc đâu đó trên mạng này rằng Thanh Long cư mộ điạ là con giun đất nên Thanh Long của lá số Liêm Sát vô dụng. Không thể nói thế được khi có sự tiếp sức của Lưu Hà.

….

Cô Quả không nhất thiết ít vợ, chú ý rằng cách của cung thê không phải chỉ là Cô Quả mà là “Hồng Hỉ Không Cô Quả” nghĩa đen là dù lắm mối rồi cũng “cô đơn”, nên li dị xoành xoạch là ứng rồi.

Mặc dù Quang Quý Thiên Nguyệt Đức thì vợ chồng khó bỏ nhau, các yếu tố này quá yếu so với vị chính không. Nhưng chú ý rằng ông Trump có liên hệ tốt đẹp với các bà vợ cũ, rất phù hợp với ý “có tình nghĩa” của Quang Quý. Khi ông ra tranh cử giới truyền thông vốn ghét ông liên lạc hai bà vợ cũ, tưởng là họ sẽ lên án ông kịch liệt chẳng ngờ họ lại bảo rằng liên hệ giữa họ với ông Trump như “những người bạn tốt nhất” (“the best of friends”), họ lại thêm rằng ông Trump sẽ là một tổng thống xứng đáng.

….

Với cung trọng điểm, có thể coi nó giống như môn lục hào, khi gặp trường hợp dụng thần lưỡng hiện gặp thêm nhật nguyệt, ta chọn cái gì?

Tuy nhiên, vấn đề ở đây, xét ra không hề có cơ sở khoa học nào chỉ chọn 3 tầng, vì hoàn toàn có thể xét 5-6 tầng, vì thiếu gì người xem vận tháng ngày và giờ. Về mặt chính xác thì khó nói, nhưng về mặt lý thuyết thì không thể chỉ xét có 3 tầngò

Ngoai ra thêm nữa, lý thuyết cung trọng điểm có một điểm chốt rất quan trọng, đó là sự giao hội của tứ hóa không phân rõ ra quan hệ thể dụng của cung phi.

Điểm yếu của lý thuyết cung trọng điểm, là không tương thích với lý thuyết bắc phái. Lý do rằng, có hai trường phái chính dùng tứ hóa, trong đó một là dùng can năm để lưu, và một cái là dùng can của cung,phi cung tới đâu dùng can cung đó để bắn tứ hóa. Và hiện nay trường phái 2 đang trở nên phổ biến hơn trường phái đầu.

Và một khuyết của nó, đó là coi mọi tứ hóa đều như nhau, theo nghĩa chỉ có đếm, 1,2,3,4,5 đời kị chẳng hạn. Trong khi cường nhược của tứ hóa đóng vai trò cực kì quan trọng, thì lý thuyết này lại bị cắt bớt đi.

Kính bác.

Cháu nghe nói, có một trường phái sử dụng thiên can của cung tiểu vận để luận (nếu cháu nhớ không nhầm là can đại vân ngũ hổ độn rồi đếm thuận) Bác có đánh giá sao về kỹ thuật này của nó, và đặc biệt là tương thích của nó đối với tử vi Nam và Bắc Phái.

Kính bác.

Ngôi tử vi an tại dậu, tử vi chủ của tài nhân đóng dậu khiến cho cô thần nhập Hợi vào cung phu thê, thêm ngày canh thân, cũng khiến cho cô thần một lần nữa rơi vào phu thê, khiến cho đương số hôn nhân trắc trở.

….

1- Khác ngày sinh, cùng lá số, kĩ thuật giải quyết nó khác. Vận hành của lá số khác xa nhau.

2-Dùng can chi ngày / số ngày khởi từ đông chí là một trường phái rất mạnh của tử vi, hoàn toàn không kém so với ngài Liễu Vô về mặt học thuật. Còn về khía cạnh media thì đó tạm không bàn.

3-Tôi đã đưa rất nhiều phương pháp xem, trong đó cung trọng điểm chỉ là một phương pháp nhỏ, cũng như tôi khẳng định và chỉ ra nhiều điểm khuyết của lý thuyết cung trọng điểm. Nhưng kể cả giải quyết, thì cũng cần phải xác định rõ đây là bài toán phân lớp, hết lớp nọ mới giải quyết lớp kia.

….

Cho tới nay, chưa hề có bất cứ một bằng chứng khoa học và lịch sử nào chứng minh, hoặc có giấy chứng nhận rằng nó đoán đúng, nó là tượng đài.

Nó là một công cụ, không hơn không kém, đã là công cụ thì có nguyên lý vận hành, và do đó có giới hạn. Tuyệt đối không được thần tượng hóa nó, theo kiểu thờ cúng như vậy, vì đó là mê tín dị đoan.

Như tôi đã chỉ ra các khuyết điểm của học thuyết cung trọng điểm.

1-bỏ qua cường nhược của tứ hóa.

2-bỏ qua ứng kỳ của tứ hóa, khi nó liên quan tới độn giáp.

3-Bỏ qua các tầng tháng, ngày và giờ. Trong khi về mặt lý thuyết, vận tháng ngày rất quan trọng, đặc biệt là vận ngày vì khác nhau về hệ dịch lý.

4-Bỏ qua tương tác của tứ hóa.

5-Bỏ qua tương tác thể dụng của phi bàn. Và tệ hơn, đại đa số coi lộc là tốt, kỵ là xấu.

6-Bỏ qua lý thuyết Sái Minh Hoành.

và còn nhiều nữa.

Với từng đó thứ tôi chỉ ra, nếu như không có nghiên cứu căn bản, thì cứ ngày ngày văn ôn võ luyện, không có thâm khảo, mà cứ chuồn chuồn điểm nước, sợ rằng kết quả không bù lại được công sức.

Tất nhiên, ai rảnh thì cứ tùy nghi, còn tôi chọn con đường đi khác.

….

Cháu xin phép bình chú một số đoạn xem của bác, mong bác chỉ bảo thêm. Vì cháu đọc từng chũ luận đoán của bác để học theo, nên cháu xin phép quote thành từng đoạn.

Mệnh Liêm Sát trong tam hợp hành kim Tị Dậu Sửu (lại cùng cung với sao chủ hành là Phá Toái) nên Sát thuộc kim được tiếp trợ đóng vai chủ, Liêm thuộc hỏa đóng vai phụ.

Cháu xin phép bình thêm, đó là liêm sát trong môi trường Thổ Cục, sinh KIM.

Hôn nhân có vấn đề: Thế nhưng Liêm Trinh là thứ đào hoa nên khi cư mệnh lại hóa Kị thì hôn nhân phải có vấn đề nghiêm trọng, quả ứng trong trường hợp ông Trump.

___________________________________________________

Cháu xin được bổ sung thêm. Ngoài tính chất đào hoa thì Mệnh hóa kị nhập vào quan xung vào Thê

Can Kỷ nhập cung hợi, mộc cục tác thiên tướng. NHưng nhìn ngày sinh, Ngôi tử vi ở cung Dậu, tác Cô thần nhập Thê, Ngày Canh Thân cũng đưa cô thần vào thê.

Thê 1-6 với Nô, gặp Hỏa Kình Không,, đào hoa Gia hội. Nên đây là cung phu thê có vấn đề.

Từ lâu tôi đã tránh luận chuyện tương lai, chuyện sống chết lại càng tối kị. Tuy nhiên, tôi xin chú ở đây rằng mặc dù Liêm hóa Kị nhưng toàn thể lục sát tinh (Kình Đà Hỏa Tinh Không Kiếp) đều vắng bóng; xin các độc giả tự kết luận.

—————————————————————————

Cháu xin phép đề xuất thế này. Hàm ý của Thượng Lộ Mai Thi, nó chỉ là ý tượng, không nên hiểu một cách như vậy.

Khi luận đoán thế Liêm Sát, cần phân định chúng thuộc hệ phấn chấn hay Cuong Bạo. trong trường hợp này, lộc tồn gia hội, nhưng gặp HÌnh kỴ, thì ta sử dụng tính cương bạo để luận đoán (thất sát), hàm ý sự xung động. Tuy nhiên, cương bạo khác xa với thượng lộ mai thi, vì chẳng có ai thượng lộ mai thi cả đời.

Mệnh thân phú cách, kỳ ngộ chính không: Hóa Kị ở mệnh được Khoa ở quan điều chỉnh, nhất là lại đắc cách Thanh Long Lưu Hà đồng cung (rất mạnh) ở di, nên có khả năng biến khó khăn, trở ngại thành cơ hội. Lộc Tồn “hậu trọng đa y thực” cư Tị chiếu về mệnh, thân nên dễ gặp may mắn hơn người, nhất là may mắn về tài chính. Thân lại ở Hợi có Tướng độc thủ thật tốt cho giới thương mại (theo ông Tử Vân thì cung mệnh của ông Thái Vạn Xuân, đại gia Đài Loan làm nên sự nghiệp thời Nhật thuộc, có cách này). Tất cả đều ứng hợp với sự kiện ông Trump là một đại gia.

___________________________________________________________________

Khoa Kị nằm ở cung dương, lộc quyền nằm cung âm, nên phú quý phân ngang nhau. Tuy nhiên, tất cả đều nằm ở ngã cung.

Nhìn lá số ta thấy cung điền ở Thìn gặp chính Triệt thêm Đà La Địa Kiếp (chú: Kiếp nghĩa đen là “cướp”) thêm Linh ở Thân hội về (chú: Tôi nay an Hỏa Linh theo chiều thuận cả) thật là xấu quá. Kỳ diệu làm sao Thìn có Đồng cực hãm độc thủ hóa Lộc, thành cách “chính tinh hãm đáo Quyền Lộc quang vinh” lật ngược thế cờ, khiến Đà La biến thành mưu sâu, Địa Kiếp thành “cướp cơ hội”.

__________________________________________________________________________

Can Nhâm gặp Thiên Đồng thủy cục tác thiên đồng vượng, gặp Hóa Lộc cát hóa Lịnh Đà Kiếp. Trong tử vi có các cách cục như hỏa Kình không, hỏa đà không, hỏa đà kiếp, hỏa kình kiếp…. gặp lộc thì cát, gặp kị hóa hung. kết quả đúng như bác luận, biến Đà thành mưu, Kiếp thành cướp cơ hội.

Mệnh thân phú cách, kỳ ngộ chính không (tiếp theo): Thiên Không khi ở tứ mã Dần Thân Tị Hợi (chỉ xảy ra cho tuổi tứ mộ Thìn Tuất Sửu Mùi) thì các sao nhân tế quan hệ mâu thuẫn một cách cực đoan là Đào Hồng Hỉ Cô Quả Kiếp Sát hội họp cọ xát nhau. Đây ví như trường hợp một người đang kịch liệt đấu tranh trong trường danh lợi chợt hiểu ra mọi sắc hương chỉ là giả tướng, dễ nẩy ra ý bỏ cái có lấy cái không, phát nguyện hy sinh cho người khác. Chính tinh Thiên Tướng độc thủ ở Hợi lại càng dễ khiến khuynh hướng tâm lý này biến thành sự thật, vì Tướng vốn có duyên với sự tu hành.

—————————————————————

Cháu xin phép có ý kiến khác với bác thế này. Thiên Tướng chả hề có duyên với sự tu hành, mà bản chất của thiên tướng là tương hòa, chủ ấn. Ấn ở đây, được hiểu như em thư ký ở cơ quan, luôn luôn nghe theo lời sếp là tử vi ký tên đóng dấu, gọi là ấn. Nên tính lý của Thiên tướng là tương hòa, dễ nghe lời, nên nhiều người cho rằng Thiên Tướng là chính tinh yếu nhất, hình thành do cảm ứng từ thế tử phủ. Trong nhiều trường hợp, người tương hòa dễ tu hành hơn, thế thôi.

CUng Phu thê, còn gọi là cung an thân, gặp can Kỷ hội trường sinh, khiến đương số là người rất có năng lượng. Nhưng lộc nhập quan, gia hội lộc tự hóa nơi quan, theo tiên thiên tứ hóa phi tinh LỘC phổ, là cách cục phá nát cung thê, để tiếp sức cho quan.

Phái tiên thiên tứ hóa của Khuyến Học trai chủ (Đài Loan) gọi cung quan lộc của mỗi cung (tức cung thứ 5 theo chiều thuận từ cung chính tính đi) là cung “khí số”, ý nói đây là cung có tính quyết định. Cung khí số của đại hạn hiện tại, tức Ất Mùi (2010-2019), lại chính là Hợi, ứng hết sức với chuyện ly kì là năm 2015 ông Trump bỗng xưng là “không ai chịu làm chuyện phải làm thì tôi làm”, xung phong ra tranh cử. Chỉ trong giai đoạn sơ bộ (tức trong nội bộ đảng Cộng Hòa) ông đã tốn mất 50 triệu tiền túi. Khi tranh cử với bà Clinton mặc dù có nguồn viện trợ chắc chắn ông cũng đã tốn thêm nhiều triệu mỹ kim nữa, rồi khi thắng cử ông lại tuyên bố là làm tổng thống không nhận lương (chỉ nhận tượng trưng 1 đô la cho khỏi phạm luật).

_________________________________________________________________

Khảo sát về khí số vị của cung đại vận thì cũng tương đương với việc sử dụng cung quan đại vận để phi hóa. Theo cách nói của cháu, quan đại vận cát hóa quan nguyên thủy, đẩy hóa kị sang tài bạch là ngã cung tiên thiên, là cách sử dụng của tiên thiên tứ hóa, nói rằng theo đuổi quan trường hao tổn tiền bạc nhưng có thành quả lớn.

Cách cụcCách xấu của mệnh ông Trump hiển nhiên là hóa Kị cư mệnh, cách cứu hiển nhiên là cặp sao Thanh Long Lưu Hà xung chiếu từ cung di.

————————————————–

Theo cháu nghĩ, một thằng hóa kị tiên thiên vốn chỉ là tượng nghĩa, một mình nó chẳng làm sao cả bác ạ. Thậm chí, theo quan điểm của tứ hóa, hóa kị cư mệnh còn được coi là tốt khi nhập ngã cung. Còn mấy kĩ thuật như thanh long gặp lưu hà, thì cháu rất xin lỗi là bỏ phiếu trắng, vì cháu không nhìn thấy cơ sở khoa học, khi một cách cục tạo ra bởi long hà kị mà thanh long an theo can, lưu hà an theo can, và hóa kị an theo can. Không hội đủ tam tài, thì cách cục không thành hình.

Hình như đây là hàng tự sáng tác của Việt nam mình thì phải hả bác?

Cái đẹp của Hóa kị ở đây, đó là xuất phát từ Liêm trinh nơi thổ cục, sinh xuất cho mệnh thuộc thổ. Giả sử thủy cục gia hội gặp mệnh mộc, đương số chết tươi ngay.

Hạn đầu (1950-59) vì đặc tính Liêm Kị Sát Hình của mệnh nên ngỗ nghịch lại thích đánh nhau, may mà cha nghĩ ra cách giải quyết là bắt vào học nội trú thiếu sinh quân, bị khép vào kỷ luật và không có cơ hội gây chuyện đáng tiếc.

—————————————

Vì rằng hóa lộc nhạp điền, hóa Kị nhập vào quan, nên tạo ra môi trường học hành khắt khe, khiến đương số được mài rũa, có thành tựu.

Đến hạn thứ hai (1960-69) thì Thái Dương ở Ngọ là hạn quan đã được cát hóa liên tiếp hai hạn nên học hành thành tựu (ra trường Ivy League với bằng cử nhân kinh tế, chuyên bất động sản) và chịu khó theo học nghề địa ốc của cha.

Đại hạn này, Kị nhập điền vào ngã cung, khiến đương số phát mạnh về bất động sản, lộc nhập vào nô trùng với quan lộc đại vận, học hành thành tựu. Sự thành tựu ở đây, hóa lộc cát hóa Hoả Kình Không.

Hạn thứ ba (1970-79) vào thế tam hợp với cung thân, Thái Dương ở hạn điền được thêm một lần cát hóa, thì đã hoàn toàn thoát xác, thành một đại gia bất động sản trẻ tuổi giỏi giang, làm ăn to, lấy vợ đẹp (Ivana năm 1977), và sinh con trai đầu lòng (Eric, 1977).

—————————————————————————

Cháu xin phép bình luận. Hóa lộc nhập tử nữ= ăn chơi trác táng, Kị nhập quan lộc rơi vào ngã cung, cát hóa Kình đã khong kiếp Hỏa nơi Thủy cục hội vũ phá. Đây là cách cục trở thành đại gia BDS. Tính và lý của Vũ Phá hỏa kình không đà kiếp cát hóa, chắc các bạn đều rõ.

Hạn thứ tư (1980-89) nhập cung điền nguyên thủy, nhờ kỳ cách nguyên thủy (đã luận trong kỳ 1) mà có nhiều cơ hội đầu tư bất động sản, lại có thêm hai đứa con xinh đẹp (gái Ivanka 1981, trai Eric 1984). Nhưng cũng vì mọi chuyện đều thuận lợi mà đắc ý vong hình, vung tay quá trán, để rồi phải trả hậu quả vào hạn kế tiếp.Hóa lộc bay vào tài đại vận, kị nhập quan tiên thiên xung tật, cũng luận y như trên. Đương số phát tài rất mạnh, về quan lộc.

Mặc dù gặp Triệt chặn đầu, nhưng xuất không triệt mở ra.

Hạn thứ năm (1990-99) là giai đoạn hoàn toàn khủng hoảng. Làm ăn thì khai phá sản 4 lần (một lần năm 1991, ba lần năm 1992), khai thua lỗ đến bạc tỷ Mỹ kim. Hôn nhân thì ngoại tình, phải ly dị vợ (1990), lấy người tình (1993) sinh con gái (Tiffany) rồi ly thân và li dị người tình (1997, 1999) và bắt đầu liên hệ với người tình mới (1998), sau thành vợ thứ ba.

Nhìn lại lá số thấy quá hợp lý vì hạn vào mã địa Tị tượng biến động gặp Vũ Phá. Phá nhờ can Quý hóa Lộc nhưng Tị chính là song tuyệt địa (tuyệt địa của năm sinh và nạp âm, vì đều là dương thổ cả) hóa Lộc chỉ là hư hoa. Phần xấu thì Tham ở hạn quan hóa Kị, và nghiêm trọng hơn nữa là kích khởi Kị nguyên thủy, tức là cả hạn lẫn mệnh –kiêm hạn tài- đều bị song Kị hội họp. Năm 1992 là Nhâm Thân, can Nhâm khiến Vũ hóa Kị, tức là cả mệnh tài quan nguyên thủy cũng như của hạn đều bị ba đời Kị chia nhau phá hoại, chính là năm khai phá sản 3 lần. Về hôn nhân thì hạn gặp Hồng Riêu Xương xung cung chính không, hạn thê nhập phúc nguyên thủy, vô chính diệu bị Tham Khúc xung, thêm Đào Hỉ Mộc Binh Tướng; đào hoa hỗn loạn thế nào tưởng chẳng dẫn diễn tả cũng thấy rõ. Còn may là lúc này ảnh hưởng của cung thân đã mạnh nên mặc dù cách cung vẫn được hưởng hơi hướng của Thanh Long Lưu Hà, nhất là lại được cặp Khôi Việt chiếu về giải cứu nên nương vào ảnh hưởng tốt của Lộc Tồn trong cung mà thoát qua cơn khốn khó dựng lại sự nghiệp.

Cháu đồng ý với bác Thủy cục tuyệt tại quý tỵ, thiên can cũng thuộc thủy, tác tuyệt lên quan lộc. Thế giáp, vũ phá không kiếp kình đà, khiến cho cuộc sống đương số thành ác mộng. Hóa lộc đại vận chiếu vào phu thê tiên thiên hàm ý ngoại tình, hóa kị gặp tài bạch, là cung quan đại vận, chủ một đại vận vất vả về quan lộc.

Nhưng cháu khẳng định, đây là đại vận tạo tiền đề tốt. Lý do, phá quân bắc đẩu hội triệt, tác động cát hóa xảy ra vào nửa sau đại vận. Nửa sau thập niên 90, trump hồi phục.

Hạn thứ sáu (2000-2009) gặp cách Nhật Lệ trung thiên tức là Thái Dương cư Ngọ cực thịnh, tiếc rằng hạn can là Giáp khiến Nhật hóa Kị lại gặp Kình Không thành thử vẫn phải hai lần khai phá sản (năm 2004, 2009). Nhưng Thái Dương cư Ngọ khó mà dở được, nhất là Kình được Hỏa chế (chú: Cách Hỏa Kình cùng cung là hung tinh đắc chế, ví như con dao sắc, có thể đứt tay nhưng được việc) lại có sức phấn đấu của Bạch Hổ (chú: Đến hạn Bạch Hổ người ta tranh đấu rất hăng, chẳng vì khó khăn mà lùi bước) nên phát triển được ưu điểm của Thái Dương (văn nghệ), là thành ngôi sao trình diễn trong trương trình TV nổi tiếng thế giới Apprentice. Đây cũng là hạn ông Trump đính hôn (2004) rồi kết hôn với cô Melania (2005) và sinh con trai (Baron, 2006).

Đại vận này, hóa lộc bay vào mênh, là tật đại vận, khán thẳng là cách tốt. Vũ phá gặp khoa quyền bay vào quan lộc gốc, Khoa tác quyền tạo ra 2 quyền. Đúng như bác nói, nhật hóa kị tại tha cung, thuộc trung thiên đẩu, khiến cho đương số phá sản. Năm 2004 hóa kị tác thêm vào đại vận mệnh phá sản 1 lần,

Đây là cái cháu và bác có thể có bất đồng ở chỗ này. Hoàn toàn không liên quan tới tính lý của thái dương.

Thí dụ cũng sinh năm Bính, nhưng Liêm Tham cư Hợi, Vũ Sát cư Mão vậy là Long Hà Kị cũng thành cách, nhưng không được tinh ròng vì Vũ, Tham cũng có thể hóa Kị, thành thử cách cục nguyên thủy vẫn là có Long Hà Kị, nhưng là thứ cách.

Lại thí dụ, cũng sinh năm Bính nhưng mệnh Tử Phá ở Sửu thì Thanh Long Lưu Hà ở Mùi không thể hội họp với Kị (ở Tị), vậy là không có cách Thanh Long Lưu Hà nguyên thủy. Trường hợp này rất cần sinh giờ âm để vận dụng cách Thanh Long Lưu Hà qua cung thân, là thứ thứ cách.

—————————————————————–

Đến đây, cháu và bác có lẽ có sự xa nhau kha khá. Theo quan điểm của cháu, các tinh đẩu hoàn toàn không phân cát hung, giống như 64 quẻ của Kinh dịch, tùy thời mà luận khi gặp Phi hóa xung nhập. Nên, cháu không bình gì được về Long hà Kị. và cháu không cho rằng cứ hóa lộc là tốt, hóa kị là xấu như bác dùng.

Trời đất luôn luôn có những an bài mà người thường như chúng ta chẳng thể nào hiểu được, nhưng giờ chuyện xảy ra rồi thì chúng ta hãy thử nhìn lại lá số xem có ứng hợp hay không. Vì cách nhau 4 năm, hai 2011 và 2015 có cùng vòng tam hợp tất nhiên khá giống nhau, nhưng xem kỹ thì thấy khác biệt hết sức to lớn vì:

Thứ nhất, năm 2015 Tuế trùng đại hạn ở Mùi, dùng được Thanh Long Lưu Hà trong cung, lại có Liêm Kị xung chiếu, đây ví như mình là cảnh sát giỏi thấy thằng cướp đang lởn vởn đằng xa, cơ hội lập công làm sao bỏ qua được. Năm 2011 xung chiếu là Tử Tham Khúc, lỏng lẻo hẳn so với 2015.

Thứ hai, hạn trước (2000-09) can Giáp khiến cung Thái Dương ở Ngọ hóa Kị, hạn này (2010-19) can Ất khiến cung Thái Âm ở Thân hóa Kị, thành thử cung hạn là Mùi có hai Kị giáp (chú: Cách xem tạm gọi là “xuyên hạn hóa” này chỉ ứng cách giáp và phải cùng loại hóa, là một cách xem của phái Tử Vân, tôi thấy hợp lý nên áp dụng). Năm 2015 lại là năm Ất, thành thử có ba sao Kị giáp cách Thanh Long Lưu Hà. Đây ví như ông cảnh sát nhìn gần đã thấy đến mấy “con mồi” (kẻ tội phạm) nên hăng máu nhất định lập công.

Cháu thì không bị thuyết phục bởi cách xem xuyên hạn hóa của ngài tử vân, tuy nhien, cháu xem đơn giản. Đại vận cung mùi, Cơ âm hóa lộc kị, rơi vào ngã cung, khán là đại cát cách. Cơ âm thuộc nam đẩu và trung đẩu, ứng với nửa sau đại vận, và phần giữa đại vận tức là 68-70 trở đi. Vận hạn xét ra 2014-5-6.

Năm 2015, năm ất mùi, trùng với can đại vận, là lưu lai nhân cung của đại vận. can ất, lộc kiij bay vào cung tật, xung phá đại vận tật ách, khán thẳng 2015 Trump gặp vấn đề về sức khỏe, cũng như đương số quan tâm nhất vấn đề mặt mũi. Tuy nhiên, trong năm ngoái, quan lộc chưa có quá nhiều biến động lớn.

_________________________________________________________________

Nhưng đến năm 2016 các cuộc đầu phiếu sơ bộ mới bắt đầu và dĩ nhiên cuộc tranh cử tổng thống cũng xảy ra năm 2016 nên hạn năm Bính Thân 2016 mới có tính quyết định. Năm này Tuế nhập cung Thân gặp ngay hạn Kị (Âm) ở đó, thêm can Bính khiến Liêm tái hóa Kị. Theo mô hình cảnh sát và kẻ cướp kể trên thì đây rõ ràng ứng với lúc công an và kẻ cướp chạm trán nhau, chính là ứng kỳ để cảnh sát lập nên công trạng. Thành thử có hiện tượng kỳ quái là trong khi người khác sợ hạn Kị, lá số này năm 2016 chính nhờ Kị hiện lung tung mà yếu tố bất ngờ (Thanh Long Lưu Hà) có dịp hiển lộ thần uy, ai cũng đoán thua hóa ra lại thắng.

Năm 2016, thái tuế kích hoạt song kị ở ngã cung tiên thiên, là cách cục tổng thống. Nhưng về tiểu cục thiên đồng hóa lộc cung tài lưu, hóa kị nhạp cung thiên di đại vận,xung đại vận, khán luôn đương số gặp họa rất nặng về vấn đề nô bộc. Vấn đề, ứng với sự kiện đương số bị lộ các video chát chít với thằng bạn quý hóa, nhưng vì song kị nên thoát được.

Xét một cung phúc đức, thì có khái niệm cung phúc và cung đức, trong đó cung phúc là cố định, cung đức vận hành chủ đức mình tụ lại được. 2016, Đức cung bay tới cung tài bạch, và là cung phụ mẫu ý tượng đương số tích đức bằng tiền, bỏ tiền ra tranh cử.

==================================================================

Tổng kết lại, bác sử dụng cách cục Long hà Kị để làm dụng thần khi luận đoán.

Cháu thì vì sở thích cá nhân bỏ hoàn toàn qua cách cục này, vì không tin vào cơ sở khoa học của nó, mà sử dụng cung làm trọng.

Có gì mong bác chỉ bảo.

Vì một số lý do, đây chỉ là một nửa của chiêu thức, vì cháu bám theo bác VDTT để bình luận, để có thể tối ưu hóa sự interaction giữa 2 bên. Tạm thời các kỹ thuật liên quan tới can chi ngày/ phi long thuật và lá số âm bản được tạm thời bỏ qua.

….

Tiếp tục bình thêm. Người ta vẫn biết rằng, trong tử vi, các kĩ thuật luôn tuân theo một quy luật, đó là lý thuyết vận mệnh bất phân. Theo một nghĩa nào đó, nó giống như câu As Above, As under, tức là cái ở trên có, thì ở dưới cũng có, nhưng ở đây là ta xét về phạm trù thời gian.

Ở đây, đẩu quân bản chất chính là lưu cung dần theo phạm trù thái tuế, và lưu đẩu quân chính là lưu cung dần theo lưu thái tuế. Hệ quả, năm nay, đẩu quân vận hành tới cung tài bạch,hội can Đinh, hàm ý vấn đề chính xảy ra vấn đề về tiền bạc, nhưng nguyên nhân của nó là do nguyên khí tụ lại tại thời điểm giao thừa, tác phi hóa đẩy Thái Âm Hóa Lộc tại cung tật ách, cự môn hóa kị tại cung tử nữ.

thái cực sinh lưỡng nghi, lập tại cung Tật ách và cung tài bạch nơi lưu đẩu quân ngự trị. Đẩu cưỡi trên can Đinh, cát hóa cung mệnh lưu, đồng thời là cung trọng điểm của cách cục tranh cử. Đây là lý do đương số gặp may mắn khi tranh cử.

Từ đây, chúng ta có thể thấy mối quan hệ giữa lý thuyết cung trọng điểm của tử vi nam phái một bên và lý thuyết phi hóa bắc phái một bên.

Thái tuế nằm ở cung Tuất, khiến cho đẩu quân ở Hợi. Theo nguyên lý as above as under, đẩu quân cát hóa quan lộc, nên ý tượng của nó khiến cho duyên khởi tại cung quan, và diệt tại cung tài.

Từ đẩu quân, đếm thuận tới tháng 5, rồi đếm thuận tới ngày 16, gặp Nhật cát hóa, rồi thuận tới giờ Tỵ tại cung Hợi, là cung phu thê gọi đó là mệnh ảo.

Trong trường hợp này, mệnh ảo và Đẩu quân trùng nhau.

Lập thái cực khảo sát sự tương tác giữa Mệnh và mệnh ảo/Đẩu quân, có thể thấy cung quan đương số mạnh tới thế nào, dù giáp không kiếp kình đà hỏa. Đây là lý do, đương số làm tỏng thống.

….

Tôi thực sự, không nắm được cái kĩ thuật Long hà Kị đấy, vì thực sự càng nghiên cứu càng không hiểu.

Ví dụ, liên hệ giữa sao Lưu hà, và sao Phi Phù trong Thái Ất, tới nay vẫn nằm ngoài kiến thức của tôi. Khi nào tôi cảm thấy mình đủ hiểu nguyên tắc, tôi sẽ tự động dùng, không cần thiết phải bảo Pele đá bóng.

Với thứ hai, tôi nghĩ khi nghiên cứu các mối quan hệ giữa tử vi và tam thức thì sẽ có những chiêu thức mạnh hơn Long Hà Kỵ rất nhiều lần. LHK xét ra, chỉ là vỏ của chiêu thức, không thể hiện bản chất vận hành dịch lý đằng sau.

Còn không hiểu gì mà cứ dùng bừa, đúng thì tự coi mình xem giỏi, tự xưng cao thủ thiên tài, sai thì coi là do số đen, đúng hay sai cũng không hiểu vì sao, tôi cho rằng mình nên tránh xa điều đấy.

….

1) Thiên Không không phải là sao dỏm. Nó là một sao đã hiện diện lâu đời trong bảng thần sát (thí dụ xem sách “Âm Dương ngũ hành trúc cơ tu chứng”, Chân Huyền -tức Chính Huyền sơn nhân, Đài Bắc, Đài Loan, 1984).

2) Đúng là bản “Toàn thư” của La Hồng Tiên (xưng là Trần Đoàn viết, nhưng theo các nhà nghiên cứu thì xác xuất cao là do đệ tử nhiều đời của Trần Đoàn ghi lại) không hề nói đến sao Thiên Không này, vì sách này đã dùng tên Thiên Không cho sao mà Tử Vi Việt Nam gọi là Địa Không. Nhưng theo sách Tử Vi kinh điển cận đại là “Đẩu Số Tuyên Vi” (Quán Vân chủ nhân, tập đầu 1928, tập sau 1935. Sách này có ảnh hưởng rất lớn đến làng Tử Vi Việt Nam mặc dù ít người biết đến) thì “Toàn thư” không phải là sách Tử Vi duy nhất được truyền lại. “Đẩu Số tuyên vi” gọi cặp sao Không Kiếp là Địa Không-Địa Kiếp lại ghi lời người nghi hoặc đặt câu hỏi tại sao gọi là “Địa Không” rồi trả lời rằng sách Tử Vi để lại có bản ghi “Thiên Không” có bản ghi “Điạ Không” và “Đẩu số tuyên vi” dựa trên bản ghi “Địa Không”. “Đẩu số tuyên vi” có an sao Thiên Không theo sau Thái Tuế với bài phú như sau “Giá tiền nhất vị thị Thiên Không, thân mệnh nguyên lai bất khả phùng, nhị chủ Lộc Tồn nhược trí thử, diêm vương bất phạ nễ anh hùng”. Tại sao Tử Vi Việt Nam có sao Thiên Không thì tôi không rõ, có thể từ trước khi “Đẩu Sô tuyên vi” ra đời. Nhưng điểm chính là Thiên Không (trước Thái Tuế) không thể liệt vào loại “sao dỏm” vì tối thiểu có một sách kinh điển cận đại, tức “Đẩu Số tuyên vi”, đã dùng đến nó.

3) Thiên Không có phải do “Giang hồ thuật sĩ” đặt ra hay không thì chưa ai có thể kết luận (xin xem 2 ở trên).

….

Về sao thiên không, như bác VDTT đã bình luân. Tôi xin bình chú thêm rằng, cái vị trí trước thái tuế 1 cung,

  • có sao Thiếu Dương, vốn gốc là sao Thái Dương trong thuật xem ngày khi bê sang tử vi gặp sao Thái Dương rồi nên đổi tên đi thành Thiếu Dương(mà không ngờ rằng có một bọn thầy bói đi chiết tự thiếu dương là người con gái nhỏ nên đương số cần phải bla bla…). Nó cũng cùng dạng với kiểu chiết tự ngơ ngẩn Nhân biến vi vương mà đám giang hồ thuật sĩ hay dùng.
  • sao Hối Khí,
  • sao Thiên Không.

Ba sao này trong các sách vở hiện nay đều cùng một chỗ.

Câu hỏi đặt ra, Trần Đoàn có bị thần kinh, lên cơn co giật như uống thuốc lắc hay không khi cho ba sao đồng cung để chơi, khi mà tính lý chúng nó khác nhau? Ông ta rảnh à, để đang đường quang phi xe lại phải lượn sang trái đánh sang phải như phim mỹ nó mới thích?

Câu trả lời, theo tôi, có thể giả thuyết là sách viết “Sao thiên không nằm trước thái tuế 1 cung, rồi đếm nghịch theo xxx, an thiên Không”, nhưng có thằng ất ơ nào đó muốn tung man thư, liền tẩy bớt cái câu “đếm nghịch theo xxxx” đi cho có vẻ sành điệu. Từ đấy thiên hạ ôm cách an sai mà tu luyện.

Theo tôi biết, trong lịch sử việc này xảy ra nhiều.

….

Tôi không tin, Nhà Trần với cấp độ như thế, lại đi sáng tác thêm sao theo kiểu cho sao đó vào đồng cung với 2 sao đã biết, để tưởng nhớ một quan chức bộ chính trị đã về hưu đã sát sinh nửa triệu sinh linh là ngài Trần Nhân Tông.

Tôi có khảo cứu, và đúng là có hai cách an khác của sao Thiên Không, một xuất phát ở thiên văn, một ở cổ thư tử vi bên TQ và không liên quan gì tới tử vi Việt nam. Cách an thông thường là cách an bị cắt gọt. Nó là một trong một cặp sao đôi.

Theo đúng nguyên tắc, cái gì tôi thấy vô lý, tôi không hiểu nguyên lý hình thành thì tôi không sử dụng.

Chính vì vậy,ở đây, chắc sẽ rất hiếm người thấy tôi sử dụng sao Thiên Không trong luận đoán.

Mà việc quái gì phải dùng cơ chứ. Tử vi chia ra làm nam và Bắc Phái, mỗi cái chia ra 50% đi.

Trong cái 50% Nam Phái đó, lý thuyết cung khí là trung tâm của lãnh vực, chiếm 30%, chính tinh có lực quan trọng nhất, chiếm 50%, Còn lại 20% cho lục cát lục sát thiên mã…, thì tôi thấy lục cát lục sát phải chiếm tới 1/2 so với hệ sao còn lại. vị chi còn 10% cho các vòng sao nho nhỏ.

Mà đó chỉ là 10% của cái nam phái, nhân ra chỉ còn có 5%. Nhưng trong 5% này, thì mấy sao nằm trong hệ thống 4 vòng trằng sinh, thái tuế, lộc tồn, tướng tinh nó nắm vai trò quan trọng hơn.

Tính ra, impact của sao Thiên Không chỉ không tới 0.3%.

Theo nguyên tắc 80-20, 20% những gì quan trọng nhất chiếm 80% những gì có tác động của một lãnh vực. Tôi thấy vất cha nó sao Thiên Không đi, impact chỉ giảm có 0.7%, hoàn toàn không đáng kể, khi nào rảnh thì sử dụng các cách an cổ chưa bị tẩy xóa mà luận.

mà bù lại, công lực mình sẽ đạt độ tinh thuần, thuần nhất, không bị lai tạp, không lâm vào cái tình trạng dùng chiêu thức mà cứ run run, không biết đúng hay sai, đúng thì bảo mình thiên tài tử vi, sai thì cứ đổ lỗi, phang lá số cứ run rẩy vừa đái vừa nhòm.

Hoàn toàn tương tự như vậy là tôi nói tới cách cục Long Hà Kỵ, vì tôi không khảo chứng được nguyên lý hoạt động của Lưu hà trong Thái Ất ra sao, nhưng tôi thấy mình rảnh rỗi đâu mà dành 30 năm lãng phí ở một cái 0.3% kiểu chiết tự nhân biến vi vương, Không hơi đâu mà dành sức để đôi co với mấy bạn căn vặn Thạnh Long cư di hay cư mệnh. Ngay như các sao trong vòng bác sĩ hiện giờ an cũng sai lạc hết, nên dùng nó làm cơ sở, tôi cảm thấy rất là áy náy.

Thà là cứ bỏ qua, rồi dùng lực phá xảo, dùng công lực 99.7% quất bọn 0.3% sướng hơn nhiều.

Ngay như các sao trong vòng bác sĩ hiện giờ an cũng sai lạc hết, nên dùng nó làm cơ sở, tôi cảm thấy rất là áy náy.

Posted Image

….

Tôi đã đọc thấy rất nhiều giả thuyết khác nhau về vòng Bác Sĩ, nhưng đều là trong làng Tử Vi Việt Nam. Làng Tử Vi Đài Cảng không hề thấy đặt câu hỏi về vòng Bác Sĩ và đều an y hệt như Tử Vi Việt Nam. Tuy nhiên, cần đề rõ lý do họ không đặt câu hỏi là vì gần như chẳng ai ở Đài Loan dùng vòng Bác Sĩ để luận mệnh nữa.

Phần tôi, tôi cho rằng an y hệt cách an của Tử Vi Việt Nam (dương nam âm nữ thuận, âm nam dương nữ nghịch) là đúng. Lý này tôi đã bàn đến trong TVHTKH tập 2.

….

Trong việc lập thuyết có vấn đề optimization. Vì thu thập dữ kiện tốn công, xử dụng dữ kiện cũng tốn công, có khi lại tốn của nữa, nên phải làm sao cho số dữ kiện cần thu nhập càng ít càng tốt. Dĩ nhiên khi thu nhỏ tập hợp dữ kiện thì sai số phải tăng lên, vấn đề chỉ là độ tăng của sai số có chấp nhận được hay không mà thôi.

Thành thử vấn đề không phải là số phận khác nhau hay không mà là số phận khác nhau bao nhiêu? Có bõ công lấy thêm dữ kiện hay không mà thôi.

….

Đồng ý với anh rằng khi xem một lá số ra sai rất có thể là do mình rủi, chưa chắc đã do mình kém.

Nhưng tôi có suy nghĩ thế này: Lá số Tử Vi chỉ là một công cụ hữu hiệu nhưng có giới hạn của nó, như một bản đồ chỉ đường. Khi muốn biết đường nào cần đến thì dùng nó là đủ rồi. Khi cần chi tiết hơn thì phải tham khảo thêm các dữ kiện khác (sự thật ngoài đời, tướng mặt, tuổi cha mẹ v.v…).

Vấn đề là dữ kiện thêm đó có giúp ta đoán đúng hơn không, nếu hơn thì hơn được bao nhiêu. Trong khoa học có luật diminishing return, khi mà công lao quá nhiều, lợi ích không xứng thì chẳng nên bỏ công làm gì. Như vấn đề mà anh đặt ra thì câu hỏi là thêm can chi ngày trong trường hợp nào đoán đúng hơn, và đoán đúng hơn được bao nhiêu, có bõ công không. Đây đều là những vấn nạn lớn của khoa Tử Vi đến nay vẫn chưa có lời giải hệ thống, chỉ thấy các thầy tùy trường hợp mà ra chiêu, như ông Tử Vân có ghi lại một trường hợp ông dùng can ngày để đoán người mất của tìm lại được.

Trở lại vấn đề thêm dữ kiện. Nắm thêm dữ kiện và xử dụng đúng chỗ thì khi đoán Tử Vi xác xuất đúng cao hơn, xác xuất sai thấp đi, thế thôi. Tôi biết một số bạn say mê khoa Tử Vi đọc thế sẽ thất vọng, nhưng thử nhìn ra ngoài đời, khoa kinh tế học chẳng hạn, phải tốn bao nhiêu cơm áo gạo tiền của cha mẹ mới mong lấy được cái bằng tiến sĩ, nhưng có mấy ông bà tiến sĩ đoán đúng tương lai kinh tế? Vậy mà kinh tế vẫn được công nhận là một môn đáng học.

Thành thử cá nhân tôi không quan tâm lắm về việc hai lá số khác ngày mà mọi sao đều y hệt nhau. Nó chỉ là một trường hợp cho ta thấy Tử Vi có giới hạn của nó. Miễn giới hạn đó trong vòng chấp nhận được là đủ rồi.

….

1) Nói Tử Vi dựa trên tinh đẩu là đúng, nhưng tinh đẩu không phải là yếu tố duy nhất.

2) Ai gọi Thái Tuế nhập quái là ếch pha nhái thì tùy họ. Sự thật là chiêu này khi áp dụng vào mọi lá số của ông Trump đều dẫn đến kết luận là bà Clinton phải bị thua dưới tay ông ta trong kỳ bầu cử này. Giá trị của nó như thế nào tôi thấy chẳng cần bàn cãi làm gì.

….

Việc 2 đã trả lời ở trên, và chẳng dính líu gì đến lá Liêm Sát, vì mọi lá số đều dẫn đến cùng kết luận là ông Trump thắng, bà Clinton thua nếu đấu tay đôi.

Tôi không hiểu tại sao bạn lại đưa việc 1 và 3 để kiểm chứng. Tử Vi vốn dựa trên tín hiệu, cái gì phải đặc biệt mới đáng tìm tín hiệu.

Dữ kiện 1: “Trump cười đùa khoe khoang ‘Cái ấy của tôi còn khoẻ lém’” Ông Trump nổi tiếng nói năng thô tục, đến mức tục tĩu. Câu này xem thế còn quá nhẹ so với nhiều câu khác, không có gì đặc biệt thì tìm tín hiệu làm gì?

Dữ kiện 3: Trump hao tài quan tụng (Mất 25 triệu USD giải quyết vụ kiện đại học Trump). Người có 100 mất 1 thì có gì đáng kể. Số tiền $25 triệu mặc dù quá lớn so với người thường, nhưng chính ngay báo Forbes đặt giá trị của ông Trump trên 2.5 tỷ Mỹ kim thì số tiền này đâu có gì đáng kể, thân phận tổng thống tương lai mua chút bình an thế là rẻ chán. (Ngay trong lúc bầu cử sơ bộ tiền túi ông Trump tự nguyện bỏ ra đã đến 50 triệu Mỹ kim rồi).

Còn quan tụng thì người nào mệnh Liêm Kị hãy chuẩn bị chịu họa quan tụng dài dài (Liêm là quan tinh, tù tinh, hóa Kị đủ hiểu rồi). Năm 2016 dĩ nhiên ứng quan tụng vì năm Bính khiến cung mệnh nguyên thủy lại là hạn di và nô của Tuế hóa Kị, sao hóa Kị lại là Liêm Trinh.

….

Kính thưa bác.

Như vậy thì, kể từ lúc mới đầu học tử vi cháu có học rất nhiều từ bác thì bây giờ có thể nói con đường của cháu và bác hiện nay đã tách nhau và đi về hai hướng đối lập nhau, cùng để nhằm làm tăng xác xuất luận đoán chính xác, tối ưu hóa công cụ mà mình sử dụng.

Bác đi về hướng nghiên cứu các cách cục của các phụ tinh để tăng thêm thông tin, còn cháu thì chuyển sang nghiên cứu về cung và tác động của hệ can chi lên lá số, và chỉ sử dụng khoảng 30 sao, cũng là vì sự khác nhau về nhận định chỗ nào có lợi ích để đầu tư, nên cháu chuyển sang đi theo chiều dọc hơn là đi theo chiều ngang.

Khi nào bác có thời gian rảnh, bác làm ơn xem thử thực tiễn cách an vòng bác sĩ xem có đúng hay không. Cháu đang nghiệm lý mà chưa tìm ra.

….

Đọc qua bài luận của anh, trước hết tôi xin chúc mừng anh công lực thăng tiến, bây giờ đã xứng đáng là một nhất lưu cao thủ của làng Tử Vi Việt Nam. Con đường nghiên cứu của tôi dựa trên cái nền là Tử Vi Việt Nam. Mặc dù có cơ hội đọc các sách phi tinh của Đài Loan trong thời gian ở đó và đại khái có thể gọi là “biết xem phi tinh”, tôi nhìn nhận ngay là về cách luận phi tinh anh đã qua mặt tôi rồi. Đúng là hậu lãng thôi tiền lãng. Xin một lần nữa chúc mừng.

Tôi cũng nhận ra là anh dùng cả can chi ngày để luận cách cục (không phải là cách xem tiêu chuẩn của phái phi tinh), cũng là một đường phát triển, hy vọng anh đạt thành quả tốt đẹp.

….

Đó là xem theo lối cổ điển (của Tử Vi VN thôi, vì Đài Cảng không có cách Thanh Long Lưu Hà). Cách xem “có bệnh được thuốc” mặc dù dựa trên lý cũ là “tuyệt xứ phùng sinh”, nhưng là phát kiến tương đối mới, khác hẳn. Các bước như sau:

1) Xem “có bệnh” thuộc loại nghiêm trọng không. Không có bệnh nghiêm trọng thì cứ phối hợp sao xem như bình thường. Nếu “có bệnh” thì nhảy sang bước 2 kế tiếp.

2) Xem phương nào có thuốc chữa. (Chú ý: Tự mình có thuốc chữa là chuyện hiếm, nên phương có thuốc chữa thường không phải là phương của mình).

3) Xem mình có cách nào vận dụng được phương có thuốc chữa hay không? Không được thì hỏng, được thì dễ thành tựu to tát, nhưng phải xem cách được như thế nào để biết mức thành tựu ra sao, có phải khuất tất gì không.

Phép xem này là một “ngón nghề” xuất sắc của nhân tài Tử Bình hoa Lục Đoàn Kiến Nghiệp, truyền nhân của phái “thầy mù” (manh phái). Lý của phép xem này rất rộng nên có thể áp dụng thẳng vào Tử Vi mà không tạo vấn đề gì cả. Tượng ăn cướp và cảnh sát là tôi mượn của ông Đoàn.

….

Anh thử nghĩ kỹ lại đi. Đã phát triển Tử Vi theo lý của phái phi tinh thì các thần sát đều trở thành thứ yếu. Thanh Long, Lưu Hà đều là thần sát. Thậm chí ngay cả Lộc Tồn cũng là thần sát. Nên nếu đã theo lý của phi tinh ngay cả Lộc Tồn cũng phải coi nhẹ. Ông Liễu Vô cư sĩ ngày xưa “ngộ” ra điều này nên cắt bỏ hết thần sát, kể cả Lộc Tồn. Cách xem mà ông LVCS nghĩ ra chính là phép phi tinh tối giản.

Nên anh đừng bận tâm khi thấy người khác coi trọng một số thần sát mà anh coi nhẹ, không có nghĩa họ sai anh đúng hoặc ngược lại. Hai bên đều có lý cả. Phe thần sát phải coi theo thần sát, bỏ thần sát thì xem không chính xác. Phe không thần sát (chẳng hạn phái phi tinh) chẳng nên dùng thần sát, ghép thần sát vào thì xem không chính xác.

Nhưng tại sao có chuyện kỳ cục này. Thưa vì đời là cõi bất toàn và Tử Vi, cũng như mọi khoa bói toán khác, bản chất bất toàn (đây có thể coi là một loại định lý Godel của huyền học). Mỗi hệ suy luận sẽ tìm ra được một số điều đúng, bị lãnh một số điều sai, và đương nhiên có một số bế tắc.

….

Vấn đề ở đây, cháu muốn nói thế này. Khi nghiên cứu các kĩ thuật của tử vi bắc phái phi tinh, thì cháu thấy rằng khi đặt vai trò của phụ tinh đúng mức với vị trí mà nó sinh ra, và đặt lại đúng mức vai trò của cung khí thì độ chính xác thông qua luận giải (đoán quá khứ sắc nét và đề nghị đương số chữa bài) lập tức tăng vọt. Việc luận đoán hạn năm và tháng lúc đó không còn là vấn đề khó khăn nữa.

Tuy nhiên, khi đột phá từ bài toán hạn tháng lên đến hạn ngày và giờ, thì thực sự cháu gặp vấn đề khó khăn lớn, vì bản chất dịch lý của tháng và ngày khác xa nhau. Can chi ngày nó hoạt động hoàn toàn độc lập với số ngày âm lịch, vì một bên là bản chất tự nó, một bên thể hiện mối quan hệ tương hỗ với mặt trăng.

Nếu như không nghiên cứu tử tế, sẽ gặp vấn đề vận ngày 1 và ngày 13 xem giống hệt nhau, ngày mùng 1 gãy chân thì ngày 13 dù đương số đang nằm nhà cũng sẽ gãy chân, đang ngủ thì chân tự gãy làm ba khúc cho ứng hạn!!!

Nếu một người sử dụng thần sát làm trọng, chắc chắn sẽ xảy ra hiện tượng này, dù nghiên cứu tới bạc đầu về việc ghép ghép thần sát, thì cũng vậy, vì các thần sát của tầng tiên thiên đều giống nhau.

Do đó, bất cứ một công phu nào, đột phá được lên cảnh giới xem hạn ngày bắt buộc phải thỏa mãn một trong các điều kiện tối thiểu, đó là hoặc dùng can chi ngày, hoặc sử dụng số ngày khởi từ ngày đông chí/giáp tý. Đây là bài toán cháu tấn công trong vòng 3 năm gần đây.

Mặt khác, theo nguyên lý as above as under, hay dưới dạng tử vi, còn gọi là vận mệnh bất phân, một hiện tượng xảy ra ở tầng vận bắt buộc phải xảy ra ở tầng nguyên thủy hoặc ngược lại, các lý thuyết sử dụng can chi ngày/ vận hành từ đông chí bắt buộc phải xuất hiện một cách tự nhiên.

Muốn xem đúng vận năm, trước hết phải hiểu các sao an theo năm sinh.

Muốn tính đúng vận tháng, phải hiểu được các sao an theo tháng sinh.

Muốn tính đúng vận ngày, phải hiểu các hệ sao an theo ngày sinh, và can chi của ngày sinh.

Muốn tính đúng đến giờ, phải hiểu được hệ sao an theo can và chi giờ sinh.

Đó cũng là điều cháu rất ngạc nhiên, không hiểu mấy ông thái sơn bắc đẩu bên Đài Loan họ sử dụng công phu gì để đột phá vận ngày và giờ, trong khi kĩ thuật can chi và vận hành đông chí theo bác nói thì lại là một lối xem xa lạ kể cả với đài cảng? Bác là người kiến văn quảng bác, mong bác có lời chỉ lối.

Cháu phát hiện ra, một đặc điểm quan trọng trong cách xem của bác, đó là bác cho rằng, Thái Dương cư Ngọ thì thịnh, và thái dương cư Hợi Tý thì suy, và từ đó bình luận về tính chất đắc hãm của tinh đẩu, nhưng cháu thì ngược lại theo quan điểm đấy. Cụ thể hơn, tính đắc hãm của hình thế tinh đẩu là một việc, chẳng có quan hệ gì tới tính cường nhược của tinh đẩu- vốn được xác định thông qua vận hành trên phi vận của lý thuyết cung khí của Tử Vi Nam Phái.

Ví dụ, đại đa số đại gia chính tinh đều hãm địa, còn đại đa số thư kí văn phòng, công nhân khu công nghiệp đều miếu vượng, và nếu như có giải thích rằng “Chính tinh hãm đảo lộc quyền quang vinh” thì sợ rằng không thể hiện được bản chất của lý thuyết.

Cũng lý tương tự như vậy, với cái câu “Dĩ cùng tắc biến” hay “Dĩ cùng tắc tử”, thì vấn đề lại là việc khác. Phải có một lý thuyết đứng đằng sau hiện tượng này.

Cháu tuyệt đối đồng ý với luận điểm của bác. Tuy nhiên, từ đây, nó lại đưa tới hai vấn đề khác nhau, tùy theo cách tiếp cận trọng về cung hay về sao. Thứ nhất nguyên lý cách an của Lộc tồn xuất phát từ phép chuyển bàn của Kỳ Môn Độn Giáp, và từ đó nếu như bác coi nó là tứ hóa thứ năm thì nghiễm nhiên phải hình thành một liên hệ trực tiếp giữa Độn Giáp và Tử Vi Bắc Phái, và do đó kết nối với lý thuyết Sái Minh Hoành.

Đến đoạn này, cháu nghĩ là cháu nên giải thích một chút. Không phải là cháu không dùng thần sát, và cháu nghĩ không phải ông Liễu Vô vất thần sát đi đâu.

Cụ thể hơn, trong vòng 3 năm gần đây, cháu nghiên cứu các phương pháp để thống nhất phép hội sao của tử vi nam phái trên nền lưu cục và phép phi tinh của bắc phái vào làm 1. Khi luận một lá số, lúc đầu tiên khi học cháu sẽ ghép ghép các sao lại theo các cách cục để luận. Tuy nhiên, hiện nay, cháu làm ngược lại, trước hết phải nghiên cứu vận hành của khí, âm dương vận hành ra sao, xem thần tụ tại phương nào, dùng tứ hóa làm dụng thần, sau đó từ đấy dùng lý thuyết cung khí để luận khí, rồi mới dùng tử vi nam phái cách cục các thần sát và phép hội sao trên nền của lưu cục để luận hình, dùng tính đắc hãm để luận cách vận hành.

Nó đối lập với cách luận tử vi Nam Phái thông thường, là nghiên cứu phép hội sao tam phương tứ chính trước rồi từ đó đoán mò ra quan hệ giữa các cung.

Tức là quan hệ của hai cách xem nó giống như kinh tế Vĩ Mô và kinh tế Vi Mô, một đằng chia ra để trị rồi nghiên cứu, một đằng nghiên cứu xong rồi tổng hợp, tuyệt đối không thể tách rời.

Cũng vì vậy, việc cháu gạt bớt một số cách cục ra, đơn giản là vì nó impact nhỏ, và mình chưa hiểu tới nơi tới chốn, chứ không phải là vì tính tương thích hệ thống.

Tôi cũng xin đính chính, đây không hề là “Phép xem mới” như nhiều người nhận định, mà là một lối xem cổ, đã hình thành và gọt dũa hơn 1000 năm. Còn cái gọi là” phép xem mới” là nói tới những cái đã xuất hiện trong vòng 100 năm trở lại đây, ví dụ như các hàng tự sáng tác vòng thái tuế của Thiên Lương, hay tử vi Bửu ĐỈnh là cái chưa trải qua sự gọt dũa tàn khốc của thời gian.

….

Từ lời nhận xét này của bác, cháu đi sau cách tiếp cận của ngài Liễu Vô Cư Sĩ. Tuy nhiên, thay vì cực đoan như ông ấy, cháu sử dụng lại quan điểm về huyền học đã tồn tại ngàn năm, đó là san định lại hệ thống của Tử Vi Nam Phái, phân định lại một cách hệ thống tính cát hung của tinh đẩu và thần sát Nam Phái cho nó tương thích với bắc phái.

Điều này lấy từ cách luận Lục Hào, thông thường người ta gieo quẻ và lấy ngay tượng quẻ để luận cát hung y như tử vi nam phái, thì cháu chọn dụng thần và cường nhược của ngũ hành để luận, rồi sử dụng lý thuyết càn khôn tiêu tức và biến động của âm dương để tính cát hung xem thần tụ tại phương nào, sau đó dựa vào phép biếnhóa của các hào theo thời gian để luận hạn. Từ đấy, ta mới ghép tượng quẻ vào mà luận, kèm theo hệ thống hàng trăm thần sát trong các tài liệu bói dịch kinh điển (không phải theo thiệu vĩ hoa hay tăng san bốc dịch).

Ví dụ, như cách cục Long Hà Kị bác sử dụng coi là cách tốt, là cách có nhiều vận hội mới tốt đẹp. Nhưng, thực sự, nếu như Long hà Kị tại cung tử nữ, gặp cung khí yếu, gia thêm nghịch thủy kị trên nền tha cung hội vòng trường sinh cung khí vượng, cháu sẽ luận ngay, đương số có rất nhiều vận hội mới về tình dục, chơi bời và vì thế vô sinh. Nhưng cách vô sinh đấy, nó khác với cách vô sinh thông thường.

Tương tự, Long Hà Kị, một khi tương giao với Tuyệt Mệnh Kỵ, thì vấn đề là khác, sẽ là cách chết theo kiểu chết do may mắn qua, chết do vận hội tốt đẹp, chết vì vui thú đổi vận.

Ở điểm này, cháu sợ rằng ngài Liễu Vô sau khi lãnh ngộ triết lý của Dụng Thần xong, quay lại Nam Phái thì trở nên lười biếng trong việc san định lại các cách cục vì sợ rằng phải nhìn thấy mâu thuẫn chứ không mạnh dạn xây lại, nên ông ta mới quyết định bỏ sạch đi, dùng khí không dùng hình.

Ngài Tử Vân Tiên Sinh, tất nhiên nhìn thấy điều đấy, nên ngài không đồng ý với chuyện bỏ thần sát, nhưng ngài vẫn chấp nhận ông Liễu Vô chứ không thành ông đi đường ông, tôi đi đường tôi. Lý do đơn giản, ngài Tử Vân vốn đã san định được một phần sự mâu thuẫn giữa Nam và Bắc Phái, nên tất nhiên ngài okie ngay. Còn việc khi hiểu xong cách cát hung của dụng thần trong tử vi, tất nhiên việc ngài Liễu Vô đoán đúng một vài trường hợp ở tầng vận năm, đại vận… là chuyện đơn giản, vì đó là thế mạnh tuyệt đối của phái phi tinh.

….

Điều này không phải lí bất toàn cũng chẳng phải gì kì lạ. Vì lâu nay người xem tử vi bỏ qua cái lí tam tài thiên địa nhân. Lá số tử vi suy cho cùng cũng chỉ để mô tả không gian sống của con người, đối chiếu không gian sẽ có thời gian. Cho nên cần có ít nhất ba yếu tố độc lập để đưa ra một nhận định trong tử vi. Người cổ gọi đó là tam tài: thiên địa nhân.

Nam phái coi trọng “thần sát”, là những yếu tố “cứng” yếu tố “chết” có tác dụng thiết lập môi trường hoàn cảnh. Đặc tính là: tác dụng rộng, về lâu về dài, tuy nhiên cái gì đã thô thì phải thay đổi chậm, thay đổi chậm thì không dùng để xem tiểu vận được. Nói cách khác đây là những yếu tố tĩnh, thuộc tài thiên. Giống như một nhà khoa học, vì mưu sinh phải đi buôn kiếm sống không vợ chửi. Tuy nhiên, theo thời gian, anh ta sẽ bỏ buôn bán về khoa học vì THIÊN của anh ta là khoa học. Nếu các nhà mệnh lý Bắc phái cứ cắm mặt vào mấy năm anh ta đi buôn để xem có phát tài hay không thì không khác gì thầy bói xem voi. Lúc đó thầy mệnh lý Nam phái sẽ phán: anh sớm muộn sẽ quay lại với khoa học.

Bắc phái Đài Cảng phát triển trên cơ sở tứ hóa, và nhu cầu thị trường “chích kim thấy máu” nên buộc phải coi trọng phần động để xem vận. Phần động gồm những sao hàng NHÂN. Sao hàng Nhân là các sao an theo tháng theo giờ hoặc tổ hợp của tháng ngày giờ, như Tả Hữu Xương Khúc chính tinh. Và tứ hóa là sao tiến hóa nhất trong các sao, được nặn ra từ cả bốn yếu tố năm tháng ngày giờ. Cho nên tứ hóa cực động và cực huyền ảo, đáp ứng được nhu cầu “chích kim thấy máu” của thị trường mệnh lý hiện đại.

Bỏ THIÊN hay bỏ NHÂN đều ra thứ tử vi què cụt. Những thứ què cụt chỉ có thể tồn tại trên phim ảnh, ngoài đời thực cần cả chân cả tay mới được.

….

Đúng là ông Tử Vân rất trọng tinh đẩu miếu hãm.

Tôi dĩ nhiên cũng trọng tinh đẩu miếu hãm, nhưng –như anh nói- tôi có khác ông Tử Vân ở chỗ là nếu tinh đẩu hãm mà đắc Lộc hoặc Quyền thì có cơ hội phản cách thành công.

Nghĩ kỹ ra thì khác biệt giữa ông Tử Vân và tôi trên mặt này có thể chỉ là định nghĩa thành đạt một cách khác nhau. Một người lên vài năm rồi xuống với tôi là thành đạt, ông Tử Vân có vẻ không coi như thế.

“Lộc phùng xung phá” thì thường phát trước rồi phá sau, phải xem thêm yếu tố khác để biết khi nào phá.

….

Đại thể đồng ý với anh! Hơn mười năm nay tôi rất cẩn thận khi đặt bút để khỏi bị “bút sa gà chết” không ngờ vẫn có lúc viết vội thành ra ngôn bất tận ý, thậm chí có phần sai ý. Giờ viết lại như sau:

Trước hết, để khỏi hiểu lầm danh từ, xin ghi rõ các định nghĩa mà tôi xử dụng trong bài này:

-Thần Sát: là các sao thuộc can năm và chi năm.

-Phái Thần Sát: cho các thần sát vai trò quyết định. Thậm chí ngay cả tứ hóa cũng chỉ là bốn sao trong hàng thần sát. Cách xem của Tử Vi Việt nam (tối thiểu mấy mươi năm trước đây) thuộc khuynh hướng này, thí dụ rõ ràng nhất là phái Thiên Lương.

-Phái phi tinh: ám chỉ trường phái dùng phi tinh của mọi cung mọi tầng, xem phi tinh là yếu tố quyết định (như anh MikeDo chẳng hạn). Phi tinh là phái thiểu số ở Đài Loan, nhưng nhờ ảnh hưởng của những nhân tài như ông Khuyến học trai chủ mà có tiếng vang.

-Phái phối hợp: Phái phối hợp cũng dùng phi tinh, nhưng giới hạn hơn phái phi tinh (như khi xem hạn chỉ chú trọng phi tinh của hạn mệnh), và vẫn cho thần sát vai trò quan trọng. Đây là phái được đa số các nhà Tử Vi Đài Loan theo.

Cần mở ngoặc là cao thủ Đài Loan Tử Vân trước đây thuộc phái phối hợp, nhưng những sách gần đây của ông khi xem hạn thì xử dụng phi tinh của mọi cung trong tam phương tứ chính (như khi xem hạn thê thì xem hết phi tinh của các cung thê, quan, phúc, di), có thể coi là một chi phái mới của phi tinh.

Như tôi đã trình bày trong TVHTKH 1 và 2, cái lý của Tử Vi khởi từ chính tinh, tứ hóa, và các sao liên hệ; nên muốn nối kết thần sát vào Tử Vi thì phải cho Lộc Tồn một vai trò quan trọng (tương đương với tứ hóa) mới hợp lý. Vấn đề của phái phi tinh (như hiện tại) là phái này hoàn toàn không có một lô gích nào để ghép các thần sát vào. Thành thử dù không cố ý, trong đa số các bài luận số của phái phi tinh các thần sát gần như hoàn toàn vắng bóng. Vì thần sát là những tín hiệu mạnh mẽ đã được các nhà huyền học thiết lập từ rất lâu, tôi cho rằng bỏ thần sát là điểm “bất toàn” của phái phi tinh. Chính vì thấy điểm bất toàn ấy mà mặc dù có nghiên cứu các sách của phái phi tinh và bị hấp dẫn bởi tính nhọn sắc của cách luận mệnh, tôi vẫn chưa chịu theo phái này.

Phái thần sát cũng có khuyết điểm nghiêm trọng, như anh Alex đã nói trên, nên không nhắc lại. Thành thử tôi cho rằng cách xem tối hậu phải có tính phối hợp. Trong các nhân vật thuộc phái phối hợp tôi thấy ông Tử Vân có lý hơn cả nên cố học những cái hay của ông ấy. Chẳng ngờ những sách gần đây của ông lại rất nặng tính “phi tinh” (nhưng khác với cách xem của phái phi tinh). Phải chăng chính ông Tử Vân đã lâm vào bế tắc và đang cố tìm lối ra? Tôi không rõ, và đến bây giờ tôi vẫn chưa tìm ra cách luận Tử Vi tối hậu.

Nhưng tôi vẫn tin rằng cách xem tối hậu phải có tính phối hợp, không thể nào chỉ thuần thần sát hoặc thuần phi tinh.

….

Anh đặt vấn đề rất hay. Vấn đề là làm sao đặt vai trò của phụ tinh đúng mức. Trong lô gích của phái phi tinh (mà anh đang theo), tôi thấy hoàn toàn không có chỗ nào cho các thần sát. Nếu anh giải quyết được vấn đề này thỏa đáng thì có công rất lớn với phái phi tinh (kể cả phi tinh Đài Cảng), và làng Tử Vi nói chung.

….

Đúng thế. Anh đã trình bày một bế tắc lớn của phái thần sát. Do đó không thể nào hoàn toàn theo phái thần sát. Phải phối hợp với cách xem khác (như phái phi tinh chẳng hạn, nhưng phải tìm được cách cho thần sát vào bài toán phi tinh một cách hợp lý).

….

Tôi chưa nghiên cứu vấn đề này nên chỉ gợi ý: Dùng can ngày thì không có gì mâu thuẫn với cái lý của khoa Tử Vi, là một con đường nghiên cứu có thể theo được, mặc dù chưa biết triển vọng thế nào. Dùng số ngày khởi từ đông chí thì tôi e có vấn đề nghiêm trọng, vì đã mâu thuẫn với lý hình thành của khoa Tử Vi.

….

Mặc dù tôi không theo bảng đắc hãm trong các sách, nhưng tôi tin là tính đắc hãm (theo vị trí) quan trọng trong một số trường hợp. Như Tử Vi cư Ngọ thì hẳn nhiên là hơn hẳn Tử Vi cư Tí, Thái Dương cư Ngọ thì hơn hẳn Thái Dương cư Tuất. (Thái Dương cư Hợi thì đặc biệt hơn, vì ở đây cực hãm có thể thành “tuyệt xứ phùng sinh”).

Nhưng theo tôi đắc hãm tự nó không phải là yếu tố định cấp độ thành công. Bà má mi (của cô Kiều) có thể mệnh Tử Vi cư Ngọ, mệnh phụ phu nhân có thể Thiên Đồng hãm cư Tuất.

Ba thí dụ nổi tiếng đã từng làm giới mệnh lý Đài Cảng điên đầu: Tôn Dật Tiên Đồng hãm cư Dậu, Tưởng Giới Thạch Âm hãm cư Thìn, Mao Trạch Đông Tham hãm cư Thân. Ở đây tôi xin ghi nhận tôi phục Đài Cảng ở chỗ khi gặp ba lá số này đa số cao thủ không tránh né mà cố dùng nó làm tài liệu sửa sai cách xem của mình. Có thể tôi bi quan quá chăng, nhưng tôi nghĩ phản ứng đầu tiên của làng Tử Vi VN sẽ là bảo “lá số sai” rồi tìm ngay giờ khác.

….

Anh vừa đưa ra vấn đề đã làm tôi trăn trở rất lâu (xem lại ba thí dụ ở trên). “Chính tinh hãm đáo quyền lộc quang vinh” chỉ là một đáp án đặc biệt cho vấn nạn này. Đáp án lớn hơn dĩ nhiên là “tuyệt xứ phùng sinh”, hoặc dùng theo danh từ của ông Đoàn Kiến Nghiệp (Tử Bình) là “có bệnh được thuốc”.

….

Thưa bác, cháu muốn có hai điểm cần clarify như thế này.

Có ba cách khởi vận khác nhau khi tính vận năm:

1-Phép dùng tiểu vận. Đây là cách xem cổ truyền của Tử Vi Nam Phái.

Tuy nhiên, kỹ thuật này bị cắt gọt đi 50%, cụ thể hơn chỉ có địa chi, còn Thiên Can cung tiểu vận thì đã bị cắt gọt và dấu đi.

Theo bác, ở Đài Loan có môn phái nào công khai lại cách này chưa? Có một anh bạn cháu, đang làm sau TS tại ĐH Thanh Hoa, cũng từng chỉ cho cháu cách này, nhưng hơn 2 năm nay không liên lạc lại được.

2-Phái Phi Tinh Sử dụng CAN của cung, cái mà được khởi ra từ tầng nguyên thủy.

Như bác đề cập, có một số thiên tài như Khuyến Học Trai Chủ, và cháu có bổ sung thêm là ngài Sái Minh Hoành, chưởng môn phái Hoa Sơn có dùng chưởng pháp này.

3-Phái Phối Hợp Sử dụng can của năm sinh để luận. Đây là lý thuyết cổ điển của Tử Vi Nam Phái, gồm ngài Vương Đình Chi, ngài Tử Vân Tiên Sinh và ngài Liễu Vô Cư Sĩ vẫn sử dụng.

Có phải hàm ý của bác, là trước kia ngài Tử Vân sử dụng 3 ở tầng năm, gần đây là sử dụng 2, ở tầng năm. Còn tất nhiên, ở tầng đại vận thì là chuyện dễ hiểu.

….

Cụ thể hơn, cháu bổ sung lại các kĩ thuật ở trong này. Có hai cung hạn, một là cung Lưu Niên, hai là cung Lưu Tuế. Cả hai đều nằm ở một cung là địa chi năm xem, nhưng cách tác động lên lá số khác nhau. Từ đây sinh ra hai học thuyết khác nhau, và sinh ra hai chi phái lớn, một đằng như đã biết là lý thuyết Tử vân, và một đằng là lý thuyết Sái Minh Hoành/Lý Tử Dương/Tố Tâm Lão Nhân.

Theo cháu hiểu, thì phía thứ hai, mới thực sự là chính tông của tử vi bắc phái. Lúc đầu tiên, cháu học qua các lý thuyết của phần thứ nhất nhưng nhìn thấy những yếu điểm lớn của nó. Đến khi hiểu nguyên lý Lộc Tùy Kỵ Tẩu-Lộc Chảy theo Kỵ thì cháu nghiên cứu quan hệ giữa lý thuyết 1 và lý thuyết 2 và dung hợp chúng vào làm một. Tuy nhiên, sự dung hợp này ăn nhập khá tốt chỉ ở mức độ đại vận, năm, và tháng, nhưng tới khi mức độ hạn ngày và giờ thì bắt đầu nảy sinh ra sai số. Hiện nay cháu đang cố nốt đưa tiểu vận vào, nhưng có vẻ như chưa thành công, có thể là vì mình chưa hiểu nguyên lý của tiểu vận tới nơi tới chốn.

Bác bảo cháu rèn luyện tính khiêm tốn để không bị hạn chế, thực sự là lời khuyên chí tình. Thực sự, sau khi hiểu cái lộc chảy và đưa sang kết hợp với các lý thuyết của ngài tử vân, cháu ngồi cười khèng khẹc, nghĩ rằng mình lãnh ngộ được công phu này, thì chưởng lực sẽ mạnh hơn được ngài Tử Vân. Cho tới khi cười xong, bác vào đây và bật mí là ngài tử vân trong mấy năm gần đây đã sử dụng cả Phi tinh pháp, viết cả sách xuất bản, thì thực sự đúng là ông ta đã đi trước rất xa và rất lâu rồi. Mình mà ngồi cười, là toi ngay.

….

Thưa bác, đến đây, chính là điểm chốt giữa sự khác nhau giữa cháu và bác. Bác có thể chiết giải rõ hơn hàm ý của từ “Hơn Hẳn” là gì được không, vì có rất nhiều cách hiểu chữ hơn.

Ít nhất là theo ý hiểu của cháu, mọi cách cục trong lý thuyết thập nhị huyền đồ, cụ thể hơn là 144 cách cục đề bình đẳng nhau, giống như 64 quẻ kinh dịch đều không phân cát hung. Cát hung chỉ xảy ra, khi ứng với một thời nào đấy, hoặc là thời của một hào thông qua hào từ, hoặc thông qua hàm lượng khí của Nhật Nguyệt trong hào động và tĩnh, thông qua sự biến và hóa của các hào. Có thêm thần sát, hay tượng quẻ, cũng không phân được cát hung. Tương tự như vậy, trong tử vi, cũng có hàng loạt lý thuyết xuất hiện để mô tả cường độ, cát hung chứ không đơn giản là tính miếu hãm.

Đẩu số tứ hóa vi dụng thần

Tinh phùng Tứ Hóa, hiện cát hung

Ta lấy ví dụ, hiện tượng đòi nợ, xiết nợ:

1-Chả cần biết thế nào, mình là người đi đòi, thằng khác bị đòi, là cát đã.

Từ đây, người ta phát minh ra tử vi bắc phái.

2-Từ quan điểm của ông thẩm phán, không cần biết ai đòi ai, phải tuân thủ pháp luật. Đằng nào t*o cũng có được xu teng nào đâu.

Tuân thủ pháp luật, gọi là miếu vượng. Dùng đầu gấu xã hội đen,thủ đoạn để đòi, gọi là hãm địa.

Các thần sát được sử dụng ở đây, như là các công cụ để đòi nợ.

Từ đây, người ta phát minh ra tử vi Nam Phái.

3-Cứ cho, mình đi đòi người ta, cứ cho đúng pháp luật đi. Nhưng đòi được bao nhiêu.

Như siêu lừa Huyền Như, nợ 4000 tỷ, đòi bằng cách ra tòa, đúng pháp luật, mình là người đi đòi nhưng có được xu teng nào đâu?

Từ đây, người ta phát minh ra lý thuyết cung khí.

Đến đây, cháu nghĩ rằng, đây chính là điểm khuyết của ngài Tử Vân Tiên SInh. Ông Liễu vô và kinh điển bắc phái như ngài Sái Minh Hoành, Lương Nhược Du mạnh dạn vất sạch công cụ thần sát đi, là để tập trung vào khía cạnh 1. Nhưng, từ đó đến khi đầy đủ bức tranh thì phải có đủ 1,2,3, kể từ tử vân, liễu vô, lương nhược du, sái minh hoành, trương khai quyển….. tất cả đều cố găng phát minh hệ thống, nhưng ông nào mà không đủ 1-2-3 thì hệ thống đó đều khiếm khuyết.

Cháu đọc bài viết của bác, và của ngài Tử Vân, thì thấy ngài ấy trọng tính miễu vượng, bác thì thích hãm địa. Xét ra dù đối lập nhưng cả hai đều không ai sai, nhưng cháu sợ rằng bác và ngài Tử Vân thay vì sử dụng lý thuyết cung khí trên nền phi vận tử vi đẩu số, lại cố gắng giải quyết bài toán nội tại trên nền tử vi Nam Phái thông thường. Cháu sợ rằng sẽ nảy sinh vấn đề.

Kính bác.

….

Tôi đã đọc thấy ông Phan Tử Ngư (thuộc phái phối hợp) dùng tiểu vận và dùng cả cung can, nhưng không nhớ rõ sách nào.

Ông Hồng Lăng (thuộc phái phi tinh giống anh) dùng tiểu vận, và dĩ nhiên dùng cả cung can tiểu vận, sách “Đẩu số bí nghĩa kim luận” (xuất bản lần đầu 1987, lần hai 1993, nxb Vũ Lăng, Đài Bắc, Đài Loan).

….

Nhắc lại, tôi cho rằng:

-Tử Vi cư Ngọ hơn hẳn Tử Vi cư Tí.

-Thái Dương cư Ngọ hơn hẳn Thái Dương cư Tí, Tuất.

Đại thể là dựa trên lý hình thành của 12 cung địa chi (mà tôi đã luận trong TVHTKH1 và MLHTKH). Ngọ là lúc khí dương cực thịnh, chỉ sợ đắc ý vong hình sinh ra đổ ngã. Chi tiết hơn, xét hết mọi cách cục có thể xảy ra thì Tử Vi cư Ngọ nhiều cách tốt hơn Tử Vi cư Tí, Thái Dương cư Ngọ cũng có nhiều cách tốt hơn Thái Dương cư Tí.

….

Tôi không biết ông Sái Minh Hoành nhưng có biết đến ông Khuyến học trai chủ (qua những bài viết của anh tôi thấy thuyết của hai ông này giống nhau quá, chẳng biết có phải người cùng phái không). Trong các ông này tôi đã chọn nghiên cứu theo đường của ông Tử Vân vì thấy có triển vọng đầy đủ nhất. Nhưng giờ thì tôi hơi khựng lại, vì cách xem phi tinh của ông Tử Vân, trong những sách ra gần đây, quá khác so với phái phi tinh.

….

Ông Tử Vân trọng miếu vượng, nhưng không có nghĩa ông ấy bảo chính tinh hãm không phát được, chỉ chê là nếu phát sẽ không bền (phát dã hư hoa). Còn tôi không phải thích hãm, mà nhận ra rằng đa số trường hợp tuyệt xứ phùng sinh chỉ ứng với chính tinh hãm, “Chính tinh hãm đáo Quyền Lộc quang vinh” là một thí dụ. Nghĩ kỹ lại, về vấn đề miếu hãm của chính tinh, khác biệt giữa tôi và ông Tử Vân chỉ là quan điểm cá nhân khác nhau (khi thấy cùng hiện tượng), không phải cách xem.

….

Tôi mở đề mục này hoàn toàn để bàn lá số Liêm Sát, xem có ứng với ông Trump không. Do đó tôi sẽ chỉ nói đến lá số Liêm Sát.

Phần trong ngoặc kép là tôi nhắc lại lời của anh.

“có tin mừng tài lộc”: Đoạn này chỉ là mào đầu, chưa có gì để bàn.

“Đào Hồng Lưu Lộc Tồn hội chiếu về cung Tài nguyên thủy”: Lưu Lộc Tồn cách hai đời, cung tài nguyên thủy dù hội họp ảnh hưởng cũng không đáng kể. Đào Hồng chỉ có nghĩa nhanh chóng, tốt xấu phải xem các sao khác mà định; nhưng cũng vì cách hai đời nên ảnh hưởng trên cung tài nguyên thủy không đáng kể. Tóm lại Đào Hồng lưu Lộc Tồn ảnh hưởng không đáng kể.

“Lưu đại vận tài 65-74 tại cung Mão nhiều cát tinh rực rỡ chầu về”: Hạn tài ở Mão đắc Phủ Tướng triều viên nên nói chung là tốt trong hạn 65-74. Hiềm:

1) Vô chính diệu lại bị Phục Binh quấy nhiễu. Vô chính diệu là thế yếu, vị Phục Binh càng thêm thế yếu vì ta (Phục Binh) như thằng lính quèn phải ẩn núp trong bóng tối, trong khi đối phương ở cung xung là Tướng Quân như ông tướng ngoài ánh sáng diệu vũ dương uy.

2) Hạn chính Không (có vị trí chính Không trong tam hợp) thành bại vô thường.

Vì hai lý 1 và 2 trên đây, mặc dù nói chung hạn này tốt, nhưng vẫn phải coi chừng, có khi mất mát tài chánh.

Cách xem năm của tôi hiện coi Tuế là trọng (yếu tố thiên). Năm Bính Thân 2016, Tuế nhập cung Thân gặp ngay cảnh Lộc Kị đấu tranh (hạn Ất, Cơ hóa Lộc Âm hóa Kị) chính là cảnh đấu tranh khốc liệt (ứng việc tranh cử), nhờ lưu Kị (Liêm) nhập hạn di, tạo cơ hội cho cách Thanh Long Lưu Hà (trong hạn) tung hoành nên thắng cử.

Nhưng năm Bính (Đồng Cơ Xương Liêm) e phải lấy tài (Đồng ở lưu tài) mà cho người ta (Liêm ở lưu nô; nô ứng thuộc hạ, kẻ dưới vế mình). Liêm Kị vốn ứng quan tụng, Tuế lại có song Hao thủ chiếu, nên vì đã thắng cử mà vui vẻ chịu thất thoát tài chánh (trả 25 triệu Mỹ kim).

Lưu ý rằng song Hao chủ yếu ứng việc ông Trump tự bỏ tiền túi ra tranh cử, nhưng cũng ứng việc ông bỏ tiền ra dàn xếp thay vì tiếp tục tranh tụng.

Tóm lại hoàn toàn ứng hợp.

….

Kính thưa bác.

Bây giờ chúng ta sẽ bắt đầu khảo sát chi tiết thế Thái Dương cư Tý và Thái Dương cư Ngọ. Ở đây, bác chiết chiêu dựa vào tính âm dương. Tuy nhiên, có lẽ cháu và bác hiểu về tính âm dương hơi khác nhau. Nếu như cháu thì sẽ tính âm dương trong lá số dựa vào sự vận hành của Nhật và Nguyệt để tương thích với khẩu quyết căn bản của tử vi nay đã trở thành truyền thuyết “Tử Vi tối trọng âm dương”.

1-sinh ra trong khoảng đầu hay cuối tháng mà xét ra sự cường và nhược của các sao thuộc ngũ hành Dương hay Âm.

2-Sinh ra trong khoảng đầu hay cuối của năm. Trong đó, khởi từ ngày đông chí là nơi lạnh nhất, dương khí cực tiểu, và ngày hạ chí, là nơi nóng nhất.

Và từ đây, ta kết nối tử vi đẩu số và tam thức.

Ngược trở lại, khi ta xét thế Thái Dương cư tý và thái dương cư ngọ, thì thế cư ngọ đương số là người cứng rắn, kiêu ngạo tới cùng cực, háo danh nhiều khi tới vô lối. Ngược lại, thái dương cư tý thì mềm mỏng hơn nhiều, tính háo danh cũng có nhưng do có tác dụng của Quý Thủy khiến đương số mềm dẻo, ứng biến uyển chuyển hơn nhiều dù rằng tương tác của các tinh đẩu là như nhau.

Bàn về tính đắc hãm của tinh đẩu, thì một bên trọng về tính ổn định, một bên trọng sự bất ổn. Tử vi, về bản chất là để mô phỏng cuộc sống con người. Thời xưa, chế độ độc tài toàn trị, nên phải trọng tính ổn định. Thời nay, chế độ dân chủ, cứ bốn năm 1 lần là bầu cử tổng thống, ông nào giỏi lắm thì 2 kỳ, các chức vụ khác cũng bầu cử theo phe cánh. Chính vì vậy, mô hình ổn định sẽ khó phù hợp với mô hình lý số hiện đại, và thậm chí rất khó đạt được danh vọng cao, vì danh vọng cao bao giờ cũng là mục tiêu cạnh tranh bầu cử nên phải bất ổn mới có cơ hội.

Từ đây, ta giải thích được câu phú “Chính tinh hãm Lộc quyền đảo quang vinh” bản chất là tinh đẩu bất ổn mà được cát hóa theo nghĩa nào đó thì phù hợp với thời đại hơn nhiều. Nó cũng phù hợp với quan điểm của ngài Tử Vân, nhưng sẽ tốt với những trường hợp những vị trí cần sự ổn định.

Vấn đề ở đây, cháu sẽ không nói “đảo lộc quyền” một cách như vậy, vì lý do hóa lộc bay vào trên phi vận, nhưng gặp lộc đảo hoặc bay xuất sang cung đối gặp tự hóa kị thì tác họa sẽ chả có đảo quang vinh gì hết, mà là “Chính tinh hãm lộc quyền đảo bàn thờ ăn chuối”.

….

Tôi xét câu phú này khác hẳn anh (hiệu Thiếu Dương nên đoán là anh).

Trước hết, như anh Ngọa Long đã lưu ý trong message rằng câu phú này là câu đầu của hai câu đối trong Hoàng Kim phú, tôi cắt dán lại như sau đây:

Thiên Phủ tối kỵ Không tinh: nhi ngộ Thanh Long phản vi cát tượng,

Tử Vi tu cần Tam hóa: nhược phùng Tứ sát phong bãi hà hoa.”

Từ cách đặt câu đối, câu 1 dịch sát nghĩa là “Phủ tối kị sao Không nhưng, trái lại, (Phủ) ngộ Thanh Long là tượng tốt”. Bất luận phần 2 của câu này có giả sử Phủ gặp sao Không hay không, ý chính vẫn là “Phủ ngộ Thanh Long là tượng tốt”.

Vì chữ Hán tối nghĩa, xin phân câu 1 làm 2 trường hợp Phủ ngộ Thanh Long:

1) Phủ không gặp sao tối kị (Không tinh) mà chỉ gặp Thanh Long: Vì “cát tượng” không phải là “cũng tốt” mà là “tốt”, nên phải giải nghĩa Thiên Phủ ngộ Thanh Long là cách tốt (đối lại trường hợp Tử Vi gặp tam hóa là cách tốt).

2) Phủ gặp sao tối kị (Không tinh) nhưng ngộ Thanh Long: Vì “cát tượng” là nghĩa là tượng tốt, nên không thể giải thích Thanh Long “kiểu như thuốc chữa, mà đã chữa thì lành cũng không bằng nguyên thể” mà phải giải thích là “gặp Thanh Long thì ngược lại trở thành tốt”, tức là chẳng những không xấu mà lại tốt.

Mà muốn Phủ ngộ Thanh Long tốt đến như thế (“Thiên Phủ Thanh Long” đối lại với “Tử Vi tam hóa”) thì Thanh Long không thể nào đóng vai trò nhỏ được.

Tôi cũng xin thêm rằng theo lý thì không thể nào có chuyện một sao nhỏ biến vải thành gấm, hoặc gấm thành rẻ rách được. Chỉ là người trước hoặc không biết cách nào diễn tả mạch lạc hoặc cố ý dấu nghề, đời sau bế tắc, chẳng hiểu vì sao thành cách nên biện hộ hàm hồ thế thôi.

….

Anh hỏi thế thì ông Trump sẽ trả lời là đúng, vì phải cực nhọc khổ ải khi lớn lên trong kỷ luật khắc kỷ của trường thiếu sinh quân.

Nhưng anh bảo “Liêm-Sát-Hình-Kị là cách cục hình tù, không thể phá vỡ nó” thì chỉ đúng nửa đầu, tức là từ đó ta khẳng định ngay lá số này “có bệnh” (hiểu ngầm là có bệnh nghiêm trọng) cái đã rồi tính sau.

Có bệnh không thuốc thì chết (cùng tắc tử), có bệnh được thuốc thì như kẻ được cải tử hoàn sinh, chính là “cùng tắc biến”, dịch lý dạy dễ có cách to!

Đó là cách “có bệnh được thuốc” mà tôi đang xiển dương.

….

Cả hai “cách” này đều là luận theo tượng cả,

Tượng 1: Thanh Long ứng “nhiều nước” (rồng xanh dĩ nhiên phun rất nhiều nước), Lưu Hà ứng nước sông (thực ra ý nguyên thủy là ráng trời), Kị là sao xấu, lại cũng ứng nước (thủy) nên phải coi chừng nạn sông nước (chết đuối).

Tượng 2: Thanh Long có tượng là con rồng, Lưu Hà có tượng là ráng trời (chứa nước ẩm), hóa Kị là mây ngũ sắc. Đây ví như con rồng bay nhảy trong đám ráng trời, có mây ngũ sắc chầu một bên, tức là tới thời bay nhảy rồi. Đi xa là tốt vậy.

Vấn đề là tượng chẳng có nghĩa gì cả, cho đến khi ta biết nó có xảy ra hay không. Và biết nó có xảy ra hay không mới là vấn đề lớn của khoa Tử Vi!

Ngắn gọn, “coi chừng đường sông nước” hoặc “có cơ hội đi xa” đều là những câu trà dư tửu hậu hay hay, người nghe gật gù thích thích. Nhưng chỉ thế thôi. Muốn thực sự đoán thì phải dựa vào các mấu chốt khác.

….

Quan điểm của tôi về Tử Vi Tượng Học của bác Indochine.

Tôi rất kính trọng bác Indochine, và rõ ràng bác ấy là một cao thủ của tử vi nam phái. Tuy nhiên, như tôi khảo sát, rất nhiều sao trong tử vi nam phái đã bị an sai, nên tôi không đặt vào đó quá nhiều niềm tin.

Kỹ thuật Tử vi tượng học của bác ấy có thể rất siêu đẳng, nhưng tôi không muốn mình học, lý do là nó quá khó để học.

Tôi nhìn bác ấy, giống như là một xạ thủ đại tài, một kiếm sĩ tài năng kiểu Lệnh Hồ Xung với đệ nhất kiếm thuật, và dành cho bác ấy sự kính trọng cao nhất, ngang tầm với bác sỹ Tôn Thất Tùng với bàn tay tài hoa đã cứu chữa bao nhiêu người nhờ phương pháp cắt gan của ông.

Tuy nhiên, tôi là người trẻ, và tôi lựa chọn phương án khác. Tôi không học phương pháp cắt gan của ông BS Tùng, lý do là tôi vụng tay. Tôi cũng không muốn mất thời gian đi vào sự thiên biến vạn hóa của tử vi tượng học, vì mình không có khả năng nhanh nhạy như vậy, thà là cứ như Tiêu Phong quất chưởng, không cần biết thiên hạ ra sao, biến chiêu gì, mình dùng lực phá xảo, dùng đúng 2 sao đánh khắp nơi như ông Liễu Vô Cư Sĩ là được.

Cụ KimHac tu luyện 40 năm mới thành cao thủ, mình mà đi theo, copy nguyên văn, thì chắc tua lại nguyên văn 40 năm, thậm chí còn lâu hơn thành 80 năm khi tư duy mình không tương thích.

Ngoài ra, nó là kĩ thuật không thể nhân bản trên diện rộng, vì nó phụ thuộc quá nhiều vào bàn tay của người nghệ sĩ.

Thà mình đi đường khác, vài năm là thành tựu còn tốt hơn nhiều. Thay vì luyện tập cả đời trở thành kiếm thủ đệ nhất, ta tìm cách tậu cái máy bay B52, rồi không cần làm gì, thao tác của mình giảm thiểu chỉ còn ấn nút Enter sau khi chọn mục ném bom rải thảm. Thế là xong, có thể không đẹp bằng, nhưng đơn giản, gọn lẹ.

Nói như thế, để đề nghị Uchiha đừng có mang các đoạn bình một hai cách cục của cụ Indochine vào đây, gây mất đoàn kết, cũng như sai sót ý của cụ khi cắt gọt cách cục. Đã là không cùng đạo, không cùng phương pháp luận thì không thể dùng cái nọ để phân định cái kia, không thể dùng độc cô cửu kiếm chém nhau với B52.

Mà độc cô cửu kiếm và B52 chém nhau, cái nào thắng nhỉ? Có vẻ khó.

….

Tôi đồng ý rằng cặp Âm Dương đặc biệt hơn các sao khác nên thời điểm ra đời có ảnh hưởng đến tính miếu vượng lợi hãm. Nhưng tôi cho rằng đây chỉ là yếu tố thứ yếu, dưới cấp cung vị.

(Trong làng Tử Vi Đài Cảng đã có khá nhiều nhà nghiên cứu Tử Vi -khởi từ gốc Tử Bình- cố ghép thời điểm ra đời, chủ yếu là tháng sinh, vào tính miếu vượng lợi hãm của các sao. Ông Tử Vân –tôi đoán là dựa theo kinh nghiệm xem số- đã lên tiếng đả phá thuyết này trong một bài luận số. Ông cho rằng ảnh hưởng của thời điểm sinh, nếu có, chỉ có tính “thêm vào” mà không có tính quyết định. Tôi cũng chủ trương như thế, nhưng dựa trên lý luận. Tôi cho rằng Tử Vi là một loại toán transformation, mọi yếu tố dính líu đến năm tháng ngày giờ đều đã được chuyển vào phương vị địa bàn hết cả. Cho dù là bài toán transformation này không toàn hảo, thì các yếu tố dính líu đến tiết khí, mùa màng v.v… cũng chỉ còn vai trò thứ yếu thôi).

Thưa một thí dụ cho dễ hiểu: Người A sinh giờ Ngọ, Nhật cư Tí, người B sinh giờ Hợi Nhật cư Ngọ; tôi coi người B được Nhật miếu, người A bị Nhật hãm.

….

Lưu Lộc Tồn ảnh hưởng lưu niên chứ sao không?

Quy luật xem sao lưu, theo tôi, là sao lưu phải không có liên hệ phương vị tự nhiên với cung cần xem. Lộc Kình Đà an theo can, mà cung lưu niên thuộc chi, nên không có cộng hưởng phương vị tự nhiên, thành thử xem được. Trái lại các sao lưu thuộc chi như lưu Đào lưu Hồng lưu Hỉ v.v… không thể dùng để xem lưu niên được vì vị trí đã cố định rồi. (Dĩ nhiên cung lưu niên vẫn chịu ảnh hưởng của Đào Hồng Hỉ nguyên thủy).

….

Tôi phân sao thành Thiên Địa Nhân, vòng Bác Sĩ thuộc tài Thiên nên cực kỳ quan trọng. Theo cách xem này (khác với cách hiện hành nhưng lại có điểm phù hợp với vài cách trong sách Vân Đằng Thái Thứ Lang) các sao trong vòng Bác Sĩ không gì khác hơn là 12 phương vị mạnh yếu khác nhau. Thanh Long như người có tài ở sai chỗ nên chẳng ai cần đến (thành thử cần gặp nghịch cảnh để có cơ hội trổ tài). Xung Thanh Long là Bệnh Phù ứng với kẻ từng tung hoành ngang dọc nhưng đã hết thời (có tiếng mà hết miếng), thành thử không thể thay thế Thanh Long được.

….

Kính thưa bác,

cháu rất xin lỗi bác, nhưng đoạn này cháu xin phép chỉ đồng ý với bác 50% vấn đề. Cụ thể hơn, cháu đồng ý là sao lưu không được có liên hệ phương vị tự nhiên theo tài địa, nhưng không chỉ có vậy, chúng ta cần phải xét tới lý vẹn toàn của tài Nhân.

Cụ thể hơn, các hệ sao Kình Đà Lộc tồn của năm cùng vòng lưu bác sĩ tác động lên tầng lưu niên, nếu xét nó làm trọng, thì sẽ sinh ra tình trạng tất cả mọi người năm nay đều như nhau, theo nghĩa năm nay năm bính thân, lộc tồn bay vào cung Tỵ là cung lưu tử nữ của lưu niên, lưu kình rơi vào lưu phu thê, lưu đà rơi vào lưu tài bạch. Vòng lưu bác sĩ cũng không ngoại lệ.

Vậy mình không thể quyết đoán tất cả mọi người năm nay đều gặp cảnh vợ chồng đánh nhau được. Đó cũng là lý do tứ hóa vì dựa vào chính tinh mà an, nên hội đủ tam tài, còn kình đà lộc tồn thì không. Điều này cấu thành nên điểm bất toàn của lý thuyết.

Tuy nhiên, vấn đề có thể giải quyết nếu chúng ta sử dụng lý thuyết tử vi của Hoa Siơn Bắc Phái, đem các sao này tác động lên tầng đại vận để hội đủ tam tài.

Kính bác.

….

Chú ý rằng ở trên tôi nói đến cách xem dùng lưu Tuế (như đa số Đài Cảng), mà không nói đến cách xem dùng lưu niên (như Việt Nam).

Theo lưu Tuế mà dùng lưu Lộc Tồn Kình Đà thì tất cả mọi người trên địa cầu năm nay –Bính Thân- đều có Đà tam hợp lưu mệnh, Kình ở lưu phu thê v.v… thấy ngay là không có lý.

Theo lưu niên thì mọi người đều ở thế xung cung Tuế, nhưng tối thiểu được phân làm ba trường hợp cho nam (Thìn Tuất Sửu Mùi ở Dần, Tí Ngọ Mão Dậu ở Ngọ, Dần Thân Tị Hợi ở Tuất), nữ càng nhiều trường hợp hơn nữa, nên tín hiệu của Lộc Kình Đà khả dĩ có ảnh hưởng. Nhưng –theo tôi- vẫn không nên phối hợp với các sao lưu thuộc can chi vì lưu niên chẳng bao giờ gặp các sao lưu Đào Hồng Hỉ Thiên Không Kiếp Sát v.v… và luôn luôn có cùng lý âm dương nên có thể gặp các sao lưu Tuế, lưu Tang, lưu Điếu v.v…

Ghi chú thêm rằng vài nhà nghiên cứu dùng sao lưu ở Đài Cảng (như ông Khuyến học trai chủ, phái phi tinh) mặc dù theo lưu Tuế vẫn xét lưu Lộc Tồn Kình Đà. Họ xem chúng quan trọng hay không thì tôi không thể xác quyết qua vài lá số đã đọc qua.

….

Sự thật như tôi đã nói là cao thủ Khuyến học trai chủ của phái phi tinh vẫn cho Lộc Tồn Kình Đà tác dụng với lưu Tuế. Ông này dẫn chứng bằng lá số thật lại kinh nghiệm lâu năm nên tôi không dám gạt qua một bên. Nhưng tôi cho rằng:

-Tác dụng của lưu Lộc Tồn Kình Đà trên lưu Tuế mạnh nhất nếu cộng hưởng phương vị với Lộc Tồn Kình Đà nguyên thủy.

-Nếu không có cộng hưởng với Lộc Tồn Kình Đà nguyên thủy (như kể trên) thì chỉ coi là yếu tố “giọt nước tràn ly”, tức là phải xem các yếu tố khác là chính.

Quan hệ ngũ hành Mệnh Cục trung Tử Vi

(Bài viết của Atmao75)

Ngũ hành Mệnh: Chính là ngũ hành nạp âm của năm sinh

Ngũ hành Cục: là ngũ hành nạp âm của cung an mệnh.

Ngũ hành nạp âm là một phát kiến lý thú của phương Đông. Nó đã kết hợp ngũ hành thiên can (được coi như khí – biểu trưng cho vật chất, không gian) với địa chi (biểu trưng cho thời gian).

Quay lại quan hệ Mệnh-Cục:

Mệnh là ngũ hành nạp âm của năm sinh nên nếu không xét tính âm dương thì hai năm chung một ngũ hành mệnh.

Ngũ hành cục là ngũ hành nạp âm của cung an mệnh, do vậy nó liên quan chặt chẽ hơn với một cá nhân được sinh ra do liên quan đến thiên can năm sinh, địa chi năm sinh, tháng sinh và giờ sinh.

Bây giờ xét đến quan hệ ngũ hành Mệnh và ngũ hành Cục:

Ta có thể nói rằng Cục đại diện cho tính cá nhân nhiều hơn Mệnh (do được cá biệt hóa bằng năm sinh (thiên can, địa chi), tháng sinh (1-12) và giờ sinh. Vậy trong mối quan hệ Cục Mệnh thì cái gì là môi trường cho cái gì hình thành và phát triển từ đó sẽ dẫn đến quy luật sinh khắc tốt xấu giữa hai thực thể này.

Có nhiều sách nói đến quan hệ ngũ hành Cục – Mệnh, nhưng tóm lại đều dẫn ra hai kết luận trái ngược nhau như sau:

1. Cục sinh Mệnh thì tốt nhất, từ đó suy ra các trường hợp sinh, khắc Cục-Mệnh khác. Cơ sở của kết luận này là cho rằng Cung mệnh là môi trường cho Mệnh phát triển, do đó phải sinh cho Mệnh mới tốt. Còn được Mệnh sinh thì mệnh không được bồi bổ, do đó bị hao tán. Kết luận này dựa trên việc coi trọng năm sinh là yếu tố chính trong số mệnh.

2. Mệnh sinh Cục thì tốt nhất. Cơ sở của kết luận này là cho rằng Cục được xác định bằng những yếu tố mang tính cá biệt cho từng đối tượng được xét số mệnh nên phải được Mệnh là ngũ hành nạp âm sủa năm sinh sinh cho là tốt nhất.

Vậy kết luận nào là hợp lý?????

..

Bây giờ xét quan hệ Mệnh, Cục, Sao thủ mệnh

– Truyền thống thì cho rằng Mệnh đại diện cho đương số nên Mệnh sinh Cục thì tốt, từ đó triển khai ra.

– Sau đó xét đến quan hệ Mệnh và Sao thủ mệnh (cao cấp hơn nữa là sao Bản mệnh, nghĩa là đương số ăn vào sao này, sao này quyết định tính cách, vận hạn, phúc phần của đương số).

– Tuy vậy, điều này cho ta nhiều nghi vấn. Việc xét Mệnh (theo ngũ hành nạp âm năm sinh) thì rất khó để cá biệt hóa giữa người này với người kia, nghĩa là rất nhiều người sinh cùng một năm – có chung Mệnh. Nếu ta xét Cục thì tính cá biệt sẽ cao hơn (5 cục cho một Mệnh).

– Xét quan hệ Mệnh Cục Sao Thủ mệnh, nếu lấy mô hình Thiên-Địa-Nhân của người xưa thì Mệnh ứng với Thiên mang tính bao quát, toàn thể chung cho nhiều người (mọi người đều sống trong vũ trụ và có chung một vũ trụ – Thiên), mô hình tương ứng trong Tử vi chính là Mệnh (nhiều người chung một Mệnh).

– Khi xét đến Cục, là ngũ hành nạp âm của cung an Mệnh. Nếu xét sự tương ứng với vũ trụ thì cung an mệnh chính là Trái đất, nơi mọi người sinh sống. Nếu dùng mô hình Thiên-Địa-Nhân ta có thể coi Cục tương ứng với Địa.

– Phần còn lại là Nhân chính là sao thủ Mệnh.

Khi đã chấp nhận mô hình Thiên-Địa-Nhân ~ Mệnh-Cục-Sao thủ mệnh thì sẽ có một số kết luận sau dựa trên thuyết Âm dương-Ngũ hành:

– Quan hệ tương sinh là tốt. Tốt nhất là Thiên sinh Địa, Địa sinh Nhân. Đúng theo quy luật tự nhiên

– Quan hệ hòa (cùng hành) cũng tốt. Không hỗ trợ cũng không hại nhau. Đây là trường hợp ổn định nhất, dễ đạt trung dung.

– Trường hợp khắc thì Thiên khắc Địa, Địa khắc nhân là tệ nhất.

Nếu mô hình này đúng thì cho thấy rằng nếu mệnh tương sinh với Cục và chính tinh thì cá nhân có thiên thời, địa lợi, do đó thuận lợi cho mọi việc. Ngược lại, bị khắc thì phải Nhân định thắng Thiên (chẳng ai nói nhân định thắng Địa cả. Muốn thắng Địa chắc phải nghiên cứu Phong thủy.) Do vậy những ai có cá tính mạnh mẽ (sao thủ mệnh sát tinh, hãm càng tốt) thường lại hay muốn nhân định thắng thiên.

..

Hoàn toàn đúng! Thuyết tvn cũng có quan điểm tương tự. Đối với cá nhân con người,tức đ/s thì Thiên mệnh (nạp âm ), biểu hiện qua hai vòng Lộc Tồn và Thái Tuế là Tài Thiên. Cục, biểu hiên qua Vòng Tràng sinh là Tài Địa. Chính tinh thủ mệnh,biểu hiện qua vòng Chính tinh là Tài Nhân.

Mô hình tam tài này là tổng quát và đúng đắn nhất!

Vậy mỗi con người về thể xác và tinh thần có thể coi như có tam tài,tam LỚP.

Và tương quan giữa các Tài các Lớp không đơn giản như thế này:

Mỗi cá nhân con người là sự đồng điệu của tam tài,tam lớp!

Khi hoàn cảnh bên ngoài phát sinh sinh hay cùng ngũ hành với Tài Thiên của ta thì ta nói đắc Thiên thời,với Tài Địa của ta thì ta có Địa Lợi,với Tài nhân của ta thì ta có Nhân Hòa.Và ngược lại.

vài dòng chia sẻ.

tvn

Việc hãm của chính tinh là rất cần thiết trong trường hợp Mệnh khắc sao thủ mệnh. Điều này cho thấy cá nhân dám đứng lên chống lại số phận (còn nếu chính tinh đắc địa thì thuận lợi rồi, đâu còn động lực để đấu tranh với ngoại cảnh). Tuy nhiên mấy ai nhân định thắng thiên đây? Người thắng sẽ làm quan to (thành công rực rỡ)

Mệnh tọa cường cung, tế sát chế hóa chi lý

(Bài viết Whitebear, Atmao75, ThienA)

Câu này hiểu rốt ráo như thế nào?

Mệnh đóng vào cường cung là cường theo ngũ hành địa chi cung viên hay cường theo ngũ hành cục?

Nếu mệnh không đóng cường cung thì có cần xem kỹ lẽ chế hóa không?

Quả là nan giải!

..

Câu hỏi rất hay. Cũng vừa hay, tôi cũng có quan tâm và đang thực hiện việc bình chú lại các câu phú quan trọng trong toàn thư.

1-Trước hết, việc đầu tiên chúng ta phải đặt ra, đó là mối quan hệ của Cục, Tinh Đẩu và Mệnh. Các đối tượng này, dựa trên quan hệ Mệnh Cục phân ly hay Mệnh cục kết hợp, mỗi cái đưa tới một trường phái tử vi nam phái khác nhau.

2-Trên quan điểm kết hợp phi hóa bắc phái và phép hội sao nam phái trên nền lưu cục, tôi cho rằng câu phú trên đúng nhưng chưa đầy đủ, theo nghĩa nên bổ sung thành

Mệnh tọa cường cung, tế sát chế hóa phi tinh chi lý

Tức là, đối với cường cung, phải khảo sát cả tương tác phi tinh lẫn tương tác tinh đẩu một cách cẩn thận.

Lý do, khi một đối tượng tổng quát (bao gồm mệnh) ngụ tại một cường cung đủ mạnh, thì tương tác của nó đối với các đối tượng khác sẽ rất nhạy cảm. Chính vì thế, một sát tinh không được chế hóa, hoặc một phi tinh định hướng cách cục sai hướng, sẽ đưa tới sự sai khác về kết quả rất lớn.

3-Cường nhược của Tứ hóa, theo lý thuyết chính huyền sơn nhân, dựa trên nền tảng của cục.

Trên topic Cục, báo HoaAn có nói Tọa là vị trí của Đế tọa, như vậy Mệnh Tọa Cường cung có thể hiểu là phải xét Mệnh, Cung có sao Tử Vi và Các cường cung như Phúc, Tài, Quan…???

..

Hay.

Đúng là tọa, còn có thể được hiểu là đế tọa.

Và thực sự, sử dụng ngôi tử vi định cường nhược cho tài nhân thông qua phi hóa bắc phái cũng hoàn toàn không sai.

..

Tuy nhiên cũng có người hiểu rằng, khi xem vấn đề gì cần định cung trọng điểm (cũng có thể gọi là cường cung) sau đó là dùng vế thứ 2.

Cách hiểu 1: Mệnh, Tọa, Cường cung hoặc Cách hiểu 2: Tìm cung trọng điểm!

Không hiểu thực sự ý tác giả là gì?

..

Tinh Lâm miếu vượng, tái quan sinh khắc chi cơ.

Vậy thử hỏi “tinh lâm nhàn hãm” thì quan cái gì?

Sinh khắc chi cơ ở đây là sinh khắc ntn? Sinh khắc ngũ hành địa chi cung? Ngũ hành cục cung? Ngũ hành năm sinh theo chi? Ngũ hành cục?

– Tinh lâm miếu vượng, tái quan sinh khắc chi cơ.

Đắc hãm tinh đẩu–>ngũ hành

Mệnh tọa cường cung, tế sát chế hóa chi lý.

ngũ hành—>Đắc hãm+ tính lý tinh đẩu

Vậy đây là tương tác của lý thuyết cung khí và lý thuyết cách cục.

..

– Tinh lâm miếu vượng, tái quan sinh khắc chi cơ.

Mệnh tọa cường cung, tế sát chế hóa chi lý.

Nếu tách hai câu này ra, thì còn có thể hiểu lầm cường cung là cung trọng điểm; Hay tọa là đế tọa. Nhưng khi hai câu đi cạnh nhau, thì ý nghĩa của nó trở nên rất rõ ràng.

Khi mệnh là cường cung, thì cung nhị hợp sẽ là nhược cung và ngược lại. Cường hay nhược chẳng phải do Đế tọa hay tinh đẩu.

Sát khí đi cùng cường cung mới thực sát. Sát tinh đi cùng nhược cung như nước động trên mặt, họa đến chóng qua, hư nhiều hơn thực.

Họa lớn là sát khí nằm cường cung. Cải cách kiểu không kiếp đóng cường cung sẽ triệt để và quyết liệt vì đi tận gốc rễ. Không kiếp hay sát khí đi cùng nhược cung, cách mạng từ ngoại vào nội, nhiều khi chỉ động tới da thịt, không tới cốt tủy.

Tương tự với cách dụng hóa khí, hóa khí cường cung như đi tận tủy cốt, hóa khí nhược cung nhiều khi hời hợt, giả cách.

Chính vì mất gốc cường nhược nên tử vi dễ kiểu 50/50 khi cân họa phúc.

Có những ghi chú hiện hiện giữa lá số tử vi, chẳng qua hậu học không thèm dùng tới thôi bạn ah, trong đó cường cung/ nhược cung là 1 trong các số đó

Đả thông được mảng này sẽ phân tách rõ địa bàn, nhị hợp ( nhị hợp địa bàn và nhị hợp tinh đẩu), và nguyên lý thăng giáng của khá nhiều tinh đẩu.

..

Cái này dùng xem tiểu hạn 1 năm thấy ngay tinh đẩu tương tác thật giả, nên mỗi lá số có cả trăm sự kiện tinh tế để xem, mỗi sự kiện tách thành 2 lớp nữa.

Còn về lý thuyết thì chứng minh không khó, vì các nguyên lý rời rạc đã có, nhưng không được khái quát hóa cho cả chuỗi hệ thống nên không thể nhận ra. Tôi chỉ nhận ra hệ thống này vài năm trước khi xem tiểu vận, nhị hợp, hóa khí đả thông nhị hợp tinh đẩu khi xem vận.

Ví như Nhờ kỹ thuật đơn giản này, ta biết năm nay Bính Liêm kỵ và Thiên đồng hóa lộc, khi nào cây thối tại ngọn, hay gieo hạt phân tán tận gốc. Cái này quyết định cơ hội thành bại, xu hướng tìm kiếm cơ hội phát triển, hay củng cố hệ thống từ đâu.

Thường chỉ ứng dụng nhiều cho quản trị cá nhân, hay hệ thống do cá nhân quản trị, không thích thú lắm để bói toán

..

Có vẻ như ThienA đang dùng Dịch lâm của Tiêu Diên Thọ đời Hán vào luận tam hợp- tam hội trong xem hạn tử vi.

Tam bàn thiên địa nhân

(Bài viết Brian, tigerstock68)

Xem niên hạn có nhiều trường phái xem lưu cung khác nhau, nhưng thông thường là kết hợp cả ba cung lưu niên và các lưu cung tương ứng

Nhiều tác giả chỉ xét Tiểu hạn, còn tất cả các cung khác cố định, trong khi nhiều tác giả khác sử dụng các phép lưu cung sau:

1-Lưu Niên Đại Vận, được coi là lưu mệnh, và sau đó lưu thêm tất cả các cung còn lại, bởi Tiến Sĩ Vuivui, còn gọi là Nhân Bàn. Theo đó, đây là cung nói về “kết quả của năm đó”.

2- An theo Tiểu Hạn được coi là Lưu Mệnh, và qua đó an Lưu Phụ, Lưu Thê.. còn được gọi là Thiên Bàn. Có thể nói, đây là nghiên cứu con người, là diễn tiến cho bản thân. (Tuy nhiên, rất nhiều học giả phản đối cách xem lưu cung theo cách an tiểu hạn, dù rằng chính cung tiểu hạn vẫn được áp dụng.)

3-Cung An Lưu Thái Tuế, được coi là lưu mệnh, sau đó an ra các lưu cung khác. Người ta còn gọi là Địa Bàn vì cung cố định. Điển hình nhất của trường phái này là phái Tử Vân của Đài Loan. Có thể nói, đây là nghiên cứu cách trời đất ưu đãi ta, xem những biến chuyển cực đoan của vận mệnh, vì thái tuế có nghĩa là trời.

Kết hợp các trường phái lưu cung thì:

Thiên bàn – Lưu Niên Đại Vận > kết quả năm

Nhân bàn – Lưu Tiểu Hạn > diễn tiến năm

Địa bàn – Lưu Thái tuế > thời thế ( trời đất ưu đãi )

..

Nếu việc kết hợp ba cách xem niên vận ( vận 1 năm ) ứng với nghiệm lý thực tế:

Địa bàn ( Cung Lưu Thái tuế ): thời thế, hoàn cảnh

Nhân bàn ( Cung Tiểu hạn ): diễn biến vận hạn ( ứng xử bản thân )

Thiên bàn ( Cung Lưu Đại vận): ứng kết quả

Thì ý nghĩa Thiên bàn – Địa bàn – Nhân bàn ( an theo lá số nguyên thủy cũng tương tự)

1. Thiên bàn ( lá số nguyên thủy ): cho biết sơ bộ cuộc đời

2. Địa bàn ( Cung mệnh An tại Thân ): cho biết thời thế, hoàn cảnh

3. Nhân bàn ( Cung mệnh An tại Phúc ): diễn biến, ứng xử của đương số

Trang 98 Tử vi đấu số toàn thư- Tập 1 ( Nhà xuất bản Thời đại ) viết

“Thiên Bàn: Là sơ đồ sao Tử vi được sắp xếp căn cứ vào ngũ hành nạp âm của cung an Mệnh, đây chính là loại lá số chủ yếu trong mệnh lý Tử vi Đẩu số, thể hiện các thông tin về tính cách, dung mạo, sự nghiệp, tài vận, hôn nhân, phú quý, họa phúc, yểu thọ trong một đời người cùng các điềm triệu tiên thiên về lục thân như cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái.

Nhân bàn: Đây là sơ đồ động thái về sự biến hóa của các vận hạn như đại hạn, tiểu hạn, lưu niên, lưu nguyệt, lưu nhật. Nhân bàn phản ánh các thăng trầm trong các giai đoạn của đời người.

Địa bàn: Là sơ đồ bố cục sao căn cứ vào ngũ hành nạp âm của cung Thân. Địa bàn thể hiện các thông tin mang tính tiên thiên, đồng thời phản ánh được về căn khí tính tình ngầm ẩn của con người. Ví dụ một số người có được địa vị xã hội cao, nhưng lại có những hành vi bất lương đê tiện, đó là do họ có cung mệnh thiên bàn tốt nhưng cung mệnh địa bàn lại xấu “

Như vậy:

Thiên bàn: Lá số nguyên thủy

Nhân bàn: Lá số lưu vận

Địa bàn:: Lá số cung mệnh an tại cung thân

Ls Thiên bàn của trung châu nó chính là cái lá số của các bạn đang có

Nhưng phái này có thêm địa bàn và nhân bàn. Vậy đầu tiên ta hãy tìm hiểu và bàn luận xem 2 cái lsnày nó nói lên cái gì đã.

Địa bàn tổng cộng có 14 chính diệu. Về cách an, toàn bộ giống như Thiên bàn, trong đó thì phép an sao Tử Vi có khác.

Tử vi của “Thiên bàn” là lấy thiên can của Năm sinh và ngũ hành Dần thủ, để tìm Nạp âm của cung mệnh, rồi lấy Nạp âm ngũ hành để tra Cục số., thì xác định được cung vị của Tử Vi.

Tử Vi của “Địa bàn” cũng vậy, ta lấy thiên can của Năm sinh, và ngũ hành Dần thủ, nhưng không phải để tìm ngũ hành nạp âm của cung Mệnh, mà là tìm ngũ hành Nạp âm của cung Thân. Do đó “Địa bàn” lấy cung Thân làm chủ. Sau đó tra được nạp âm của cung Thân, chiếu theo phương pháp của “Thiên bàn”, căn cứ ngũ hành Cục số, để tìm cung vị Tử vi.

Sau khi đã biết “Địa bàn”, ta rất dễ xem xét được căn nguyên của thiên tính và bản chất Tiên thiên của mệnh tạo. Nhờ vậy, ta sẽ hiểu tại sao rất nhiều người có địa vị cao quý trong xã hội, nhưng họ lại có những hành vi nhỏ mọn rất là hạ lưu. Đây là vì các sao của cung mệnh tại “Địa bàn” rất tốt, nhưng các sao của cung mệnh ở “Thiên bàn” tiên thiên lại không cao quý cho lắm.

Trái lại, có rất nhiều người nghèo nàn, hoặc không được hưởng một sự giáo dục tốt, nhưng họ lại có tư tưởng rất thanh cao, và hành vi rất đáng khâm phục. Đây là do các sao ở cung mệnh ở “Thiên bàn” phần nhiều là sao xấu, nhưng ở “Địa bàn” lại có nhiều sao rất tốt cung hội chiếu.

Các sao của “Địa bàn” cũng vậy, cần phải chú ý xem chúng nhập miếu hay lạc hãm, sinh vương hay tử mộ, để phân biệt sự cao thấp của chúng.

Lục tiên sinh chủ trương dùng “địa bàn” để tìm “căn nguyên tiên thiên”. Đây là điểm rất đáng chú ý, không phải là phát biểu của một người hiểu biết nửa vời. Nhưng dùng “địa bàn” để tính “giao thế thời” thì Lục tiên sinh hoàn toàn không có nhắc đến.

Theo Vương Đình Chi, thì mỗi giờ sinh của một người có thể chia thành “tam bàn” Thiên – Địa – Nhân. Điều này, cần phải căn cứ vào Tổ đức để phân biệt, chứ không nhất định giới hạn trong “giao thế thời”.

Liên quan đến phương pháp an sao ở “địa bàn” và “nhân bàn”, điều mà xưa nay vẫn được coi là “bí truyền”, thực ra rất là đơn giản.

Trước tiên, cứ theo phương pháp an sao của mệnh bàn, mệnh bàn này tức là “Thiên bàn”, rồi lấy cung Thân của “thiên bàn” đổi thành cung mệnh, dùng can chi của cung Thân để định Cục và Ngũ hành, an Tử viThiên phủ, như vậy là được thêm một bàn khác, gọi là “địa bàn”.

Nếu không dùng cung Thân, thì lấy cung Phúc Đức của “thiên bàn” đổi thành cung mệnh, rồi dùng can chi của cung Phúc Đức để định cục ngũ hành, sau đó an Tử viThiên phủ, như vậy là được thêm một mệnh bàn khác nữa, gọi là “nhân bàn”, nói một cách chính xác thì đay là “nhân bàn của địa bàn”.

Nếu cung Mệnh và cung Thân đồng cung, thì “thiên bàn” và “địa bàn” hoàn toàn giống nhau. Nếu cung Thân và cung Phúc đức đồng cung, thì “địa bàn” và “nhân bàn của địa bàn” hoàn toàn giống nhau.

Chú ý phân biệt, “Thiên bàn” – “Địa bàn” – “Nhân bàn”, chỉ có cung Mệnh là khác cung độ, trong đó 14 chính diệu được bài bố khác nhau, còn các sao khác ở các cung viên đều không thay đổi.

Cục

(Bài viết của anh Whitebear)

Trong cấu trúc của tử vi đẩu số, cục là khái niệm đóng vai trò trung tâm. Trong nền tảng của lãnh vực, nó là cơ sở để nghiên cứu cấu trúc cách an sao và hình thành lá số tử vi, số của cục có thể coi là việc hiện thực hóa khí tiên thiên trong nền tảng hậu thiên. Từ đó, ta có thể đưa đến lý thuyết về vòng trường sinh.

Xét bản chất, thì cục và Mệnh là hai yếu tố chả có liên quan gì đến nhau. Khi ta xét tương tác giữa Cục và Mệnh, thì cái gì sẽ quyết định độ số của cách cục, cái gì sẽ quyết định tính khả dụng của cách cục?

Chính vì vậy, do không hiểu bản chất vấn đề rất nhiều người đã phạm phải sai lầm khi thực hiện lối nghiên cứu xôi thịt và chuồn chuồn điểm nước, châu chấu đá cột tre, đó là mang cục so với mệnh, rồi phân độ số xem cục khắc hay sinh mệnh…. rồi tự hỏi tại sao nó không ứng.

Nền tảng hình thành của Tứ Trụ là Ngũ Hành Đơn, nhưng Nền Tảng của Tử Vi lại rất gần với Ngũ Hành cổ, cụ thể hơn là Ngọc chiếu định chân kinh.

Cùng một cách cục Tử Vi Tý Ngọ, nhưng nó sẽ ứng với các loại cục khác nhau, như Giản Hạ Thủy, Phích Lịch Hỏa, Bích Thượng Thổ, Tang Đố Mộc, Hải Trung Kim. Và đây là các yếu tố rất quan trọng để luận mệnh.

Cùng là một cái vỏ, nhưng ruột sẽ rất rất khác nhau. Cùng thì anh tinh nhập miếu, nhưng người thì hùng dũng hiên ngang, người thì kéo lê mã tấu kiếm cơm nơi bến xe.

Địa chi sẽ quyết định miếu hãm, nhưng tương tác ngũ hành nạp âm mới thực sự là vai chính diễn ra của trò chơi. Tiếc rằng người ta cứ nhìn thấy mặc quần áo vest thì khán là nhà giàu, cứ thấy mặc quần xà lỏn rồi khán là nhà nghèo, rồi băn khoăn không hiểu vì sao vớ phải chàng sở khanh.

Một vấn đề thứ hai, sẽ giải quyết ra sao với các lá số có cùng Tử Vi, nhưng khác tứ trụ. Hiển nhiên là, tử vi được xây dựng dựa trên SỐ ngày âm lịch, còn Tứ trụ được dựa trên CAN CHI ngày. Vì vậy, sẽ có 2 lá số tử vi khác nhau 60 năm, nhưng số phận hoàn toàn khác nhau.

Ngoài ra một khía cạnh quan trọng, đó là khi khảo sát lá số tử vi bằng các kỹ thuật của Lý Thuyết Tử Vân, thì các sao ngày được một số người không biết bỏ qua. Ngoài ra, có một số chuyện sinh ra khi các cặp sao Quang Quý Thai Tọa trùng nhau, mặc dù tứ trụ khác xa nhau. Chúng ta dễ thấy, có một nền tảng rất lớn nằm sau những vấn đề này.

Cách giải quyết vấn đề nằm ở một số kĩ thuật bí mật của tử vi, để khán Can Chi Ngày và các tương tác giữa chúng. Các kĩ thuật này được lan truyền trong nhiều hệ phái khác nhau, nhưng không được ghi chép vào các sách vở tử vi lan tràn trước năm 1975.

Các tương tác nạp âm của 4 trụ và cục, sẽ đóng vai trò nền tảng của tử vi.

Ngay trong VDTTL, cũng có thể thấy ông có xét tương tác giữa 4 trụ, cụ thể hơn là trong vòng 2 trang đầu tiên của phần luận giải lá số. Tuy nhiên, mọi thứ bị cắt ngắn đến mức tối thiểu, và bị bỏ qua bởi đai đa số tử vi gia.

Quan sát kĩ trong những gì diễn ra ở tử vi công cộng, theo nghĩa ai cũng có thể truy cập được nếu biết internet, và biết đọc sách bán ngoài chợ, ta có thể nhận thấy dấu vết và hình dáng của các kĩ thuật này phảng phất đâu đây trong các bài luận tử vi của các cao thủ.

1-Bác Indochine với khẳng định, trước 30 tuổi xem mệnh, sau 30 tuổi xem cục. Đây là một hệ quả nhỏ, và một mẩu trực tiếp của một bức tranh lớn.

2-Đã từ vài năm, bác TBGG đã nắm được một phần lớn của kĩ thuật này, áp dụng với tháng sinh.

3-Alex cũng đã có nhận thức về tương tác này, khi nhấn mạnh về độ số khi cùng/khác tính âm dương của mệnh và năm sinh, bản chất là tương tác về tính âm dương của NH mệnh và cục.

4-Trong các kĩ thuật của một số lộ phái, người ta sử dụng CỤC để luận tính cách. Ví dụ, thủy cực vương thì sẽ chủ trí…..

5-Còn nhiều nữa, tôi tạm thời đói quá, đi chơi, uống bia, nghe nhạc và uống sữa.

Khi nghiên cứu về việc khán vận hạn ở mức độ hạn ngày, dễ thấy nền tảng đó xuất hiện một cách dễ dàng, khác hoàn toàn với việc nghiên cứu vận tháng và vận năm.

Theo tôi được biết, nhiều người đã tiếp cận đến việc giới thiệu các kỹ thuật của Lục Hào và Lục Nhâm Đại Độn vào trong tử vi đẩu số. Trong đó, mang ra diễn trên diễn đàn thì đã xuất hiện một số người dụng nó trên nền của Tử Vi Bắc Phái Phi Tinh. Một số người khác thì có sử dụng tính thần sát để luận khán. Có một số người cũng đã biết dụng đến tương tác ngũ hành đơn để luận đoán. Nhưng tất cả đều dấu chiêu, có điều tôi nhận thấy rất rõ nét.

Ở mức độ tiên thiên, cụ thể hơn là bổ sung cho kỹ thuật của Tiên Thiên tứ hóa phi tinh kỳ phổ, thì Tiên Tông Phái cũng sử dụng chúng để định độ số cho tứ hóa. Nên các cách cục kiểu nghịch thủy kị, tuyệt mệnh kị… sẽ hoàn toàn khác xa nhau về kết quả, dù là cùng một hình phú cũng như tương tác phi cung.

Một tháng có ba mươi ngày. Không mất tính tổng quát, giả sử ngày 1 là ngày giáp Tý, nên ngày 11 là Giáp Tuất, ngày 1 tháng sau, nếu tháng có 30 ngày thì sẽ là Giáp Ngọ. Vậy sau 2 tháng, vị chi tuần giáp sẽ quay trở lại.

Đối với các tháng thiếu, gồm 29 ngày chẳng hạn, thì các sai số sẽ được add up lại, và hình thành nên sự vận hành của tuần giáp trên 12 cung. Vì vậy, một yếu tố khác sẽ cần phải đặt ra để correct các sai số này, bổ sung vào Lưu mùng một.

Cũng sẽ là một thiếu sót rất rất nếu quên không đề cập tới các kỹ thuật của Bảo Lộc Phái. Thay vì việc nghiên cứu lý thuyết khí của tinh đẩu và lý thuyết cung khí, họ sử dụng trực tiếp vị trí Thiên Lộc của Can của ngày sinh để luận đoán, đồng thời Nạp lục thân vào trong lá số.

Nhìn bề ngoài, nó hoàn toàn tương tự với việc Nạp lục thân vào lá số dựa trên nền tảng ngũ hành nạp âm Mệnh mà bác Indochine đã từng tương tự. Tuy nhiên, vì đây là một phái bí truyền không dạy ra ngoài, nên tôi không có một chút kiến văn nào sâu hơn về kĩ thuật của họ.

Nói chém gió vậy thôi, nhưng tôi đã quên hết tử vi, không có bất cứ khả năng gì trong việc luận lá số, và không có khả năng để trả lời mọi thắc mắc. Lâu lắm rồi, tôi không xem lá số nào.

Nên có gì sai sót, mong các bạn chỉ giáo cho tôi, tôi xin được lắng nghe ý kiến. Mọi người trao đổi học thuật, còn tôi xin được ngồi yên xem xét

Thái tuế nhập quái phái, nói rằng, khi ta khảo sát sự tương tác giữa hai lá số, ta có thể nhập địa chi của một người A vào lá số của người B kia để coi như cung mệnh ẩn, và dụng thiên can của A để an tứ hóa lên lá số của B để hiểu tương tác giữa hai lá số.

Tùy vào ngộ tính và mức độ lãnh hội, mà ta có các biến cách khác nhau. Người ta có thể dễ dàng kết hợp lý thuyết phi yến quỳnh lâm vào thái tuế nhập quái, đồng thời sử dụng trong phi vận tử vi đẩu số

Một trong những analog của nó, là lý thuyết lưu cung, khi ta biến thời gian trở thành không gian thông qua biến đổi poincare’. Những cái này là tầm thường, mọi người có thể đọc qua các bài viết về lý thuyết Tử Vân do bác VDTT đề cập, và tùy duyên mà nắm.

Hình ảnh

Tuy nhiên, một trong những biến cách thú vị nhất của kỹ thuật này, đó là sử dụng CỤC để khán hôn nhân có tốt hay không. Đây là một kĩ thuật đã biết tới từ lâu trong sách vở.

Cục vì là cơ sở để an 14 chính tinh, nên là cơ sở chung cho cả Bắc Phái lẫn Nam Phái Tử Vi Đẩu Số. Tuy nhiên, vì cơ sở luận đoán của hai phái khác nhau, nên cách sử dụng CỤC cũng khác xa nhau.

Đối với Tử Vi Nam Phái, bỏ đi những thành phần râu ria không kiểm chứng được, thì quay đi quay lại chỉ có xoay quanh các thứ:

  • 1- Lý thuyết về Thập Nhị Huyền Đồ, tức là 144 cách cục, và các suy rộng của chúng, ví dụ như Tử Vi Tinh Quyết của Mr Chi. Đây có thể coi là nền tảng cơ bản của Nam Phái, nhưng chỉ là nghiên cứu về vỏ ngoài của bộ chính tinh, tức là Hình Phú của chính tinh.
  • 2-Lý thuyết về tính Nam và Bắc đẩu của tinh đẩu, và các chế hóa ngũ hành. Đây là cơ sở cơ bản của phép Hội sao của Nam phái.
  • 3-Lý Thuyết về Cung Khí, nói về khí của cách cục. Theo tôi, đây là đỉnh cao của Nam Phái, là cái dấu nghề của các môn phái và là chủ đề xuyên suốt topic này.
  • 4-Lý thuyết về cách cục, đây là cái toàn tạp thư, được lan truyền trong dân gian, gồm hàng ngàn hàng vạn câu phú, được viết bởi đủ mọi thành phần xã hội, giang hồ thuật sĩ. Đại đa số nó không hề có cơ sở khoa học, chỉ có cơ sở nghiệm lý (trên vài trường hợp rồi chém) nên được coi là cục gân gà ai ai cũng phải nhá và ai ai cũng ghét. Bỏ không đọc thì chả biết khán cách nào, còn cả đời mà học thì chỉ tốn thời gian, mà thành tựu không chắc đã có bao nhiêu. Có thể coi nó là vỏ của cách cục

Nhiều người dành vài chục năm cuộc đời chỉ có luyện đi luyện lại đống phú, mà kĩ thuật thu được chả được bao nhiêu, xem tính cách chung chung hoặc tương lai 30 năm sau thì rất giỏi, nhưng cứ hỏi hạn quá khứ sắc nét hoặc hạn có kiểm chứng được thì lại ú ớ rồi lảng sạch.

Tử Vi Nam Phái, dù đi kiểu gì đi nữa, vẫn cứ quay về nền tảng là phép hội sao để ứng dụng bốn luận điểm trên. Nguyên lý cơ bản của phép hội sao thì chắc là ai ai cũng biết, nằm ngay trong Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư, gọi là Tứ Yếu Thập Dụ Bát Pháp. Ta có thể thấy, dựa vào việc cục của cung mà đưa tới các kết quả khác nhau về phép hội sao.

Tuy nhiên, vì mức độ lãnh ngộ có hạn, nên nhiều người tự sáng tác, sinh ra các học thuyết quái dị, xa rời nguyên lý kiểu như mệnh VCD thì xem cung thiên di, cung di là đối thủ….. Những trường hợp đó, tôi xin miễn bàn ở đây, vì chắc chắn sẽ có nhiều người ở đây phật ý.

Ngược trở lại, cơ sở của Tử Vi Bắc Phái Phi Tinh lại hoàn toàn không dựa trên phép hội sao. Kỹ thuật của nó dựa trên ba khái niệm.

  • Điểm: “Tử vi đấu sổ 12 cung vị: các cung, ngũ hành, tinh diệu ở cung tọa mệnh gọi là “Điểm”,
  • Tuyến: lưỡng nghi (Âm Dương) tức là “Tuyến”,
  • Diện: tam phương, tứ chính, tứ hóa tức là “Diện”.

Theo “Điểm Tuyến Diện” mà xét biến hóa sẽ hé mở mệnh bàn diễn biến vô cùng vô tận,.. chính là “Vô tự thiên thư” (sách trời không chữ)! ”

Nói thì nhiều, nhưng đây là cách tôi hiểu về lãnh vực này, trong đó phép lưu cung, phi vận… có thể coi là các phép quay trong không gian ba chiều.

Câu hỏi: Cục sẽ nắm vai trò gì trong vấn đề này. Có phải nó sẽ quy định hình dáng của các đối tượng hình học hay không, chắc mọi người đều đã đoán ra.

Như đã đề cập, bản chất của lý thuyết phi vận tử vi đẩu số, đó là phép quay trên không gian 12 chiều và tương tác tứ hóa giữa các vùng không gian khác nhau. Tùy vào cách các bạn tiếp cận mà có các kiến giải khác nhau, ví dụ như tôi, tôi hiểu lý thuyết giống hệt lý thuyết M và lý thuyết dây.

Cùng một kĩ thuật, cụ thể hơn là phép quay, khi áp dụng vào các trường hợp khác nhau, sẽ sinh ra:

  1. -áp dụng cho phạm trù Địa, người ta gọi là Thái Tuế Nhập Quái.
  2. -áp dụng cho phạm trù Nhân, tức là cung chức, người ta gọi là kỹ thuật mượn cung.
  3. -Áp dụng cho phạm trù Thiên, người ta gọi là phi vận tử vi đẩu số.

Vậy cục sẽ đóng vai trò gì ở đây? Tôi hiểu, tương tác tứ hóa giống như là các graviton được trao đổi trên các M-brane, và cục-hiểu theo nghĩa nào đó chính là đo độ cường nhược của chúng.

Hình ảnh

Ví dụ, lấy vợ, dùng thái tuế nhập quái biết là vợ hại mình. Nhưng, hại tới mức nào, cãi cọ hay chửi, hay túm tóc lên gối tát tới tấp, ấy lại là chuyện khác.

Tất nhiên, các chuyên gia cao thủ tử vi nghiên cứu theo trường phái chuồn chuồn điểm nước, ném đá ao bèo sẽ không quan tâm tới chuyện này. Bỏ cục và vòng trường sinh đi cho nhẹ lá số, xe máy bỏ hết phanh, thắng, đèn pha, cốp, bảo hiểm xe, túi khí… đi chạy cho nó nhanh, bán bớt áo cứu hộ, phao đi để có tiền uống rượu cho sướng, còn ai chết đuối là có số.

Lý thuyết Cung Trọng Điểm

Cung vị trọng điểm tức là cung vị quan trọng nhất. Điều này nghĩa là, khi suy đoán một sự kiện nào đó, chúng ta sẽ phát hiện trong số một vài cung vị liên quan đến nhau, sau khi nhập vào một số điều kiện/dữ kiện đã biết, luôn có một cung có ảnh hưởng mạnh nhất. Trong trường hợp này, chúng ta không cần thiết phải chú ý đều tới tất cả các cung vị (bản mệnh, đại hạn, lưu niên) mà chỉ cần chú ý tới “cung trọng điểm” là được. Sau khi tìm được cung trọng điểm, chúng ta chỉ cần chú ý tới các đặc tính của nhóm sao trong cung đó, kết hợp với việc xem xét tác động của vận hạn, tứ hóa đối với cung vị này là có thể suy luận chiều hướng phát triển của nó về sau. Nhưng dự kiện cần thiết phải nhập vào, bao gồm:

  1. năm tháng xảy ra sự kiện hoặc năm tháng xảy ra biến động, năm tháng kết thúc sự kiện.
  2. năm sinh của người liên quan (cung vị nhập quái).
  3. ngày tháng xảy ra những sự kiện đặc biệt.

Dưới đây chúng tôi xin nêu 3 ví dụ để tiện suy ngẫm.

Ví dụ 1: Giả sử người A, ở đại hạn Canh Tý (năm Giáp Tuất) được tuyển vào công ty hiện đang làm việc, nay thấy không hài lòng lắm với công việc, muốn tìm một công việc khác và muốn biết: có cơ hội đổi việc không? con duyên phận với công ty cũ hay không?

Từ các dữ liệu người A đã cung cấp ở trên:

  1. đại hạn Canh Tý năm Giáp Tuất vào công ty
  2. lưu niên Bính Tý công việc không thuận lợi,

Sau khi vận dụng vào lá số, chúng ta có thể thấy, cung trọng điểm của sự việc này là cung Thìn. Lý do như sau:

1. Đại hạn Canh Tý, bước vào cung sự nghiệp tiên thiên, cung đại hạn sự nghiệp tại Thìn, có can Canh Vũ khúc hóa quyền để cát hóa.

2. Lưu niên Giáp Tuất vào làm công ty hiện thời, can Giáp tạo thành Liêm Trinh Hóa Lộc, Vũ Khúc Hóa Khoa, cùng nhập cung Thìn.

Giải thích: Ngoài 4 hóa tinh (lộc, quyền, khoa, kị) trên lá số tiên thiên, thiên can của đại hạn và lưu niên cũng tạo ra tứ hóa của riêng nó. Vào năm Giáp Tuất, lưu niên tứ hóa của can Giáp chính là Liêm trinh hóa lộc, Phá quân hóa quyền, Vũ khúc hóa khoa, Thái Dương hóa kị).

3. Năm vào công ty cũng vừa vặn là cung đối (đối xứng?) với cung đại hạn về sự nghiệp, Thìn.

Giải thích: Năm vào công ty là năm Giáp Tuất, lưu niên ở cung Tuất (lấy các cung địa chi để xem), Tuất và Thìn là hai cung có quan hệ đối xứng, sức ảnh hưởng sẽ lớn hơn).

4. Lưu niên Bính Tý bước vào cung vị đại hạn, sự nghiệp lưu niên cũng ở cung Thìn.

5. Công việc không thuận lợi, về lý phải do ảnh hưởng của hóa kị, lưu niên Bính Tý chính là lúc có Liêm Trinh hóa kị thủ tọa cung Thìn.

Sau khi nhập các dữ kiện như trên, chúng ta có thể thấy rõ ràng, cung Thìn là cung trọng điểm đối với công việc hiện tại của người A. Nếu chúng ta xem xét tính chất của các sao chính tinh phụ tinh (nguyên văn: tam phương tứ chính) tại cung Thìn cũng như những biến đổi theo lưu niên trong tuơng lai tại cung này thì có thể luận ra người A có duyên phận như thế nào đối với công việc hiện nay. Khi tim ra được cung trọng điểm, chúng ta sẽ không còn phải phân vân: rốt cuộc nên suy đoán dựa trên cung sự nghiệp tiên thiên (quan lộc?), cung đại hạn sự nghiệp tiên thiên, hay cung sự nghiệp lưu niên. Ba cung này ngộ nhỡ không thống nhất thì có phải sẽ khiến chùng ta hao tổn tâm trí vô ích?

Ví dụ 2: Người B muốn hỏi về chuyện tình cảm trong tương lai với bạn gái hiện thời. B cho biết, hai người quen nhau năm kia (Ất Hợi), bạn gái sinh năm 57 (>1968, tức Mậu Thân). Từ các dữ liệu B cung cấp:

  1. Hai người quen nhau năm Ất Hợi.
  2. Bạn gái sinh năm Mậu Thân, nhập vào lá số của B, chúng ta sẽ tìm ra được cung trọng điểm đối với chuyện tình cảm này là cung Thân.

Lý do như sau:

  1. Hiện nay là đại hạn Canh Tuất, can Canh Thái Dương hóa lộc do Tý hội nhập đại hạn phu thê cung Thân, khiến nó được cát hóa (trở nên tốt lành).
  2. Năm kia (Ất Hợi) quen nhau, can Ất Thiên cơ hóa lộc cũng do cung Dần hội nhập cung Thân.
  3. Bạn gái sinh năm Mậu Thân, đem nhập vào lá số, thủ tọa cung Thân của lá số.
  4. Vào đại hạn khi quen nhau cũng như năm quen nhau, thiên can hóa lộc ảnh hưởng mạnh nhất là cung phu thê của đại hạn còn cung phu thê tiên thiên cũng như lưu niên đều không có biểu hiện rõ ràng. Thêm vào đó, cung vị nhập quái của bạn gái cũng là cung Thân. Vì thế, chúng ta nên chọn cung Thân là cung trọng điểm để đi sâu phân tích.

Chọn được cung trọng điểm là cung Thân rồi mà trong quá trình luận giải về tình cảm giữa hai người, chúng ta không lấy cung Thân làm chỗ dựa để phán đoán, lại dựa vào cung phu thê tiên thiên của lá số, hoặc cung phu thê lưu niên thì kết quả e rằng kết quả sẽ sai lệch ngàn dặm. (Bởi vì, năm Ất Hợi, cung phu thê lưu niên tại Dậu, đại hạn Thiên đồng hóa kị cũng như lưu niên Thái âm hóa kị song kị giáp (giáp nhau?), cung phu thê tiên thiên tại Tuất, có đại hạn Thiên đồng hóa kị thủ tọa cũng như tiên thiên Cự môn hóa kị hội ngộ, lưu niên Thái âm hóa kị ảnh hưởng liên tục.. Trong cảnh cung phu thê tiên thiên và lưu niên đều bị ảnh hưởng của Kị, rất khó xảy ra chuyện người B có thể kết được bạn gái.)

Ví dụ 3: Người C vào năm 83 Dân quốc, tức là năm giáp tuất, đặt mua một căn phòng trả góp. Căn phòng này năm đó khởi công năm Bính Tý thì hoàn thành. Người C muốn biết căn phòng này tương lai có tăng giá hay không. Theo những tư liệu người C đã cung cấp ở trên:

  1. Năm 1983, giáp tuất mua nhà.
  2. Căn nhà này năm đó khởi công,
  3. Bính Tý Lưu Niên hoàn thiện.

Từ các dữ kiện này có thể thấy, cung trọng điểm đối với căn phòng này có thể định tại cung mùi với lý do như sau:

  1. Lưu niên giáp tuất cũng như đại hạn giáp thìn, với giáp can thì phá quân hóa quyền, và Tiên Thiên Tử Vi hóa quyền, hình thành hiện tượng song quyền giáp với Vận Hạn điền trạch thì sẽ tự phát sinh tham vọng mua bán bất động sản.
  2. Lưu niên giáp tuất, Can giáp làm thái dương hóa kị, cũng do cung Mão tam hợp với cung Mùi. Sự dẫn động của hóa Kị cũng có thể giải thích cho hiện tượng khởi công. Năm này cũng gặp Lưu Kình Dương.
  3. Lưu niên bính tí, can Bính làm thiên đồng hóa lộc làm đại hạn điền trạch cung Mùi hóa cát (hoàn thành công trình).
  4. Đại Hạn điền trạch cung Mùi vào năm mua nhà trả góp và năm hoàn thành công trình nói chung đều gặp lộc quyền làm cát hóa. Năm bắt đầu khởi công thì cũng có sát tinh hóa kị dẫn động. Vì thế chúng ta nên lấy cung mùi làm cung trọng điểm cho sự việc mua bán nhà cửa này.

Từ suy luận trên có thể thấy, nếu mà sự kiện này không phải là do cung trọng điểm, BỞI VÌ CUNG ĐIỀN TRẠCH TIÊN THIÊN Ở TẠI MÃO, ĐẠI HẠN ĐIỀN TRẠCH Ở TẠI CUNG MÙI, NHỮNG CUNG NÀY TẠI CÁC NĂM TIẾP THEO ĐỀU SẼ PHÁT SINH NHỮNG BIẾN ĐỔI CÓ TÍNH CHẤT KHÁC NHAU.

Từ ba ví dụ trên đây có thể thấy rất rõ giả sử… kỳ thực cung trọng điểm là một phhương pháp suy luận rỏ ràng và đơn giản nhất. Ngoài cái việc chúng ta tránh được việc giải đoán một cách rối rắm

(chú thích, năm n dân quốc tương ứng với năm n+12 theo lịch thông thường)

Từ 3 ví dụ trên đây, có thể thấy rõ, biết vận dụng “cung trọng điểm” là phương pháp suy luận đơn giản và sáng sủa nhất. Nếu không có cung trọng điểm, ngoài việc làm nhiễu mạch tư duy, cũng sẽ thường xuyên gặp cảnh “húc đầu vào đá”. Chỉ cần tìm được cung trọng điểm ở đâu, kết quả ta cần suy đoán, nếu không trúng cũng không quá sai lệch! Trong những phần suy đoán dưới đây, chúng tôi sẽ thử phân tích cách tìm cung trọng điểm.

MUỐN BỎ KHÔNG ĐƯỢC: CHUYỆN TÌNH CẢM CỦA CÔ KHA.

Mấy ngày trước, đồng nghiệp bảo tôi, cô ấy có một người bạn là cô Kha. Cô Kha từng nhờ tôi coi số tuy nhiên khi đó tôi mới chỉ viết một số nét cơ bản về vận hạn sắp tới của cô ấy, giảng cũng sơ lược, nên cô ấy muốn hẹn tôi một dịp nào đó gặp mặt trực tiếp. Cô Kha đang gặp một số khó khăn trong công việc và tình cảm nên mong tôi giúp đỡ, thảo gỡ một số nghi vấn, giải tỏa tâm lý.

Dưới sự sắp xếp của bạn đồng nghiệp, ba người chúng tôi hẹn gặp nhau tại một nhà hàng cà phê sau giờ làm việc ngày thứ bảy. Trong hương thơm của cà phê và tiếng nhạc êm ái, chúng tôi nói chuyện gần ba giờ đồng hồ. Những vấn đề có thể hỏi, cô Kha đều đã hỏi hết. Ngay cả những vấn đề bình thường rất khó mở miệng, cô Kha – con người vốn có tác phong “hào phóng”- hầu như cũng không bỏ qua. Trong quá trình đoán số, cô Kha cũng để lại cho tôi ấn tượng sâu sắc về tác phong hành xử và cuộc đời của mình.

Khi luận lá số này, chúng tôi thấy cung trọng điểm- cung mệnh chiếm vai trò quan trọng, tổ hợp cách cục của nó cũng rất đặc biệt nên nêu ra để cùng bàn luận.

Ngay sau khi lập xong lá số của cô Kha, tâm lý của chúng tôi đều có phần chùng xuống, cuộc sống của cô ấy dường như rất nhiều màu sắc: tổ hợp cung mệnh có tính “biến hóa”, nếu chúng ta xét thêm cả sự biến hóa của vận hạn thì càng thấy rõ.

Nghe đồng nghiệp nói, cô Kha hiện nay quan tâm hai vấn đề là tình cảm và sự nghiệp nên tôi bắt đầu xem từ vấn đề tình cảm. Sau khi xem một lát, tôi nói với cô Kha: “chuyện tình cảm của cô hẳn là rất phong phú, phức tạp!”

“Cách cục trong lá số tiên thiên là cách cục “đào hoa phạm chủ” Tử Tham hội Thiên hỷ điển hình. Hiện nay, đại hạn ở Kỉ Sửu, can Kỷ Vũ khúc hóa lộc tại đại hạn cung phu thê, Tham lang hóa quyền tại cung mệnh tiên thiên, vận hạn cung phu thê và cung mệnh tiên thiên tại phương tam hợp, lại chịu sự ảnh hưởng của quyền lộc thì chuyện tình cảm rất khó suôn sẻ, đơn thuần.”

“Đúng thế! Mấy năm nay chuyện tình cảm của tôi đúng thực là như vậy. Tôi yêu hết anh này đến anh khác, thấy hợp thì đến, không hợp lại đi. Tuy đã yêu rất nhiều người, cuộc sống sống động muôn màu nhưng tôi không hề có cảm giác an toàn, nghĩa là vẫn chưa tìm được ai thật sự tri kỷ”, cô Kha trả lời tôi.

“Những người cô yêu đại đa số sinh năm bao nhiêu?”

“Trước đây tôi từng đi lại với mấy anh sinh năm 56, 58 dân quốc. Gần đây, tôi yêu một anh sinh năm 52, một anh sinh năm 54 dân quốc.”

Khi nhập các dữ kiện này vào lá số, tôi hỏi cô Kha, có phải cô ấy đã chia tay với người sinh năm 52 rồi không? Dường như cô ấy có duyên hơn đối với người sinh năm 54?

Người sinh năm 52, nếu nhập vào cung mệnh tiên thiên trên lá số của cô, cung vị nhập quái này sẽ cùng với cung phu thê theo vận hạn của cô tạo thành phương tam hợp. Như vậy, ngoài việc xuất hiện hiện tượng tác động lẫn nhau/kéo theo? của quyền lộc tạo ra cách cục hay người gặp gỡ, quen biết như đã nói trên đây, vận hạn hóa kị cũng khiến cho cung Tỵ và cung Hợi rơi vào cách cục xấu Xương Tham Khúc Tham. Người sinh năm 52, can Quý, Tham lang hóa kị cũng vừa khéo tọa thủ cung Mão đồng thời hội nhập cung Hợi, năm Bính Tý lại chịu ảnh hưởng của Liêm trinh hóa kị, e rằng dữ nhiều lành ít, tình cảm dễ đi vào hồi kết.

Người sinh năm 54, cung bát quái tại Tỵ. Cung vị này cùng với cung mệnh và cung phu thê trên lá số của cô Kha tạo thành phương tam hợp. Tương tự, cũng có lộc tinh Vũ Khúc cát hóa. Điểm khác biệt so với người sinh năm 52 là, cung Tỵ có Thiên tướng tọa thủ, tam phương không hình thành cách cục xấu. Do đó, cô Kha và người này chắc là có duyên với nhau hơn.

“Đúng thế, tình hiện hiện nay đúng là như vậy. Tôi với người sinh năm 52 chắc là khó có cơ hội gặp lại. Còn người sinh năm 54 hiện đang sống chung với tôi.” “Ngoài người hiện tôi đang sống chung, sắp tới có thể quen thêm bạn trai nào khác không? Tại sao ngoài người sinh năm 54, chuyện tình cảm với những người khác đều không đi đến đâu? Rốt cuộc tôi có cơ hội gặp được người tôi thực sự yêu thương không?” cô Kha hỏi.

“Như tôi vừa nói, đại hạn Kỷ Sửu cũng tức là trước 34 tuổi, cuộc sống tình cảm của cô không thể nào dứt (có kết quả?). Do vậy với những người đã gặp trước đây, đều đổ vỡ. Có thể thấy, cung vị nhập quái của những người này đều trùng hợp rơi vào phương tam hợp với cung mệnh tiên thiên, chịu ảnh hưởng của cách cục Xương Tham Khúc Tham nên không thể bền lâu. Giả sử hôm nay cô gặp một người sinh năm 53 hoặc 57, tôi tin rằng người đó sẽ đối với cô rất tốt, quan hệ của hai người cũng sẽ không tệ. Tình cảm mà! Có thể nâng niu thì hãy nâng niu, duyên phận vốn là đến không dễ, nếu không nắm lấy, sau này hối hận cũng không kịp. Người bạn hiện nay đối với cô cũng không tệ, tại sao phải nghĩ ngợi nhiều như vậy? Hơn nữa, phân tâm hai lòng đối với cô cũng không tốt đâu”.

“Nhiều khi tôi cũng cảm thấy mình trăng hoa quá! Có phải do tôi có số đào hoa nên mới như vậy hay không?”. Tôi sống với bạn trai hiện nay, kỳ thực không phải là có tình cảm gì cả, chỉ đơn thuận là như cầu sinh lý! Từ lá số, có thể luận ra vần đề “dục vọng” không?”, cô Kha nói với tôi quan điểm của cô ấy về tình cảm một cách rất thoải mái. (Cung Mệnh Thân có Kình dương, thông thường đều có tính hỏi gì thì hỏi đến cùng.)

CUNG VỊ TRỌNG ĐIỂM

Đào hoa có thể sinh ra hay không, điều này có thể phân tích từ cung Mệnh tiên thiên.

Trong cung Mệnh tiên thiên, có mấy tổ hợp, mấy tổ hợp này gặp nhau sẽ làm phát sinh một số hiện tượng dưới đây, tạo ra những biểu hiện trong tác phong làm việc của đương số:

1. Tử vi tọa mệnh nhưng không hội tả phù hữu bật, làm việc gì cũng khó tránh khỏi cảnh cô độc một mình. Thêm vào đó có Dương Đà đến quấy nhiễu, vậy ai tác động thế nào, đương số cũng vẫn theo ý mình mà làm.

2. Cách cục Sát Phá Lang hội sát tinh làm gia tăng tính hay thay đổi ở đương số, cuộc sống càng khả giả(?), càng phù hợp với lý tưởng của cô ấy. Điều này cũng giải thích tại sao đương số không hài lòng với hiện trạng.

3. Tử Tham gia thêm Thiên Hỷ là cách cục Đào hoa phạm chủ, cách cục này sau khi chịu ảnh hưởng bởi lộc, quyền của vận hạn, ngay cả khi đại hạn cung Sửu không phải là cách cục của Đào hoa, vẫn sinh ra hiện tượng đào hoa. Nếu lại thêm có Kình Đà hội hợp, cảnh “dã đào hoa (đào hoa dại)” là không thể tránh khỏi. Do vậy, trong chuyện tình cảm, đương số cũng cần biết tiết chế, nếu không sẽ không tốt.

4. Do cách cục Xương Tham Khúc Tham, cuộc sống tình cảm hiện tại của đương số sẽ có nhiều biến động. Nói một cách trực tiếp là việc kì quái đến mấy, cô ấy cũng có thể làm. Trong đại hạn hiện nay, can Kỷ Văn khúc hóa kỵ ảnh hưởng tới cách cục này, khiến cho tính biến động càng rõ nét.

5. Tham lang hóa quyền trong vận hạn và Vũ khúc hóa quyền tiên thiên càng ảnh hưởng mạnh tới cung mệnh có Đào hoa, đồng thời hội với (?) cung phu thê của đại hạn, ít nhiều cũng làm tăng mong muốn chiếm hữu đối với người khác giới của đương số. Nếu mang tổ hợp quyền tinh và kị tinh kết hợp với tính cường vượng của chủ tinh để suy xét, càng thấy rõ tình hình này.

Nếu kết hợp 5 điểm nêu trên để luận giải sẽ thấy khá phù hợp với tình hình thực tế hiện nay của đương số. Thực ra, những cách cục này không phải hoàn toàn xấu, không có điểm nào tốt, do đó tốt hay xấu cần phải xem đương số hành động như thế nào. Nếu đương số biết lợi dụng những tính chất này vào công việc, ví dụ làm một số việc liên quan đến mỹ thuật, nghệ thuật, phục trang v.v. rất có thể sẽ đạt được thành tựu hơn công việc hiện tại, có cơ hội thăng tiến. Đương số là nữ giới, cuộc sống tình cảm quá “phong phú” cũng không tốt: trên lá số đã tiềm ẩn một số tính chất như vậy, nếu bất cẩn không lưu ý, người phải chịu thiệt hại sẽ chính là cô ấy.

Còn về vấn đề “dục vọng” mà cô Kha hỏi, tôi chưa từng nghiên cứu qua nên không thể luận ra điều gì từ lá số của cô ấy. Huống hồ, tìm hiểu điều này, thực ra cũng không có ý nghĩa gì nên..

Còn về vấn đề “dục vọng” mà cô hỏi, tôi chưa từng nghiên cứu qua nên không thể luận ra điều gì từ lá số của cô. Huống hồ, tìm hiểu điều này, thực ra cũng không có ý nghĩa gì nên câu hỏi này tôi tạm không trả lời. Điều đáng quan tâm, theo tôi là làm thế nào để “xu cát tị hung” (thêm cái tốt, bớt cái xấu), làm thế nào để lợi dụng những điểm trên lá số để phát triển tiềm năng của mình”.

“Nói thế mà được! Trước đây không phải anh đã bảo, từ lá số có thể nhìn được những điều này? Sao giờ anh lại không nghiên cứu nữa? Anh cứ nói đi mà! Nói ra thì có làm sao? Người ta đã hỏi, anh còn ngại gì chứ?”, đồng nghiệp của tôi ngồi bên cạnh, thúc bách tôi phải nói.

“Cung tử tức là cung đại diện cho ham muốn tình dục, cung tật ách là cung đại diện cho khả năng tình dục. Cung tử tức tiên thiên của cô là Thái dương hóa lộc tọa thủ tại cung Tý. Thái dương của người sinh giờ Mão chính là hiện tượng “ánh nắng sớm đợi mọc”, cung Tý tam phương lại có hai sao Hỏa, Linh làm tăng thêm sức mạnh của Thái dương. Cho nên…..”

“Đại hạn, cung tử tức tại Tuất. Cung Tuất có Vũ khúc hóa quyền tiên thiên và Tham lang hóa quyền của đại hạn (nhập cung Dậu), tức là giáp song quyền. Điều này có thể giải thích cho sự hưng vượng về ham muốn tình dục của đương số.”

“Nếu tiếp tục xem xét đại hạn tiếp theo, đại hạn đi vào vị trí cung tử tức tiên thiên, sẽ xuất hiện hiện tượng giống như trên. Cung tử tức của đại hạn tại Dậu, có Tham lang hóa lộc của vận hạn làm cát hóa, như vậy tôi nghĩ rằng tuổi đương số càng cao, hứng thú tình dục e rằng càng mãnh liệt”.

Cô Kha và đồng nghiệp nghe xong những lời giải đoán “thoải mái” của tôi đều không nhịn được, cười lớn nói: thế thì biến thành “hoa si” (kẻ ham mê sắc dục) hay sao?

Sau khi đã hỏi rất nhiều câu nên hỏi và không nên hỏi, cô Kha hỏi một câu có liên quan tới công việc của cô ấy. Cô nói, năm kia (Ất Hợi), cô vào làm việc cho công ty hiện tại, không rõ có nên tiếp tục công việc này hay không? Nếu đổi việc khác, trong tương lai nên làm việc trong ngành nghề gì thì tốt nhất?

Nếu xét dựa trên dữ kiện là năm vào công ty, cung Mão và cung Hợi là hai cung có ảnh hưởng lớn nhất đến sự nghiệp. Hai cung vị này, ngoài việc có tiên thiên Vũ khúc hóa quyền, đại hạn Vũ khúc hóa lộc, Tham lang hóa quyền và lưu niên Lộc tồn dẫn động, còn là cung mệnh của lưu niên và cung sự nghiệp (quan lộc?) của lưu niên.

Hai cung vị này vào năm Bính Tý, sau khi có Liêm trinh hóa kị dẫn động (sau khi có ảnh hưởng của Liêm trinh hóa kị?), sợ rằng đã ngầm ẩn hung cơ (việc xấu/ cơ hội xấu), muộn nhất chắc đến năm Đinh Sửu.

Về tính chất công việc, đương số có tử vi tọa mệnh, tuy không có tả phù hữu bật hội chiếu nhưng tính chất công việc vẫn thuộc loại “đa nguyên”: có thể làm việc trong nhiều ngành nghề, không chê ngành nào. Nếu lại phối hợp với cách “Xương Tham, Khúc Tham” thì càng rõ ràng. Nhưng tôi vẫn khuyên giống như đã nói ở trên: đối với đương số, nếu có thể chuyển tính chất “đào hoa” trong cung mệnh vào nghề nghiệp, chú trọng đến những sở trường này (Kình Dương, Đà La hội nhập), chắc rằng sẽ có nhiều thành tựu.

Chúng tôi kết thúc 3 giờ đồng hồ đoán mệnh. Tuy tôi vẫn chưa đưa được đáp án nào cụ thể, rõ ràng cho cuộc sống tình cảm thăng trầm của cô Kha nhưng dựa vào thiên tính lạc quan của cô ấy, tôi tin cô ấy sẽ nhanh chóng tìm được một người bạn đời lý tưởng. Một lần nữa, tôi muốn gửi lời chúc phúc tới cô.

HÀNH TRÌNH CÔ ĐỘC: CUỘC HÀNH TRÌNH SANG ĐẠI LỤC CỦA HỌC TRƯỞNG (SƯ HUYNH).

Chủ nhân của lá số này là sư huynh, đồng thời là đồng nghiệp của tôi. Khi tôi mới vào công ty, anh ấy đã giúp tôi rất nhiều. Trong công việc, chúng tôi luôn cùng vai sát cánh, trong đời tư, chúng tôi là bạn bè tốt, chia sẻ mọi việc.

Còn nhớ, năm tôi mới vào công ty (Dân quốc thứ 82), tôi đã từng xem giúp lá số của sư huynh, đoán rằng vào năm Dân quốc 83, anh ấy sẽ có bước phát triển tốt.

Còn nhớ, năm tôi mới vào công ty (Dân quốc thứ 82), tôi đã từng xem giúp lá số của sư huynh, đoán rằng vào năm Dân quốc 83, anh ấy sẽ có bước phát triển tốt, cần chuẩn bị thực lực để đến khi gặp thời cơ có thể phát huy. Đầu năm sau, sư huynh quả nhiên được thăng chức, được điều đến một xí nghiệp có liên quan, giữ chức trưởng phòng tài vụ (tài vụ trưởng). Chế độ đãi ngộ tuy không tốt hơn rõ rệt nhưng là bàn đạp để thăng tiến. Làm công việc này chưa đầy một năm, sư huynh được cử đi công tác ở đại lục. Công ty ở đại lục mới bắt đầu gây dựng, mọi chế độ đều đang trong quá trình xây dựng, tất nhiên công việc rất vất vả nhưng lương bổng nhiều hơn gấp đôi so với công việc cũ.

(Hết trang 53/118)

Những công nhân viên chức được cử sang đại lục, càng có cơ hội nắm nhiều quyền lợi cho mình, tích lũy càng nhiều kinh nghiệm. Chỉ cần công tác đủ hai năm ở đại lục, khi quay lại công ty mẹ, đều có thể được thăng chức. Đây là lợi thế mà những nhân viên ở lại Đài Loan không thể có được.

Do có nhiều lợi ích như vậy nên các nhân viên ở công ty đều muốn giành lấy cơ hội đi đại lục. Nhân viên trong công ty quá đông, trong cảnh “người nhiều cháo ít” như vậy, sư huynh của tôi có thể được cấp trên đề bạt, khởi hành đi đại lục một cách thuận lợi, tôi nghĩ không hẳn chỉ vì biểu hiện trong công việc của anh ấy tốt mà còn vì anh hơn người ta một chút cơ duyên.

Vào khoảng mấy ngày giáp Tết âm lịch năm 85, tôi nhận được điện thoại của sư huynh, ngoài việc hàn huyên tâm sự, sư huynh cũng tiết lộ, lần này về nghỉ tết, anh ấy muốn tranh thủ lại thăm tôi, nhờ tôi xem giúp cho anh ấy vận hạn lưu niên Bính Tý. Cũng bởi vì gần đây công việc của anh ấy không thuận lợi lắm, anh cảm thấy không đáng phải vất vả như vậy nên muốn xem thử vận thế sắp tới thế nào. Khi đó đúng dịp quyết toán cuối năm, công việc của chúng tôi đều rất bận nên chúng tôi không nói nhiều qua điện thoại, chỉ hẹn cuối năm gặp nhau sẽ đàm đạo.

Tôi nhớ rằng, trong lần thứ hai luận giải lá số cho sư huynh, tôi có nói với anh ấy, anh ấy đang gặp một số khúc mắc trong quan hệ, mặc dù cụ thể là gì tôi chưa biết rõ. Qua sự kiểm chứng của sư huynh, quả thật anh ấy đang gặp khó khăn trong quan hệ với cấp trên ở đại lục. Đây cũng là vấn đề khiến anh ấy lo phiền nhất hiện nay. Nhiều lúc, anh ấy cũng đã định từ chức nhưng nghĩ đến việc đã đổ sức làm việc 5, 6 năm, anh ấy lại không cam tâm từ bỏ. Nghe xong những lời bất bình của sư huynh, tôi hỏi thêm anh ấy một số thông tin liên quan và từ đó có một số suy luận như sau:

Sư huynh vào công ty năm Canh Ngọ, năm đó 27 tuổi, đại hạn tại Bính Tý.

Đại hạn Bính Tý là cách cục Sát Phá Lang chủ, cách cục này nếu có kị sát tinh dẫn động (ảnh hưởng?) mới xuất hiện khuynh hướng “động”, ngược lại nếu gặp cát tinh thì sẽ chuyển hướng phát triển bình ổn, không có biến động lớn (Tuy có Liêm Trinh hóa kị ở đại hạn nhưng may mắn là không hình thành hung cách (cách cục xấu), nên không có khả năng phát sinh điều dữ. Tuy nhiên, do sự tác động của Liêm Trinh hóa kị, vận thế bình ổn, thuận lợi trước đây sẽ này sinh một chút dao động khiến đương số có ý muốn thay đổi).

Đại hạn tọa quyền hội lộc và đại hạn hóa kỵ tự nhiên (tự nhiên nhi nhiên) sẽ khiến đương số kiên trì hơn người khác trong công việc (?).

Lưu niên Canh Ngọ, chuyển sang cung Thiên Di của đại hạn, can Canh khiến Thái dương hóa lộc và Thiên đồng hóa lộc ở đại hạn, song lộc giáp cung sự nghiệp của lưu niên. Khi lưu niên đến cung vị cường vượng đồng thời cung sự nghiệp lưu niên hình thành cát hóa, tìm được một công việc tốt là chuyện không khó khăn gì (tuy nhiên, năm đầu tiên vào công ty, cũng sẽ vất vả một chút, lưu niên chuyển đến vị trí đại hạn Liêm trinh hóa kị, cung sự nghiệp lưu niên cũng ở cách “ủy khuất” của song kị giáp (gặp hai hóa kị?). Bởi vậy, đương số có thể bình an qua một năm là do ảnh hưởng của cách cục cường vượng tạo ra bởi tam phương chính tứ ở cung Ngọ).

Giáp Tuất lưu niên, khi xưa tôi đoán giải là năm này sẽ có bước tiến tốt trong công việc, lí do như sau:

1. Giáp Tuất lưu niên, chính là rơi vào cung sự nghiệp (Canh Ngọ niên) của năm vào công ty, lực tác động tương hỗ tự nhiên sẽ mạnh.

2. Lưu niên bước vào cung vị cường vượng, năng lực tự nhiên và vận thế đều tốt.

3. Lưu niên thiên can Giáp khiến lưu niên tam phương hình thành cách cục “tam kì gia hội” (三奇加會) 。

4. Thiên can của lưu niên và tiên thiên tương đồng, vì vậy năm này sẽ có tứ lộc cát hội, đồng thời tạo ra những cách cục tốt như Tử Phủ tương hội Tả Hữu, Hỏa Tham…

Đại khái chính vào thời điểm giữa năm Giáp Tuất, sư huynh được cất nhắc và cử sang công ty có liên quan phụ trách tài vụ. Công việc này tuy chức cao nhưng trách nhiệm cũng lớn. Dù sao cũng là một bàn đạp để thăng tiến.

Lưu niên Ất Hợi, sư huynh được công ty cử đi công tác tại Quảng Châu, đại lục, đảm nhiệm chức giám đốc phụ trách tài chính, cả chức vị và lương bổng đều thăng tiến vượt bậc.

(hết trang 55/118).

Lưu niên Ất Hợi, Lộc tồn và Thiên cơ hóa lộc giáp cung sự nghiệp tiên thiên, Thiên cơ hóa lộc và Thái dương hóa lộc can Canh trong năm vào công ty giáp đại hạn cung mệnh. Do sự cường vượng của bản mệnh và đại hạn, đương số sẽ có cơ hội thăng chức.

Nhưng năm này không phải là năm chỉ cát mà không có hung. Lưu niên khi đó rơi vào cung vị yếu thế bị kị sát xung (xung chiếu?) đồng thời hội hung cách (cách cục xấu). Do vậy tôi cho rằng, năm này là năm đương số phải làm việc vất vả, hao tâm tổn trí hơn nhiều so với mấy năm trước đó.

Năm tiếp theo (Bính Tý), sư huynh từ đại lục quay lại Đài Loan nghỉ phép, vừa về đến Đài Loan, liền gọi điện thoại tìm tôi, nói rằng lại muốn tìm tôi xem số giúp. Những vấn đề cần hỏi, anh ấy cũng không nói rõ, chỉ nói là sẽ tìm thời gian đến tìm tôi tại công ty, khi nào gặp mặt sẽ nói cụ thể.

Trong ngăn bàn của tôi tình cờ lại có lá số của sư huynh nên tranh thủ khi anh ấy chưa tới, tôi xem qua lá số của anh. Xưa nay tôi vẫn luôn như vậy, trước khi gặp đương số, thường tranh thủ xem qua lá số của họ, ghi lại những điểm quan trọng, một là để tiết kiệm thời gian khi gặp mặt, hai là tôi nghĩ khi đó tư duy thường rành mạch, chưa bị nhiễu loạn bởi các thông tin. Những điểm tôi ghi lại khi đó là:

(1) công việc: năm Bính Tý cần chú ý, nếu kết giao với người sinh năm 41, dễ có vấn đề trong quan hệ giữa hai người. Nếu qua năm sau thì lại không có vấn đề gì nữa.

(2) hôn nhân: năm 87 dân quốc, dễ có duyên phận quen biết người sinh năm năm 53, 57 dân quốc.

Một ngày sau hôm nói điện thoại, sư huynh của tôi đến công ty giải quyết công việc rồi qua tìm tôi. Sau khi tôi vừa cầm lá số đã lập ra, anh ấy liền hỏi ngay: “Anh cảm thấy tôi tìm việc thì thế nào? Có vấn đề gì không?”.

Sau khi xem xét lại lá số lần nữa, tôi bảo anh, năm nay anh cần chú ý vấn đề quan hệ, cần cẩn thận trong quan hệ với cấp trên và đồng nghiệp. Bởi vì cung Thiên di có hóa kị đồng thời hình thành hung cách mà cung Thiên di chính là đại diện cho những việc này. Còn công việc thì chắc là không có vấn đề gì lớn.

Sư huynh nghe xong lời luận giải của tôi, lập tức trả lời: “Chuẩn! Không sai, hiện nay anh đang bất hòa với cấp trên đây. Hắn ta việc gì cũng soi mói, làm khó dễ, anh chịu hết nổi rồi”.

Nghe xong những lời sư huynh phàn nàn về cấp trên, tôi lại chú mục vào lá số, xem một lúc rồi bảo anh: “nếu mà cấp trên của anh là người sinh năm 41, thì anh cần cẩn thận đấy”.Sư huynh lập tức đáp lời tôi bằng một giọng vừa ngạc nhiên và kinh hoàng: “đúng đấy, cấp trên của tôi đúng là sinh năm 41. Sao mà trùng hợp thế nhỉ?”. Tôi bảo: “Vậy sau khi anh quay lại đại lục, anh cần phải chú ý xử lý mâu thuẫn giữa hai người nhé. Nếu không, làm việc mà không vui vẻ với nhau, đến mức phải bỏ việc thì lợi bất cập hại. Có nhiều việc trùng hợp như vậy đấy, gặp rồi thì chịu vậy thôi, biết sớm như thế thì anh có thể chuẩn bị tâm thái cho mình. Qua năm nay thì mọi việc sẽ ổn cả, làm thế nào là do anh.” Cuối cùng, tôi khuyên sư huynh như vậy.

Tiếp theo, chúng tôi cùng nhau xem xét, tại sao năm Bính Tý, sư huynh lại gặp khó khăn trong quan hệ.

1. Lưu niên Bính Tý rơi vào cung đối với cung Ngọ. Cung Ngọ này là năm đương số vào công ty (Canh Ngọ). Nói một cách khác, cung vị năm nay là “cung Thiên di” của năm vào công ty. Khi lưu niên chạy đến một cung vị có ít nhiều liên quan đến cung Thiên di của việc vào công ty (nguyên văn: 當流年走到這個與公司遷移不無關係 宮位時), nếu năm nay phát sinh vấn đề trong quan hệ với cấp trên, lực tác động tương hỗ giữa các cung vị này đương nhiên sẽ không phải là nhỏ.

2. Lưu niên Bính Tý chạy đến cung Mệnh của đại hạn, tứ hóa và đại hạn giống nhau, Bính Tý Liêm trinh hóa kị vừa khéo ở vận hạn này, cùng với cung Thiên di của lưu niên và lưu niên Kinh dương tọa thủ cung Ngọ, khiến cho vận hạn thiên di hình thành hung cách “hình nhân giáp ấn” (刑囚夾印 )

3. Cung Thiên di của đại hạn và lưu niên này tuy là cách cục lớn (Tử Tướng triêu đàn, đồng thời hội Tả Hữu, thêm Lộc Quyền Khoa), về lý, quan hệ giao tế, thậm chí là quan hệ với cấp trên sẽ phát triển theo hướng tốt, chính diện nhưng do bị Liêm trinh hóa kị phá nên những hung cách “hình nhân giáp ấn”, “Linh Xương Đà Vũ’, “Vũ khúc, Hỏa tinh” đều ẩn chứa nhiều mối họa.

4. Cung Thiên di của lưu niên và đại hạn đã hình thành hung cách. Nếu hung cách này bị dẫn động bởi việc tiếp xúc với cấp trên hoặc cấp dưới, hoặc tọa nhập vào cung vị không thực sự tốt thì trong quan hệ của đương số ở đời thực tất nhiên sẽ nảy sinh những điều không như ý.

Chú thích:

(1) Khi cung Thiên di tốt, cung vị nhập quái của những người liên quan cũng tốt: do quan hệ tương hỗ tốt, quan hệ của đương số và những người đó cũng sẽ là quan hệ tương trợ, giúp đỡ nhau.

(2) Khi cung Thiên di tốt, cung vị nhập quái của những người liên quan không tốt: đương số sẽ cảm thấy làm việc với người này vất vả, nhiều ý kiến này nọ, nhưng nhìn chung cũng sẽ không có hiện tượng xấu.

(3) Khi cung Thiên di không tốt, cung vị nhập quái của những người liên quan tốt: trong môi trường khó khăn, đương số vẫn sẽ tìm được bạn tốt.

(4) Khi cung Thiên di không tốt, cung vị nhập quái của những người liên quan cũng không tốt: đương số không chỉ gặp khó khăn trong việc tìm bạn, tìm người phù trợ mà càng tiếp xúc lâu xung đột giữa đôi bên sẽ càng lớn.

Dựa vào lý do gì tôi cho rằng cấp trên của sư huynh có lẽ là người sinh năm 41, khiến hai người nảy sinh xung đột trong công việc? Nguyên nhân kì thực rất đơn giản, như sau:

1. Tất cả những hiện tượng bất hòa với cấp trên trong lưu niên và đại hạn Bính Tý, chưa vội để ý tới năm sinh của “nhập quái”, thì theo như đã nói ở trên, chúng ta có thể xác định cung Ngọ là một vị trí hung (xấu) để cho những hiện tượng như vậy xảy ra. (?)

(Hết trang 57/118)

2. Nếu chúng ta nhập vào lá số dữ kiện năm sinh của cấp trên, thiên can hóa kị của ông ấy chắc sẽ cùng cung đối với cung Ngọ tạo ra hiện tượng xấu. Chỉ có như vậy, giữa hai người mới có thể có hiện tượng xung khắc, bất hòa, phù hợp với tình hình thực thế của đương số.

3. Năm sinh có thể tạo ra quan hệ tương tác mạnh nhất nên xuất hiện tại cung vị tam hợp phương của lưu niên hoặc vận hạn. Nếu như vậy thì những năm sinh có khả năng cao nhất phải là những năm nhập quái tại cung Tý (năm 49 dân quốc), cung Thân (năm 45), cung Ngọ (năm 43) và cung Thìn (năm 41).

4. Tổng hợp 3 điểm nêu trên, tôi thấy năm sinh 41 dân quốc (năm Nhâm Thìn) là có khả năng cao nhất vì:

(1) Can Nhâm trong năm sinh 41 dân quốc có Vũ khúc hóa kị xung với cung Ngọ.

(2) Người sinh năm Nhâm Thìn nhập cung Thìn trên lá số (của đương số?). Cung này vừa là cung Thiên di của lá số tiên thiên, vừa là cung quan lộc của vận hạn. Như thế tác động của nó tới quan hệ của đương số và cấp trên trọng vận hạn này cũng sẽ khá mạnh.

(3) Người sinh năm Nhâm Thìn nhập cung Thìn, đối xứng với cung mệnh tiên thiên của đương số. Can Nhâm Vũ khúc hóa kị tại Tuất. Nếu thêm yếu tố Đà La trong lưu niên của người sinh năm Nhâm vào lá số thì sẽ khiến cung Mệnh tiên thiên của đương số tạo thành hung cách Linh Xương La Vũ. Hung tính này sẽ khiến đương số và người sinh năm Nhâm khó duy trì quan hệ hòa hợp.

(4) Cung Thìn có cách cục Xương Tham Khúc Tham, một khi lại gặp sao Hóa kị thì vị cấp trên này sẽ thường có những hành vi, mệnh lệnh và chính sách mà cấp dưới không ngờ tới được.

(5) Giả thiết vị cấp trên này nhập quái ở cung Thìn. Như thế, Tham lang trong cung mệnh (Thìn) của ông ta sẽ vừa khéo kết hợp với Văn xương trong cung mệnh tiên thiên của đương số (Tuất) tạo thành cách cục Xương Tham. Ý nghĩa của cách cục này cũng là: nếu hai người kết hợp trong công việc sẽ dễ phát sinh mâu thuẫn.

(6) Cung thiên di của vận hạn là hung cách, cung nhập quái của chủ quản cũng tạo ra cách xấu “Linh Xương La Vũ”. Hai cung có ý nghĩa quan trọng nhất trong mối quan hệ giữa đương số và cấp trên đều rơi vào thế xấu, tất nhiên mối quan hệ này sẽ nảy sinh vấn đề.

Sang đại lục để phát triển sự nghiệp, hi vọng có thể tích lũy nhiều kinh nghiệm, phát huy sở trường, không ngờ lại gặp phải một vị chủ quản khắc tinh, khiến cho mình bị bó buộc chân tay, không có đất dụng võ… Cần làm gì để đối phó với những việc sẽ phát sinh trong tương lai, có thể qua năm Bính Tý một cách yên ổn hay không là những vấn đề hiện nay sư huynh đang mong mỏi được biết. Lá số có nói lên điều gì? Nên luận giải chúng như thế nào? Dưới đây người viết xin nêu ra một số thiển ý như sau:

(Hết trang 58)

CUNG VỊ TRỌNG ĐIỂM

Xét cả quá trình từ khi sư huynh vào công ty đến lúc phát sinh mẫu thuận với cấp trên như hiện nay, sau khi nhập thêm dữ liệu là các năm sinh có liên quan, có thể thấy, hai cung vị có sức dẫn động mạnh nhất là cung Ngọ và cung Tuất. Do vậy, để phán đoán các bước phát triển tiếp theo trong công việc hiện nay của đương số, tôi cho rằng, cung Ngọ và cung Tuất chính là hai cung vị trọng điểm để suy ngẫm.

1. Cung Ngọ:

(1) Cung Ngọ là cung đương số vào công ty (Canh Ngọ).

(2) Cung Ngọ là cung thiên di của đại hạn Bính Tý. Cung thiên di đại diện cho duyên phận của đương số với công ty. Nếu cung thiên di cường vượng, đồng thời cùng với mệnh cung của vận hạn hình thành những cách tốt, chính diện thì tất nhiên đương số sẽ tận tâm tận lực với công ty. Nhưng nếu cung thiên di yếu hiểm đồng thời cùng với cung mệnh tạo thành hung cách, e rằng phải thắp hương niệm Phật mới có thể có được một kết cục tốt đẹp!

(3) Lưu niên Giáp Tuất, đương số được điều đến xí nghiệp có liên quan, Can Giáp của năm này khiến cho cung Ngọ, vốn có nhiều cách tốt lại một lần nữa tạo thành cách tốt “Tam kì gia hội”. Trong năm mà cung Ngọ – đại diện cho công ty- ở vào thế tốt như vậy, tất nhiên sẽ có những bước tiến tốt.

(4) Lưu niên Bính Tý, can Bính lại khiến cung Ngọ hình thành hung cách. Do đó phát sinh việc bất hòa với cấp trên.

(5) Ngọ cung là tam hợp phương với cung Mệnh của lưu niên, đại vận và tiên thiên, sức ảnh hưởng của nó đương nhiên không nên bỏ qua.

2- Cung Tuất:

(1) Cung Tuất là cung mệnh, thân tiên thiên.

(2) Cung Tuất là cung sự nghiệp lưu niên của năm vào công ty.

(3) Trong năm vào công ty (Canh Ngọ), cung Tuất được Thiên đồng hóa lộc của can Bính đại hạn và Thái Dương hóa lộc của can Canh lưu niên đến giáp, phù.

(4) Lưu niên giáp Tuất, đương số được điều đến xí nghiệp khác, cũng khiến cho cung Tuất hình thành đại cách cục “Quân thần khánh hội” do tam lộc hội kết hợp với tam kỳ gia hội. (?)

(5) Lưu niên Bính Tý, đương số và cấp trên nảy sinh bất hòa, lúc này cung Tuất cũng hình thành các hung cách như “Linh Xương La Vũ’, “Hình nhân giáp ấn”…

(Hết trang 59/118).

(6) Vị cấp trên sinh năm Nhâm Thìn cũng ứng với cung đối với cung Tuất. Thiên can Vũ khúc hóa kị và lưu niên Đà la của vị cấp trên cũng khiến cung Tuất sinh hiện tượng xấu (hung tượng).

Dưới đây, chúng ta cùng xem xét sự biến hóa của tứ hóa trong những lưu niên tiếp theo của cung Ngọ và cung Tuất, dựa vào cách cục của nó và sự dẫn động của tứ hóa để suy luận ra kết quả.

1. Tam phương tứ chính của cung Ngọ và cung Tuất có rất nhiều cách cục. Về các cách tốt, có các cách sau: tam phương có đại cách cục “Quân thần khánh hội” Tử Phủ Tướng hội Tả Hữu Xương Khúc, “Song Lộc giao trì”, Hỏa Tham, Linh Tham, Lộc Quyền Khoa- “Tam kỳ gia hội”. Về hung cách, tuy tàng ẩn có các cách cục Linh Xương La Vũ, “Hình nhân giáp ấn”, Xương Tham, Khúc Tham v.v. nhưng cân chú ý, nếu như không có các sát tinh và hóa kị đặc thù dẫn động, những “hung cách có tính tàng ẩn” này trái lại sẽ có tính chất kiên trì, bền gan (百折不撓), càng lay chuyển càng mạnh (愈挫愈勇)。Cũng chính vì ảnh hưởng của những hung cách này, sư huynh mới dám một mình đi đến nơi đất khách quê người để lập làm việc (những chi nhánh mới xây dựng ở đại lục, ngoài mấy vị lãnh đạo là người Đài, công nhân viên đều là người bản địa.)

2. Năm Ất Hợi, được cử sang đại lục, năm này tuy lưu niên Kình dương và Đà la có ảnh hưởng không tốt tới cung Ngọ và cung Tuất. May thay, tam phương của Ngọ và Tuất lại có các cách cục cường vượng. Thêm vào đó, lưu niên cũng không chạy đến cung vị tam hợp phương, Ất Ngọ Thái âm hóa kị cũng không gây sóng gây gió nên không tạo ra những ảnh hưởng quá bất lợi.

3. Năm Bính Tý, can Bính lưu niên Kinh dương và Đà la khó có khả năng liên tục tạo ra yếu tố xấu nhưng Liêm trinh hóa kị lại dẫn động hung cách, rơi vào các cung vị tam hợp phương (??) nên đương số sẽ từ bỏ công việc này hay không, năm nay sẽ có quyết định. Nhưng theo tôi, có lẽ đương số nên tiếp tục làm công việc này, bởi vì:

(1) Nếu xét những lưu niên tiếp theo- Đinh Sửu, Mậu Dần, Mão, Canh Thìn- hóa kị trong những thiên can này sẽ không dẫn động (ảnh hưởng xấu?) đến hai cung Ngọ, Tuất. Điều này cung có nghĩa là, hung tính cũng chỉ ở hai năm Ất Hợi và Bính Tý mà thôi. Khả năng xảy ra sự dẫn động liên tục của các yếu tố xấu (hung tượng) thấp.

(2) Cung Ngọ và Tuất bản chất vẫn là những cung vị có các tổ hợp mạnh (cường vượng), tự nhiên nhi nhiên sẽ có thể chịu được sự tác động của một số yếu tố xấu.

(3) Nếu xét thêm dữ kiện: can Canh của năm vào công ty (Canh Ngọ) có Thái Dương hóa lộc, sẽ thấy lưu niên Bính Tý, cung vị xấu nhất vẫn có song lộc Thái DươngThiên Đồng đến phù trợ.

(4) Nếu xét thêm các dự kiện: bất hòa với cấp trên, năm sinh của cấp trên, sẽ thấy người sinh năm 41 dân quốc vào can Nhâm có Vũ khúc hóa kị tạo ra yếu tố xấu ở hai cung Ngọ, Tuất nhưng bù lại, lại có Thiên lương hóa lộc và Lộc tồn của lưu niên Bính Tý cùng phù trợ cung Ngọ.

(5) Tuy vào can Bính, Liêm trinh hóa kị ảnh hưởng xấu tới cung mệnh của đại hạn và cung phúc đức tiên thiên, khiến đương số tổn hao tâm lực nhưng nếu chúng ta nhập vào lá số hai sao Thiên Khôi và Thiên Việt của vị thủ trưởng sinh năm 41, sẽ thấy Khôi Việt giáp với cung sự nghiệp của vận hạn và cung thiên di tiên thiên. Do đó không thể phủ nhận, vị thủ trưởng hiện nay cũng không phải là người cạn tàu ráo máng, hành xử vô tình.

(Hết trang 60/118).

(6) Thiên di Hóa kị của lưu niên và đại hạn Bính Tý, cung sự nghiệp không có Hóa lộc, đương số cũng không dễ dàng tìm được công việc bên ngoài mà công việc hiện nay đã làm gần 7 năm trời. Vậy tôi tin rằng đương số, người vốn suy nghĩ cặn kẽ do Xương Khúc tọa mệnh và có năng lực phán đoán của Hỏa Tham, Linh Tham chắc sẽ biết kìm nén bản thân.

Các nhân viên làm việc ở lục địa vốn luôn vất vả và cô đơn, mức sống ở lục địa lại thấp hơn ở Đài Loan… những gì sư huynh phải chịu đựng, đám người ngồi tại văn phòng công ty ở Đài Bắc như chúng tôi đúng là khó lòng thấu hiểu hết. Tuy nhiên được cắt cử sang đại lục tức là năng lực của mình đã được nhìn nhận, dù trước mắt công việc có chút áp lực nhưng cũng không nên từ bỏ, nếu sẽ bị thiệt hại, không chỉ là về tiền bạc. Cuối cùng, tôi muốn dùng khẩu hiệu của công ty để nói với sư huynh: “có vất vả mới có thể cầu tiến”.

VẤN ĐỀ CỦA THẦY: MỘT BỨC THƯ CỦA ĐỘC GIẢ TỪ HONGKONG

Xuất bản sách tử vi, ngoài việc có thêm nguồn nhuận bút ít ỏi, việc khiến tôi vui nhất chính là có thể kết giao với nhiều người ham thích tử vi từ khắp nơi.

THỜI VẬN KHÔNG ĐỦ: THIÊN LÝ MÃ NAN QUÁ BÁ LẠC

TÌNH THÂM DUYÊN CẠN: MỐI TÌNH ĐẦU CỦA ÔNG THÁI

Quyển 2: Phép nhập quái

1. Người

2. Vật

ĐOÁN SỐ MẠN ĐÀM: CÁCH VẬN DỤNG PHÉP NHẬP QUÁI

KẺ VÔ ƠN: ÔNG TRƯƠNG BỎ NHÀ BỎ CON

PHONG THỦY NƠI Ở: TỪ LÁ SỐ XEM MÔI TRƯỜNG CHỖ Ở

Tử vi đẩu số hỉ kỵ thần đại đột phá Sở Hoàng

CHƯƠNG 3 MỆNH CHỦ TINH LUẬN

Như thế nào gọi là mệnh chủ? Mệnh chủ là căn cứ mệnh cung đóng tại địa bàn nào mà suy ra.

Địa chi:

Địa bàn===…tý……/ Sửu –hợi/Dần-tuất/Mão-dậu./Thìn-thân/Tỵ -mùi/Ngọ

Sao MC===Tham lang/Cự môn./Lộc tồn./Văn khúc/Liêm trinh/Vũ khúc/Phá quân

Mệnh chủ là nội dung đặc thù của đẩu số học, nó xét nhân mệnh,hướng âm trạch, dương trạch,bất kể thư tịch cổ hay mới gần đây đều lược bỏ, không đề cập, chỉ có bảng trên.

Theo phép hỷ kỵ gia truyền của bút giả, mệnh chủ là cánh cửa, căn cứ tính chất mênh chủ,rất dễ dàng suy ra ngũ hành hỷ kỵ thần của mệnh.

Thật đáng tiếc, đáng tiếc. Ngàn năm sau sự ứng dung mệnh chủ do ko ai công khai mà phép đoán mệnh như trên, thường cần phối hợp với bát tự

Bút giả gần đây được đồng đạo khích lệ công khai bí pháp với độc giả.

Dưới đây,bút giả cùng độc giả đàm luận ý nghĩa và ứng dụng mệnh chủ:

1. Tham lang: ở đây là tham lang, mệnh chủ tham lang và mệnh lý cũng là tham lang,ý nghĩa đại kỳ dị, khác xa, ko đồng nhất.

Tham lang là mệnh chủ có ý nghĩa biểu thị cục số mệnh cung đại cát đai lợi, vậy ý nghĩa của đại biểu ngũ hành tham lang là sinh khí.

Ở hỷ kỵ pháp trên thời sinh khí tham lang, lấy bỏ ngũ hành cường nhược ứng với ngũ hành cục số làm trọng.

Ví dụ: nữ sỹ 24 năm tháng 2 ngày 10 giờ mão

mệnh cung tại mậu tý đắc thiên đồng thủy,thái âm hóa kỵ, linh hỏa tinh tại nhâm ngọ cung vcd

Ngũ hành cục của bản mệnh là hỏa lục cục, mệnh cung địa bàn tại Tý đắc tham lang sinh khí, cho nên mệnh này ứng với hỏa là trọng, lại giả thử mệnh là tháng 2 sinh, bởi vì có thể nói người hỏa tháng 2 tọa tý cung, tức thủy cung có thủy tinh, bởi vậy mệnh này ứng với thổ là hỷ, thổ chế thủy, do đó kết luận thổ là hỷ thần, lại còn nếu mệnh chủ với hỏa lục cục, thì hỏa là dụng thần, kỵ thần là thủy và mộc.

Đấy là vận dụng giản lược hỷ kỵ đẩu số pháp.

Ý nghĩa mệnh chủ trên đẩu số, đó là nguyên nhân sâu từ phong thủy học.

Trong phong thủy học, hướng cát hung hoàn toàn theo cửu tinh mà định

Thế nào gọi là cửu tinh? cửu tinh đó là căn cứ hà đồ lạc thư như sau:khảm 1, khôn 2, chấn 3, tốn 4, trung cung 5,càn 6,đoài 7, cấn 8, ly 9.

4 9 2

3 5 7

8 1 6

Đấy là đồ hình cơ bản của cửu tinh,sau đó độn số tinh của mỗi năm vào trung cung, vận chuyền thứ tự theo đồ hình.

Do phong thủy học trên định nghĩa tham lang như sau:nếu bản mệnh năm là quái tốn,tham lang sinh khí biểu thị hào thượng bất đồng, hào trung, hạ bất biến, như vậy tất thành quái khảm. Khảm thuộc bắc,hướng bắc tất được tham lang sinh khí.

Cả ba hào biến tất được chấn quái, tức vũ khúc diên niên thượng cát.

Hai hào trung hạ bất đồng, hào thượng ko biến tất được ly quái, tức cự môn thiên y trung cát.

Lại cả 3 hào ko biến tất được tốn quái, tức phụ bật, phục vị tiểu cát.

Ngược lại thượng trung hào bất đồng, hạ hào ko biến thời được quái khôn, tức liêm trinh ngũ quỷ đại hung.

Hào dưới bất đồng, hào thượng trung ko biến tất được càn quái lộc tồn họa hại

Nếu như hai hào trên dưới bất đồng, hào giữa ko biên, tất được đoài quái, văn khúc lục sát cũng hung

Phong thủy học hoàn toàn căn cứ vào can chi năm để định hướng cát hung, mục đích cần vượng, tức khả năng tìm hỷ kỵ thần, định hướng cát hung,mà không phối hợp tháng ngày giờ tổng luận bát tự ngũ hành cường nhược.

Rất ảo diệu do số cửu tinh định hướng cát hung, thường tổng luận bát tự cũng định hướng cát hung tương đồng, với lỷ lệ trên 80%.

Bởi vì độc giả ứng dụng phép hỷ kỵ trước đây, tất trước hết có lời giải đối với cửu tinh hay hướng cát hung, sau đó tài năng tự vận dụng như đối với hỷ kỵ pháp.

Đồng thời cũng nên căn cứ phép này kiểm tra ngũ hành hỷ kỵ thần có chính xác hay không theo hỷ kỵ pháp.

Cho nên, tổng luận phong thủy học, ý nghĩa tham lang,vũ khúc liêm trinh …..là ứng dụng mệnh chủ tham lang, vũ khúc, liêm trinh ….

1.mệnh chủ đắc tham lang, ko quản ngũ hành cục số, đắc thủy nhị cục hay mộc tam cục hay hỏa lục cục,bởi hỷ kỵ pháp trên ứng với ngũ hành cục số làm trọng.

2.mệnh chủ đắc vũ khúc là thượng cát, cùng với tham lang tương đồng

3.mệnh chủ đắc cự môn là cát, cùng với tham lang tương đồng.

4.mệnh chủ đắc lộc tồn, ko ứng với ngũ hành cục số.

5.mệnh chủ đắc văn khúc, cũng ko ứng với ngũ hành cục, giống như lộc tồn

6.mệnh chủ đắc liêm trinh, giống như lộc tồn 1 dạng ko ứng với ngũ hành cục làm trọng

cuối cùng, bút giả chủ yếu thuyết minh ngũ hành cục số, mệnh chủ đắc hung như liêm trinh,lộc tồn,văn khúc, vì sao ko lấy ngũ hành cục là trọng, mà lấy sao chính tinh trong cung làm trọng?

Trước bút giả đã nói ý nghĩa mệnh chủ, cách thiết lập mệnh chủ, nếu mệnh chủ đắc hung, thì đương nhiên ngũ hành cục số ko là ngũ hành hỷ thần.

(tvn lược dịch)

Đệ tứ chương: tử bình suy mệnh thuật ngũ hành thủ xả đích nguyên tắc

A. Hành Mộc:

1. Hành Mộc của tháng Giêng: Khí của tháng Giêng, mùa Xuân mới bắt đầu nên khí hàn lạnh vẫn còn, phải dùng Hỏa (lửa) để sưởi ấm khí Thủy (nước), để dưỡng căn cơ của Mộc non; có thể dùng Thổ nhưng không được quá nhiều, Kỵ nhất bị Kim làm tổn thường mầm non của Mộc.

2. Mộc của tháng Hai: Khí của tháng Hai, khí lạnh bắt đầu diệu bớt nên có Hỏa là quý, thứ đến là Thủy, hoặc có thể dùng Thổ để điều tiết, Kỵ Kim khắc mầm non của Mộc.

3. Mộc của tháng Ba: Khí của tháng Ba, Dương khí bắt đầu nóng nên cần phải có Thủy, nhưng Thủy, Hỏa cần phải dung hòa thích nghi. Nếu Mệnh trong lá số thiếu khí Hỏa, thì Hỉ Kim (mừng gặp được Kim); trên nguyên tắc Kỵ gặp Kim quá mạnh.

4. Mộc của tháng Tư: Khí của tháng Tư, khí Hỏa bắt đầu vượng mà khí Mộc bắt đầu suy, nên Hỉ Thủy nhuận căn (mừng gặp Thủy để tưới nhuần gốc mộc), kỵ gặp nhiều Hỏa, nhưng bất hỉ táo Thổ (gặp đất khô không hay), nếu Thổ ướt thì vô hại. Mừng gặp được Kim để tạo thành nguồn nước (vì Kim sinh Thủy).

5. Mộc của tháng Năm: Khí của tháng Năm, khí Hỏa cực thịnh gốc khô lá già, rất cần nhiều Thủy để dưỡng gốc (Mộc). Kỵ Hỏa vượng ví như tự thiêu mình, Thổ ít thì được, Thổ nhiều biến thành tai họa. Mừng gặp được Kim để tạo thành nguồn nước, nên Mộc của tháng Năm phải nghiêng về điều Hậu (điều tiết khí hậu).

6. Mộc của tháng Sáu: Khí của tháng Sáu, Hỏa khí tuy suy nhưng khí nóng còn vượng, song Kim khí bắt đầu thịnh. Tiết (Tiểu Thử) của tháng Sáu Hoả (nhiệt), Thổ (khô) vẫn còn táo, nhiệt, Hỉ gặp Kim, Thủy (mừng gặp Kim, Thủy) để tưới nhuần đất (Thổ).

7. Mộc của tháng Bảy: Khí của tháng Bảy, Hỏa khí còn rất ít, Kim thì đang vượng nhưng Mộc đã trưởng thành, phải dùng Dương Kim để gọt đẽo thành khí dụng. Tuy nhiên, Kỵ Kim quá mạnh, trường hợp nầy Hỉ gặp Hỏa (mừng gặp Hỏa để chế bớt Kim), nhưng tốt nhất gặp được Mộc để phụ Hỏa, Kỵ Thủy diệt Hỏa.

8. Mộc của tháng Tám: Khí của tháng Tám, Âm Kim cực vượng, Hỏa khí đã chết, Kim vượng thì Mộc đã Suy, Hỉ Hỏa lại gặp Mộc, vì khí hậu bắt đầu hàn (lạnh) tối qúy có Hỏa điều thân (Mộc); nếu Mộc mà gặp Thủy sinh thì thành cường vượng (vì Kim sinh Thủy để Thủy sinh Mộc), Thủy, Mộc nhiều thì Hỉ Kim (mừng gặp Kim để chế bớt Mộc).

9. Mộc của tháng Chín: Khí của tháng Chín, Hỏa khí đã nhập Mộ, Kim khí đến hồi suy, hàn (lạnh) nhiệt thì điều hòa thích nghi. Mộc của tháng chín đã tiêu tàn, khí Mộc lại yếu nên thích Hỉ Thủy sinh trợ, mà gặp thêm Mộc. Nếu Thủy sinh trợ đúng lúc, thì khả dĩ lấy Hỏa. Tối Kỵ Thổ Tinh khắc Thủy, lại Kỵ Kim quá mạnh.

10. Mộc của tháng Mười: Khí của tháng Mười, Hỏa khí đã Tuyệt, Thủy khí Lâm Quan, Kim khí thì Bệnh, Mộc khí Tràng Sinh, nên Mộc cần nhất gặp Hỏa, và lấy Thổ ngăn Thủy là thượng sách.

11. Mộc của tháng Mười Một: Khí của tháng Mười Một, Hỏa khí nhập Thai, Thủy khí thì Đế Vượng, Kim khí đã Tử, Mộc khí thì Mộc Dục, nên Hỉ gặp Hỏa, thứ đến là Kim, Thủy vượng thì Mộc bị úng, Hỉ gặp Thổ để ngăn Thủy.

12. Mộc của tháng Mười Hai (ở cung Sửu): Khí của tháng Mười Hai, khí hậu rất hàn (lạnh), Mộc khí nhập Quan Đới, Kim khí nhập Mộ, Thủy và Thổ cực vượng, nên nhất định phải có Hỏa để giải tỏa hàn băng, thứ đến là Hỉ Kim, hoặc gặp Mộc cũng nên.

B. Hành Hỏa:

1. Hỏa của tháng Giêng: Khí của tháng Giêng, Mộc khí Lâm Quan, Hỏa khí Tràng Sinh, Thủy khí đã Bệnh, Hỏa rất mừng (HỈ) gặp Thủy, Mộc rất mừng (HỈ) gặp Kim để tiết khí. Hỉ (mừng) Mộc gặp Thủy trợ giúp nhưng không được qúa vượng.

2. Hỏa của tháng Hai: Khí của tháng Hai, Mộc khí Đế Vượng, Hỏa khí Mộc Dục, Thủy khí đã Tử, Hỉ Thủy (mừng gặp được Thủy), lại thích (Hỉ) Kim sinh Thủy để. Nhưng không thích Thủy quá mạnh, khắc Hỏa.

3. Hỏa của tháng Ba: Khí của tháng, Ba Mộc khí đã Suy, Hỏa khí Quan Đới, Thủy khí nhập Mộ, nên lấy Thủy để dùng (dụng Thần), nếu Thổ nhiều thì Hỉ Mộc để chế bớt hay tiết giảm, Hỏa mạnh thì Hỉ (mừng gặp) Kim, Thủy.

4. Hỏa của tháng Tư: Khí của tháng Tư, Hỏa khí Lâm Quan, Mộc khí đã Bệnh, nên Hỉ Thủy để tránh tự thiêu đốt lấy mình, nếu gặp Mộc tương trợ thì sinh nguy (vì Hỏa sẽ trở nên quá vượng), nếu không có Thủy mà gặp Thổ thì Thổ sẽ trở thành quá khô nên vô ích, nếu lại gặp thêm Mộc tương trợ thì càng nguy.

5. Hỏa của tháng Năm: Khí của tháng Năm, Hỏa khí Đế Vượng, Mộc khí đã Tử, Kim khí thì Mộc Dục, Hỏa của tháng Năm cực vượng, tối Hỉ gặp Kim, Thủy, nếu gặp Thổ ngăn Thủy, thì Kỵ Mộc tương trợ Hỏa.

6. Hỏa tháng Sáu: Khí của tháng Sáu, Hỏa khí đã Suy, Mộc khí vào Mộ, Kim khí thì Quan Đới, Thủy khí ở Dưỡng, tháng Sáu vẫn còn nóng nên cũng Hỉ (mừng gặp) Thủy để đắc dụng, thứ đến là Kim (vì Kim sinh Thủy), Kỵ gặp Thổ mà không có Thủy, tệ nhất là gặp Hỏa và Thổ vì Hỏa và Thổ quá nóng quá khô.

7. Hỏa tháng Bảy: khí của tháng Bảy, Kim khí Lâm Quan, Hỏa khí Bệnh, Thủy khí Tràng Sinh, Mộc khí đã Tuyệt, nên Hỏa khí của tháng Bảy đã thối dần, Hỉ (mừng gặp) Mộc trợ giúp, Kỵ gặp Thủy khắc sẽ thành tai họa, nếu Thổ quá nhiều sẽ thoát khí Hỏa, còn Kim quá nhiều sẽ mất thế của Hỏa (vì Kim sinh Thủy khắc Hỏa), nếu gặp được Hỏa thì có lợi.

8. Hỏa tháng Tám: Khí của tháng Tám, Kim khí Đế Vượng, Hỏa khí đã Tử, Thủy khí thì Mộc Dục, Mộc khí vào Thai, nên Hỏa khí của tháng Tám đã gần tàn, được Mộc sinh Hỏa là cực sáng, Kỵ Thổ nhiều và Thủy khắc thì thế (khí thế) của Hỏa sẽ lâm nguy!

9. Hỏa của tháng Chín: Khí của tháng Chín, Thủy khí Quan Đới, Hỏa khí nhập Mộ, Kim khí đã Suy, Mộc khí vào Dưỡng, Hỏa khí của tháng Chín đã tàn, tối Kỵ gặp Thổ, Hỉ Mộc khắc Thổ trợ Hỏa, Hỉ gặp lại Hỏa.

10. Hỏa của tháng Mười: Khí của tháng Mười, Thủy khí Lâm Quan, Hỏa khí đã Tuyệt, Kim khí thì Bệnh, Mộc khí đã Tràng Sinh, Hỏa khí của tháng Mười đã tuyệt tích, Hỉ Mộc Sinh vì được cứu, Kỵ gặp Thủy khắc là tai ương, gặp Hỏa thì lợi, hoặc gặp Thổ chế Thủy thì vinh.

11. Hỏa của tháng Mười Một: Khí của tháng Mười Một, Hỏa khí vào Thai, Thủy khí Đế Vượng, Mộc khí Mộc Dục, nên Hỏa của tháng Mười Một cũng tuyệt tích, Hỉ gặp Mộc, Hỏa, Kỵ gặp Kim, Thủy.

12. Hỏa của tháng Mười Hai: Khí của tháng Mười Hai, Hỏa khí vào Dưỡng, Thủy khí đã Suy, Thổ là hàn Thổ hay Thổ ướt, Mộc khí thì Quan Đới, nên Hỏa của tháng Mười Hai Thiên hàn Địa lạnh, Hỏa thế cực yếu, Hỉ Mộc, Hỏa trợ, Thổ nhiều thì bất Hỉ, Kỵ Kim, Thủy.

C. HÀNH THỔ:

1. Thổ của tháng Giêng: Khí của tháng Giêng, Hỏa khí Tràng Sinh, Mộc khí Lâm Quan, Kim khí vào Bệnh, nên Thổ của tháng Giêng Thổ hàn (khí lạnh) đang giảm, khí thế cô hư, vô dụng, Hỉ Hỏa sinh phù, Kỵ Mộc khắc chế thái quá, Kỵ Thủy tràn lan, Hỉ Thổ phù trợ. Được Kim chế Mộc là cát tường, nếu Kim đa (nhiều) thì khí Thổ bị Bệnh.

2. Thổ của tháng Hai: Khí Thổ của tháng Hai, Hỏa khí Mộc Dục, Mộc khí Đế Vượng, Kim khí vào Tử, nên Thổ của tháng Hai khí thế vẫn cô hư, vô dụng, Hỉ Hỏa sinh phù, gặp Thổ tỷ trợ là tốt, gặp Mộc nhiều thì Hỉ Kim chế Mộc.

3. Thổ của tháng Ba: Khí Thổ của tháng Ba, quý Thổ đương Lệnh (vượng), Hỏa khí Quan Đới, Mộc khí vào Suy, Thủy khí thì nhập, Hỉ Hỏa sinh phù, nếu quý Thổ quá vượng lại Kỵ gặp Mộc chế Thổ, vì Thổ Trọng thì Mộc bị gãy, nên Thổ vượng thì cần Kim để hoá, Hỏa thái Vượng thì Hỉ Thủy chế Hỏa.

4. Thổ của tháng Tư: Khí Thổ của tháng Tư, Hỏa khí Lâm Quan, Kim khí Tràng Sinh, nên Thổ của Nhật, Nguyệt, tối Kỵ Thổ táo (khô), được Thủy nhuận tưới là tốt (Hỉ Thủy), Mộc trợ Hỏa thì viêm (quá nóng) dù Thủy khắc cũng vô hiệu, nên lấy Kim để sinh Thủy chế Mộc là tốt.

5. Thổ của tháng Năm: Khí Thổ của tháng Năm, Hỏa khí Đế Vượng, Kim khí Mộc Dục, Thủy khí vào Thai, nên Thổ của tháng Năm Hỏa, Thổ qúa nóng quá khô, Hỉ Thủy và Kim sinh trợ, Kỵ Mộc trợ Hỏa thương thân (Mộc khắc Thổ, và Mộc sinh Hỏa thì Thổ trở thành táo khô), lại Kỵ Hỏa, Thổ khô táo.

6. Thổ của tháng Sáu: Khí Thổ của tháng Sáu, Hỏa khí đã Suy nhưng vẫn còn nóng, Thủy khí vào Dưỡng, Kim khí Quan Đới, nên Thổ của tháng Sáu khí thế vẫn còn táo khô, vẫn Kỵ Hỏa trợ thành táo khô, Hỉ Thủy và Kim sinh trợ.

7. Thổ của tháng Bảy: Khí của tháng Bảy, Kim khí Lâm Quan, Hỏa khí vào Bệnh, Thủy khí thì Tràng Sinh, nên Thổ của tháng Bảy, Thổ suy Kim vượng, Kỵ nhiều Kim sẽ cướp mất khí của Thổ (vì Thổ bị tiết khí), Hỉ Hỏa phù Thổ và chế Kim, được Thổ tỷ trợ là cực tốt, nếu Mộc nhiều vẫn Hỉ Kim chế Mộc.

8. Thổ của tháng Tám: Khí của tháng Tám, Kim khí Đế Vượng, Thủy khí Mộc Dục, Hỏa khí vào Tử, vẫn là Thổ Suy, Kim vượng, nếu hàn (lạnh) khí trở thịnh lại càng Hỉ Hóa chế Kim và sinh Thổ, Hỉ Thổ tỷ trợ. (hỷ thủy nhuận thổ,kỵ hỏa táo nhiệt)

9. Thổ của tháng Chín: Khí của tháng Chín, Kim khí vào Suy, Thủy khí Quan Đới, Hỏa khí nhập Mộ nhưng Thổ vượng đắc Lệnh, Kỵ gặp Hỏa để sinh Thổ, phải lấy Giáp Mộc để tiết khí Thổ, lại Hỉ Thủy tưới nhuận Thổ.

10. Thổ của tháng Mười: Khí của tháng Mười, Thủy Khí Lâm Quan, Kim khí vào Bệnh, Hỏa khí đã Tuyệt, nên Thổ của tháng Mười ngoài thì lạnh ở trong thì ấm, Hỉ Hỏa làm ấm Thổ, Mộc nhiều trợ Hỏa thì vô hại, gặp Thổ tỷ trợ là tốt.

11. Thổ của tháng Mười Một: Khí của tháng Mười Một rất lạnh, Thủy khí Đế Vượng, Kim khí đã Tử, Hỉ Hỏa làm ấm Thổ, nếu Thủy thái quá thì lấy Thổ khắc Thủy, Thổ quá vượng thì lấy Mộc tiết Thổ và trợ Hỏa, lại kỵ Kim sinh Thủy.

12. Thổ của tháng Mười Hai: Khí của tháng Mười Hai, trời lạnh đất cống, tối Hỉ Hỏa làm ấm thổ, Thổ nhiều thì Hỉ Mộc tiết khí Thổ và gặp Hỏa. Kỵ Thổ tỷ trợ, tuy nhiên, nếu chỉ gặp Thủy mà không có Hỏa và không có Mộc thì Hỉ Thổ chế Thủy.

D. HÀNH KIM:

1. Hành Kim của tháng Giêng: Khí Kim của tháng Giêng, Mộc khí Lâm Quan, Hỏa khí Tràng Sinh, Kim khí đã Tuyệt, nên Kim của tháng Giêng tánh nhu mà thể nhược (yếu), khí hàn (lạnh) chưa hết, nên lấy Hỏa sưởi ấm Kim là thượng sách, nhưng sợ Thổ nhiều sẽ vùi lấp Kim, Thủy thịnh tất tăng hàn (lạnh) và lại đoạt mất khí Kim, còn Mộc vượng thì Kim bị tổn khí, Kim bị mẽ, gãy. Nếu được Kim tỷ trợ phụ giúp là tốt.

2. Hành Kim của tháng Hai: Khí Kim của tháng Hai, Mộc khí Đế Vượng, Hỏa khí Mộc Dục, Kim khí vào Thai, Thủy khí đã Bệnh, nên Kim của tháng Hai vẫn suy nhược, Kỵ Thổ lấp Kim không thể sinh Kim, vẫn Hỉ Hỏa để cướp khí của Mộc và được Kim phù trợ. 3. Hành Kim của tháng Ba: Khí của tháng Ba, Quý Thổ đang nắm lệnh (vượng), Hỏa khí Quan Đới, Mộc khí đã Bệnh, Kim khí vào Dưỡng, nên Kim khí của tháng Ba cũng Kỵ Thổ qúa trọng vì có thể lấp mất Kim, nên Hỉ dùng Mộc để chế Thổ, và Hỏa để sưởi ấm Kim.

4. Hành Kim của tháng Tư: Khí của tháng Tư, Hỏa khí Lâm Quan, Mộc khí đã Suy, Kim khí Tràng Sinh, nên Kim của tháng Tư hình, chất chưa hoàn bị, khí thể vẫn còn nhu nhược, vì Kim mới Tràng Sinh nên không sợ Hỏa, và Hỉ Thủy tưới nhuận, nhưng Kỵ Mộc trợ Hỏa tổn thương Kim, gặp Kim phù trợ thì lại mạnh thêm, gặp Thổ mỏng thì tốt, nếu Thổ hậu (dày, sâu) thì lấp mất ánh sáng của Kim.

5. Hành Kim của tháng Năm: Khí của tháng Năm, Hỏa khí Đế Vượng, Kim khí Mộc Dục, Mộc khí đã Tử, nên Kim của tháng Năm tính chất vẫn còn mềm, Kỵ Hỏa qúa mạnh, Hỉ Thủy chế Hỏa để bảo tồn thân (Kim), tối Kỵ Thổ chế Thủy, Hỉ Kim tỷ trợ.

6. Hành Kim của tháng Sáu: Khí của tháng Sáu, Hỏa khí vào Suy, Kim khí Quan Đới, Mộc khí nhập Mộ, Qúy Thổ đang nắm lệnh, nên Kim của tháng Sáu Kỵ Thổ táo, nhiệt, Hỉ Thủy nhuận Thổ để sinh Kim, bất Hỉ Thổ táo sinh Kim vì Thổ trọng sẽ lấp mất Kim, cũng Hỉ Kim tỷ trợ để sinh Thủy.

7. Hành Kim của tháng Bảy: Khí của tháng Bảy, Hỏa khí đã Bệnh, Kim khí Lâm Quan, Mộc khí đã Tuyệt, nên Kim của tháng Bảy khí vượng mà lại cứng, bén, cần Hỏa trui rèn để thành khí cụ, nếu không Hỏa mà có Thủy thì Kim thanh Thủy tú (tối Hỉ), còn được nhiều Thổ tu bôi thì Kim bị vẩn đục, không tốt, nếu gặp Kim trợ thì trở thành quá cương sẽ gãy.

8. Hành Kim của tháng Tám: Khí của tháng Tám, Kim khí Đế Vượng, Thủy khí Mộc Dục, Hỏa Khí đã Tử, nên Kim của tháng Tám đương lệnh cực vượng, Kỵ Kim tỷ trợ, Hỉ Thủy tiết khí Kim, Hỏa lại luyện Kim, Mộc lại trợ Hỏa cũng nên.

9. Hành Kim của tháng Chín: Khí của tháng Chín, Thổ lệnh đương quyền, Kim khí nhập Suy, Thủy khí Quan Đới, nên Kim của tháng Chín Kỵ gặp Thổ vì có thể Thổ nhiều quá sẽ lấp mất Kim, Hỉ Mộc tiết khí Thổ, lại Hỉ Thủy tiết khí Kim, tối Kỵ gặp Thổ, và Kỵ Hỏa sinh Thổ.

10. Hành Kim của tháng Mười: Khí của tháng Mười, khí hậu biến hàn (lạnh), Kim khí vào Bệnh, Thủy khí Lâm Quan, nên Kim của tháng Mười nếu Thủy thịnh thì Kim sẽ bị chìm, Hỉ Thổ chế Thủy, Hỏa lại sưởi ấm Kim và trợ Thổ, cũng Hỉ Kim tỷ trợ.

11. Hành Kim của tháng Mười Một: Khí của tháng Mười Một, Thủy khí Đế Vượng, Kim khí đã Tử, nên Kim của tháng Mười Một ở vào mùa Đông hàn, bất Hỉ Thủy hàn, Hỉ Hỏa sưởi ấm Kim, nên dùng Mộc tiết khí Thủy và trợ Hỏa để sưởi ấm Kim, nếu Thủy quá vượng thì cần Thổ để ngăn Thủy.

12. Hành Kim của tháng Mười Hai: Khí của tháng Mười Hai, thiên hàn địa cống, Thổ lệnh lại đương quyền, Thổ ướt nhiều và dày, Thủy khí nhập Suy, Kim khí vào Mộ, nên Kim của tháng Mười Hai có thể bị Thổ ượt nhận chìm, Hỉ Hỏa giải lạnh và sưởi ấm Kim, Hỉ Mộc tiết khí Thổ và trợ Hỏa, Kỵ Kim hàn thủy lạnh.

E. HÀNH THỦY

1. Hành Thủy của tháng giêng: Khí Thủy của tháng Giêng, Mộc khí Lâm Quan, Thủy khí đã Bệnh, khí hàn lạnh vẫn còn, chưa hết, nên Thủy của tháng Giêng Hỉ Kim sinh phù, nhưng không thích Kim nhiều quá, nếu Thủy vượng thì cần Mộc mới huy nạp được thế, và cũng cần Hỏa để sưởi ấm Thủy, Hỉ Thổ chế Thủy vượng.

2. Hành Thủy của tháng Hai: Khí của tháng Hai, Mộc khí Đế Vượng, Thủy khí đã Tử, nên Thủy của tháng Hai, rất Hỉ gặp Kim để sinh Thủy và khắc chế Mộc, nếu Thủy vượng nên có Thổ để ngăn Thủy.

3. Hành Thủy của tháng Ba: Khí Thủy của tháng Ba, Thổ lệnh đương quyền, Mộc khí đã Suy, Thủy khí nhập Mộ, nên Thủy của tháng Ba hình thể khô dần, Hỉ Mộc tiết Thổ, và Kim là nguồn sinh, khí hậu vẫn còn hơi lạnh, Hỉ Hỏa sưởi ấm Thủy, lấy Mộc làm dụng thần, nếu Thủy ít thì cũng Hỉ Thủy đến tỷ trợ, Kim trợ sinh Thủy.

4. Hành Thủy của tháng Tư: Khí của tháng Tư, Hỏa khí Lâm Quan, Thủy khí đã Tuyệt, Kim khí Tràng Sinh, nên Thủy của tháng Tư đã gần Tuyệt, Hỉ Thủy tỷ trợ, và Kim lại trợ Thủy.

5. Hành Thủy của tháng Năm: Khí của tháng Năm, Hỏa khí Đế Vượng, Thủy khí vào Thai, Kim khí Mộc Dục, nên Thủy của tháng Năm Kỵ nhập táo, nhiệt chi hương, Hỉ Thủy tỷ trợ, và Kim là nguồn sinh.

6. Hành Thủy của tháng Sáu: Khí của tháng Sáu, Thổ lệnh đương quyền, Hỏa khí đã Suy, Kim khí Quan Đới, Thủy khí nhập Thai, nên Thủy của tháng Sáu Kỵ Thổ trọng ngăn Thủy, và Hỏa trợ Thổ táo, nhiệt, Hỉ Thủy tỷ trợ và Kim là nguồn sinh, Mộc đến tiết Thổ.

7. Hành Thủy của tháng Bảy: Khí của tháng Bảy, Kim khí Lâm Quan, Thủy khí Tràng Sinh, Hỏa khí nhập Bệnh, nên Thủy của tháng Bảy Kim vượng Thủy tướng, trong ngoài thông suốt, được Kim trợ Thủy thì thanh khiết, nếu gặp Thổ vượng thì Thủy bị vẩn đục, nếu Thủy đa Hỉ Mộc để tiết khí, cũng Hỉ Thổ để ngăn nước, và gặp được Hỏa.

8. Hành Thủy của tháng Tám: Khí của tháng Tám, Kim khí Đế Vượng, Thủy khí Mộc Dục, Hỏa khí vào Tử, nên Thủy của tháng Tám thế của Thủy bắt đầu vượng, Hỉ Mộc tiết thế của Thủy, Hỉ Hỏa khắc Kim hộ Mộc, đồng thời sưởi ấm Kim và Thủy.

9. Hành Thủy của tháng Chín: Khí của tháng Chín, Thổ lệnh đương quyền, Kim khí vào Suy, Thủy khí Quan Đới, nên Thủy của tháng Chín tuy Quan Dới nhưng, Qúy Thu Thổ vượng ngăn Thủy, nên Hỉ Mộc tiết Thổ, Kim lại sinh Thủy.

10. Hành Thủy của tháng Mười: Khí của tháng Mười, Thủy khí Lâm Quan, Kim khí vào Bệnh, khí hậu biến hàn (lạnh), nên Thủy của tháng Mười thế Thủy cực thịnh, Hỉ Hỏa để sưởi ấm, Mộc tiết kỳ thế, nếu Thủy vượng thì nhờ Thổ để ngăn Thủy.

11. Hành Thủy của tháng Mười Một: Khí của tháng Mười Một, Thủy khí Đế Vượng, Kim khí đã Tử, khí hậu cực hàn, nên Thủy của tháng Mười Một Thủy khí cường hàn (lạnh), Hỉ Hỏa sưởi ấm Thủy, Mộc tiết kỳ thế.

12. Hành Thủy của tháng Mười Hai: Khí của tháng Mười Hai, thiên hàn địa cống, Thủy khí đã Tuyệt, Thổ lệnh đương quyền, Mộc khí Quan Đới, nên Thủy của tháng Mười Hai vì Thổ trọng và lạnh (cống), Hỉ Hỏa sưởi ấm Thổ, Mộc lại tiết Thổ, nếu lấy Kim thì cũng cần Hỏa sưởi ấm Kim để sinh Thủy.

chú ý: trên đây là nguyên tắc chung của phép hỷ kỵ TB, được tác giả căn cứ để tính hỷ kỵ đối với Cục, Chính Tinh theo lệnh Tháng trong phép Hỷ kỵ của mình.

Bản dịch của TKQ, xin trân trọng cám ơn.

Dưới đây là các ví dụ trong các chương 5,6,7,8,9. Qua các ví dụ này ta hiểu phép hỷ kỵ đại đột phá của tác giả.

Ví dụ 1, nam mệnh ngày 3 tháng 11 năm 1953,giờ sửu.

Hỷ kỵ pháp yếu như sau:

1/ Mệnh cung,thân cung là hợi và sửu,đều thuộc Bắc phương cung,thủy khí

2/ Mệnh chủ đắc cự môn, cho nên lấy cục thủy làm trọng.Vì vậy giả thiết Can Ngày là Thủy.

3/ Mệnh cung chính tinh thái dương thuộc hỏa, đà la thuộc kim,linh tinh thuộc hỏa,hai hung tinh.

4/ Vì giả thiết Can ngày là thủy,lại sinh tháng 11,tức thủy của tháng 11.Vậy mệnh bàn đắc kim thủy âm hàn,nên Hỷ hỏa sưởi ấm, Hỷ mộc tiết thủy (độc giả tham khảo chương 4,thủy của tháng 11)

5/ Hỷ thần là mộc hỏa, đương nhiên kỵ thần là kim thủy

Sự thực:

22 tuổi, giáp dần niên kết hôn, 23 tuổi ất mão niên sinh con gái

24-27 tuổi hành mộc hỏa hỷ thần niên, công việc kiến trúc phát tài.

29 tuổi tân dậu niên, bị bạn bè nợ 100 vạn đồng, không đòi được. ( dịch giả chú: ứng câu: kim thủy niên là kỵ thần niên!)

p/s số thứ tự các ví dụ là do tvn ghi

Ví dụ 2, nam mệnh, ngày 18 tháng 1 năm 1945 al, giờ thân.

Sự thực: 22 tuổi học viện tốt nghiệp, 27 tuổi tân hợi niên kết hôn.

Giáp dần, ất mão lưỡng niên đại phát tài lợi.

Hỷ kỵ pháp yếu:

1. mệnh cung tọa ngọ, thân cung tọa tuất, tam hợp dần ngọ tuất hỏa cục, hỏa khí vượng.

2.mệnh chủ đắc phá quân tuyệt mệnh, nên lấy chính tinh thủ mệnh làm trọng. Chính tinh thủ mệnh thiên cơ mộc tinh, cho nên giả thiết Can ngày là Mộc, mộc của tháng 1. Khí tháng 1,mộc khí lâm quan, thủy khí nhập bệnh, hỏa vượng, cho nên hỷ thủy sinh mộc, hỷ mộc tỷ trợ.

Ví dụ 3, nữ mệnh, ngày 10, tháng 1, năm 1951 al, giờ tý

Sự thực:tình cảm tỏa chiết, 24 tuổi, giáp dần niên,tháng 5 al,uống thuốc độc tự sát, ko chồng, con

Hỷ kỵ pháp yếu:

1.Mệnh, thân cung đều tọa dần cung,mộc hỏa cường.

2.mệnh chủ đắc lộc tồn,cho nên ko lấy cục mộc làm trọng.

3.Chính tinh thủ mệnh thiên đồng thuộc thủy. Giả thiết can ngày là thủy,thủy của tháng 1,mệnh bàn mộc hỏa cường vượng, cung nội vô kim tinh, mệnh bàn ko có kim khí, cho nên hỷ Kim, hỷ thủy trợ.( đương nhiên kỵ Mộc!)

Ví dụ 4, nam mệnh,ngày 3,tháng 3 al,năm canh thìn, giờ hợi.

Sự thực: tốt nghiệp đại học, nhà 5 ace, công việc chuyên máy tính điện tử,thê hiền,con cái 1 trai, 2 gái.

42 tuổi, tân dậu niên, tháng 7,8 liên tiếp phát sinh họa: điện giật, khởi động xe gây nổ, cháy dẫn đến tố tụng.

Hỷ kỵ pháp yếu

1,mệnh tọa tỵ cung, thân tọa mão cung, mộc hỏa lưỡng khí.

2.mệnh chủ đắc vũ khúc, kim tứ cục là trọng. Gỉa thiết can ngày là Kim, kim của tháng. Tuy nhiên cung nội ko có kim tinh, mà có tham liêm mộc hỏa tinh. Vậy toàn thể cung mệnh là mộc hỏa khí,cho nên luận theo mộc hỏa, hỷ mộc hỏa kỵ kim thủy.

Ví dụ 5: Nữ mệnh,ngày 1 tháng 11 al, canh dần, giờ mùi.

Sự thực: trước 22 tuổi gia đình nghèo khổ.Cao thương tốt nghiệp, 9 ace.

29 tuổi, mậu ngọ niên bị bạn trốn nợ mất 17 vạn đồng.Cùng năm hôn nhân bất thành, bạn trai bỏ đi.

Hỷ kỵ pháp yếu

1 mệnh tọa tỵ cung, thân tọa mùi cung, nam phương hội thuộc hỏa, cục nội hỏa vượng.

2.mệnh chủ đắc vũ khúc, nên giả thiết can ngày là kim, kim của tháng 11. Cung mệnh kiến thiên phủ thổ tinh, hỷ thủy tẩy kim.Cung nội ko có kim tinh, hỷ kim tới tỷ trợ. Cho nên bản mệnh ứng kim thủy là hỷ, kỵ thổ cùng hỏa nhiều gây táo nhiệt.

Ví dụ 6: Nam mệnh, ngày 21 tháng 9 al,năm nhâm thân 1932, giờ hợi

Sự thực: đại học tốt nghiệp, 23 tuổi giáp ngọ niên kết hôn,sinh 3 trai.

43-45 tuổi làm về kiến trúc, kỷ mùi niên doanh lợi Ngàn vạn đồng.

49 tuổi, canh thân niên nghề kiến trúc bất lợi, thất thoát 900 vạn đồng.

50 tuổi,tân dậu niên, tuyên bố phá sản.

Hỷ kỵ pháp yếu:

1.mệnh tọa hợi cung, thân tọa dậu cung, kim thủy lưỡng vượng.

2. mệnh chủ đắc cự môn, cho nên lấy kim làm trọng.Cung nội kiến thiên đồng thủy,lộc tồn thổ. Vì có thổ tinh, đối cung đại cát tinh hóa lộc khả khắc thủy,cho nên ko theo kim thủy cách, mà ứng cách hỷ hỏa đến sinh thổ,hỷ mộc đến tiết thủy thế. (đương nhiên kỵ Kim )

Ví dụ 7 Nữ mệnh, ngày 4 tháng 10 al, năm 1940, giờ hợi.

Sự thực: 32 tuổi, tân hợi niên, bệnh tử cung phải mổ,có sinh ko có con.

Hỷ kỵ pháp yếu:

1,mệnh cung tọa tý, thân cung tọa tuất, mệnh bàn thủy thổ khí lưỡng vượng.

2,mệnh chủ đắc tham lang sinh khí,nên lấy hỏa cục làm trọng. Giả thiết can ngày là hỏa, hỏa của tháng 10.

3.mệnh cung đắc vũ khúc kim tinh cùng hóa quyền mộc tinh,lại đắc thiên phủ thổ tinh đều tọa thủy cung, hai khí thủy thổ lưỡng vượng, cho nên hỷ hỏa, hỷ mộc tới sinh trợ, kỵ kim thủy

Tôi xin tạm dừng ở đây,thiết nghĩ các bạn đã rõ nội dung của phép Hỷ kỵ này qua các ví dụ trên.

Các bạn dựa theo phép hỷ kỵ này thử nghiệm lý trên ls của mình xem sao. Tôi cho rằng, độ chính xác của phép này khá cao.

Nghe gì về “manh phái” (phái thầy mù)?

Nguyên tác (bạch thoại): Đoàn Kiến Nghiệp

Dịch: VDTT

“Hệ thống manh phái không dùng một số công cụ của mệnh lý truyền thống, lại phế bỏ nhật chủ vượng suy và dụng thần, cách cục bản lai cũng không dùng. Đương nhiên, nói phế bỏ thì không chính xác lắm, vì trong hệ thống manh phái, không có những quan niệm nhật chủ vượng suy và dụng thần, đó là đặc điểm lớn nhất của phái này.

“Vậy manh phái làm sao xem mệnh? Đầu tiên phải khẳng định rằng manh phái có khẩu quyết; nhưng những khẩu quyết này không phải là chìa khóa vạn năng, bởi vì thầy Hác có rất nhiều sư huynh đệ, cùng học những thứ giống nhau, nhưng các sư huynh đệ ấy không đoán chuẩn bằng thầy Hác. Học với thầy Hác một thời gian tôi mới biết, rất nhiều thứ trong mệnh lý là do thầy tự phân tích ra, còn khẩu quyết chỉ là một số khái niệm cơ bản; phần hơn là dựa vào “ngộ tính” của thầy. Cái mà hệ thống này giảng là “ngộ tính”. Ở đây (dgc: Ý nói trong sách “Manh phái mệnh lý: Tu đính bản”) chỉ giảng một số lý luận căn bản và phương pháp, những gì thâm sâu hơn ở tầng sau đòi hỏi “ngộ tính” của chúng ta, mỗi người tự mình lần hồi hiểu ra thôi.

“Nhưng tại sao không tìm dụng thần, không xét nhật chủ suy vượng mà có thể đoán được mệnh? Điểm này liên hệ đến vấn đề cơ bản của mệnh lý. Bản chất của mệnh lý là gì? Bản chất của mệnh lý là biểu thuật đời sống. Cái lý đằng sau mệnh lý và đời sống của chúng ta như nhau, là cái bóng thu nhỏ rồi lại hiện ra của đời sống chúng ta. Nhật chủ vượng suy chẳng thuyết minh được gì, cũng chẳng đại biểu năng lực của mệnh chủ lớn nhỏ hoặc thân thể tốt xấu, càng không thể giải thích quỹ tích mệnh vận của mệnh chủ, chẳng có ý nghĩa thực tế nào cả. Đơn thuần tìm kiếm dụng thần và kị thần khiến sự lý giải của chúng ta đối với mệnh lý trở thành phiến diện và cứng ngắc. Mất đi khả năng nắm bắt cái mặt phong phú nhiều sắc thái của mệnh vận. Bởi vì đời sống vốn phức tạp và biến hóa, không có bạn bè vĩnh viễn, không có kẻ địch vĩnh viễn; sao lại có thể tưởng tượng một hai dụng thần bầu bạn chúng ta đến hết cả đời?”

(dgc: Đến đây là hết phần so sánh manh phái với cách xem Tử Bình truyền thống. Kế tiếp là phần giới thiệu các kỹ thuật xem số của manh phái).

“Hệ thống manh phái cho rằng mệnh lý diễn tả đời sống. Thế mệnh lý diễn tả đời sống bằng gì? Lại nữa, nó diễn tả đời sống như thế nào? Chúng ta cần hiểu một số công cụ mà các vị thầy mù (dgc: dịch nghĩa từ “manh sư”) xử dụng để diễn tả đời sống. Vì thầy mù đa số dạy theo lối khẩu thụ tâm truyền (dgc: Người trước nói, người sau nghe mà lĩnh ý), không để lại văn tự thành hệ thống, thành ra chúng ta phải sáng tạo ra một số khái niệm trước đây chưa có để tìm hiểu hệ thống này.

“Một: Khái niệm ‘chủ khách’

(dgc: Có lẽ trong ý hướng cải cách ông Nghiệp muốn tránh hai từ cũ “chủ khách”, nên trong nguyên tác Hán tự ông viết “tân chủ” cho mới mẻ. Dịch đúng thứ tự mà khỏi sợ hiểu lầm thì chỉ có “khách chủ”, nhưng vì người Việt quen “chủ khách” hơn nên mạn phép dịch như thế để khỏi vô tình tạo ra những lấn cấn ngôn từ không cần thiết. Xin lỗi ông Nghiệp vậy.)

“Khái niệm này trong manh phái có ý nghĩa đặc biệt. Chủ khách cho chúng ta biết cái gì là ta, cái gì là người khác. Rất nhiều thuật đoán mệnh của Trung quốc có luận ‘chủ khách’. Trong lục hào thì hào thế là chủ, hào ứng là khách. Hào trong quẻ là chủ, ngày tháng và hào biến là khách. Phong thủy, kỳ môn, lục nhâm, mai hoa dịch số v.v… thảy đều luận ‘chủ khách’, khác nhau chẳng qua là họ có thể gọi khái niệm là ‘chủ khách’, ‘thể dụng’, ‘thiên địa nhân’ v.v… nhưng đều cốt diễn tả cái quan hệ ‘chủ thể tự ta’ và ‘khách thể ngoại vật’. Kỳ thật đời sống chúng ta cũng như thế, những quan hệ phát sinh giữa chúng ta và thế giới bên ngoài cấu tạo thành mệnh vận của chúng ta.

“Chủ khách là một khái niệm có tính tầng thứ. Mọi người đều biết nhật chủ là ta, những can chi khác là người khác, là những thực thể mà ta đối diện, là ‘khách’. Nhưng mỗi một can chi cũng có ý nghĩa riêng. Dưới nhật chủ đại biểu người hôn phối, tháng đại biểu cha mẹ, anh chị em, năm đại biểu ông bà, giờ đại biểu con cháu, đều là những thực thể mà ta đối diện. Hiểu bấy nhiêu rồi, thì có thể phân tầng thứ: Trụ ngày là ta và vợ hoặc chồng ta, đại biểu gia đình của ta. Gia đình của ta cũng đối diện những gì ở ngoài, có gia đình của cha mẹ, có gia đình của con cháu, có gia đình của anh, của chị, của em v.v… Như vậy trụ ngày là chủ, các trụ khác là khách. Rồi ta và con cháu ta là gia đình ta, đối diện với những gì ở ngoài; như vậy trụ ngày và trụ giờ là chủ, trụ năm và trụ tháng là khách. Rồi toàn thể bát tự là đại gia tộc của ta, đại vận và lưu niên là ngoại lai, từ bên ngoài đến tác dụng vào bát tự, sinh ra ảnh hưởng trên bát tự. Như vậy, bát tự là chủ, đại vận lưu niên là khách.

“Đó là khái niệm chủ khách.

“Tỷ như nói quý vị muốn làm quan hay là muốn có tiền thì xem tài, quan ở vị trí nào trong bát tự. Như quả tài, quan ở vị chủ thì là tài, quan của ta. Còn như tài, quan ở vị khách thì là tài, quan của người khác. Định vị như vậy xong rồi lại xem chủ và khách quan hệ thế nào, thông qua những tác dụng quan hệ mà luận xem tài, quan có quan liên đến ta không, có thể trở thành của ta không. Như thế quý vị thấy rõ, việc luận bát tự và nhật chủ vượng hoặc suy kỳ thật chẳng có liên hệ trọng đại nào cả. Chỉ có trong quan hệ chủ và khách, tức là sự giao vãng của cá nhân trong xã hội, mới thể hiện cái năng lực lớn hoặc nhỏ cũng như phú quý bần tiện.

“Chủ —————-Khách

“Nhật chủ———Các can chi khác

“Trụ ngày———Trụ năm, tháng, giờ

“Trụ ngày,giờ—-Trụ năm, tháng

“Tứ trụ————-Đại vận và lưu niên

Mộ khố phải mở

(Đoàn Kiến Nghiệp)

Tài Quan lâm mộ, hỷ hình xung. Có 3 cách xung mộ, thứ nhất là trực tiếp xung mộ, cách thứ hai là xung thần của mộ, cách thứ ba là xung mở thiên mộ.

1) Càn tạo: Bính Ngọ-Tân Sửu-Kỷ Mão-Tân Mùi

Đại vận: Nhâm Dần/Quí Mão/Giáp Thìn/Ất Tị/Bính Ngọ/Đinh Mùi/Mậu Thân

Mệnh này là của một ông quan to mà Hác tiên sinh lúc còn sống có xem qua. Sinh năm 1906. Đoán ông ta vận Giáp Thìn đi tù 10 năm, vận Bính Ngọ, Đinh Mùi làm quan rất to, Mậu Thân bị nạn.

Nguyên cục Sửu Mùi xung mở kho Sát, Sát tinh có kho nên có công, do đó có thể làm quan to. Đại vận Giáp Thìn phản cục, cho nên đi làm Cách mạng mà bị Quốc dân Đảng bắt bỏ tù 10 năm. Sau giải phóng nhậm nhiều chức lớn trong đó có chức Thị trưởng thành phố Thiên Tân, đến vận Mậu Thìn lại thành phản cục, trải qua 10 năm Cách mạng Văn hóa.

2) Khôn tạo: Mậu Thân-Giáp Dần-Kỷ Mùi-Tân Mùi

Ngày Kỷ Mùi thì mộ không mở, may nhờ có Dần Thân xung, xung thần của mộ (Mộc), cái này gọi là “ở bên cạnh mà mở kho”. Mộ khố hữu dụng cho nên có thể phát nhờ kinh thương, tài sản mấy chục triệu Tệ.

Hỏi: Thương Quan gặp Quan sao không có họa?

Đáp: Thương Quan gặp Quan tại tân (khách) vị, tức là người khác có tai họa, do người khác bị họa mà làm cho cô ta dễ phát tài.

Trên thực tế quả đúng như thế.

3) Càn tạo: Tân Hợi-Ất Mùi-Kỷ Mùi-Quí Dậu

Đại vận: Giáp Ngọ/Quí Tị/Nhâm Thìn/Tân Mão/Canh Dần

Địa chi mộ khố không mở, thấu Tân Ất tương xung là thiên can mở kho. Người này vận Nhâm thì phát, vô tiền hơn trăm triệu Tệ. Nhưng vận Thìn vừa hợp Dậu, lại mộ Mùi (Durobi chú: Ý của ĐKN là Mùi nhập mộ vào Thìn, vì Thìn là khố của Thủy và Thổ), kho Mùi không mở, bắt đầu mất tiền. Trong 5 năm mà tài sản cả trăm triệu bay biến mất. Hiện chuyển sang đại vận Tân Mão, bắt đầu khởi sắc trở lại.

Người này làm bất động sản, trong vận Thìn của anh ta lại chính là lúc ngành bất động sản ở TQ đang ngon ăn ấy thế mà bị thua lỗ! Đúng là mệnh trời khó cưỡng.

* Mộ khố đã mở rồi thì sợ bị mộ lần nữa, ví dụ 1 và 3 đã đề cập. Mộ khố chưa mở mà lại bị mộ thì có một ví dụ sau:

Càn tạo: Quí Mão-Kỷ Mùi-Tân Mùi-Quí Tị

Mùi là kho Tài, nguyên cục không mở, vào vận Thìn của đại vận Bính Thìn, làm Công vụ viên nhà nước rất oách! Vừa qua vận Thìn một cái thì chìm luôn, phải đợi đến vận Sửu mới lên lại được.

(Nguồn: sưu tầm)

Trusted by some of the biggest brands

spaces-logo-white
next-logo-white
hemisferio-logo-white
digitalbox-logo-white
cglobal-logo-white
abstract-logo-white
white-logo-glyph

We’re Waiting To Help You

Get in touch with us today and let’s start transforming your business from the ground up.