Diễn dịch lại lời các quẻ – hào Chu Dịch
LỜI NÓI ĐẦU
Bát Tự Hà Lạc là một thuật số thuộc lĩnh vực bói toán mà lời phê chính là các Quẻ và lời của phần Kinh trong kinh Dịch (phần Truyện gồm những lời bàn của hậu thế thời Xuân Thu Chiến Quốc).
Để vận dụng được suôn sẻ môn thuật số này thì chỉ với lời phê thôi chưa đủ vì ta còn phải biết là mình có được ít nhiều hợp cách không, có phúc thần không,… Chưa kể là nếu toán theo Bốc Phệ, Tứ Trụ và có thể các môn khác nữa thì ta có thể chi tiết hóa từng bước một để nhằm thu thập thêm nhiều thông tin dự đoán. Tuy nhiên, theo tôi thì lời phê rất quan trọng vì nó hàm chứa ý nghĩa luân lý, đạo đức của Nho và cả cái nhìn nhân sinh, vũ trụ của Lão. Hơn nữa chúng giúp ta thấy được mình để mà sửa mình (tức là Cải Mệnh).Trong Bát tự Hà lạc có chia ra hợp cách và không hợp cách, theo thiển ý nếu người xem số biết nghe theo lời khuyên của quẻ, hào mình nằm thì hợp cách càng cao mà không hợp cách cũng không quá xấu, chứ không theo lời khuyên chỉ có cái bề ngoài của lời đoán thì dù hợp cách cũng kém tốt và không hợp thì thành phá cách rất xấu .Vả lại Chu dịch là mưu cầu cho người quân tử, kẻ có tâm cong queo (tà) mà không chịu sửa mình thì dù đạt được cái bề ngoài cũng có tiềm họa bên trong .
Với lớp phủ thời gian, cách hiểu các lời quẻ, lời hào cũng như ngay cả ý nghĩa của tên quẻ có phần mờ ảo và méo mó. Ta thấy được điều đó rất rõ trong sách kinh Dịch của cụ Ngô Tất Tố vì cụ cho ta đọc được cách hiểu khác nhau của một số tiên nho. Và từ đó cách hiểu lời phê cũng tùy theo trường phái và thời đại. Ngày nay, nhờ khảo cổ học và văn bản học chúng ta hiểu được rõ hơn đôi phần về ý nghĩa các câu văn và trong bối cảnh nào Chu Dịch đã được viết ra. Tôi cho rằng chúng ta nên trở lại cái nguyên thủy đó thì sẽ hiểu các lời phê đúng đắn hơn và theo đó sẽ dự đoán được chính xác hơn.Và vì vậy xin đừng ngạc nhiên nếu các độc giả thấy lối diễn nghĩa của chúng tôi không đi theo cách hiểu của các trường phái nho gia hậu thế .
Viết ở đây chưa phải là viết một cuốn sách nghiêm túc nên không phải ghi lại tất cả các nguồn, nhưng cái gì của Cesar thì phải trả lại cho Cesar, phần giảng nghĩa này gần như là tóm dịch từ cuốn Yi Jing của Cyrille Javary và Pierre Faure – Nhà xuất bản Albin Michel 2002, phần bàn về khảo cổ, cổ sử, văn bản học được lấy nhiều từ sách Les signes et les mutations của Wang Dong Liang – Nhà xuất bản l’Asiathèque 1995 (tiếng Việt có cuốn Đi tìm Kinh Dịch nguyên thủy của Nguyễn Đại Bằng – Nhà xuất bản Làng Văn 1998 dựa nhiều vào cuốn này). Sau đó mới mang đối chiếu với các bản cổ của Trình Di, Chu Hi (qua Ngô Tất Tố), Nguyễn Hiến Lê và Học Năng và cho thêm ý kiến riêng khi khác với cả hai bên tân, cổ.
Ngu Yên Nguyễn Đại Bằng
Bối cảnh thành hình Chu Dịch
Theo các nhà khảo cứu khoa học ngày nay thì không còn nghi ngờ gì nữa, các quẻ và lời trong kinh Dịch xuất hiện sớm nhất vào đời Thành Vương, vua thứ hai nhà Tây Chu, khoảng 11 thế kỷ trước Công Nguyên, và do người trong hoàng tộc viết ra (truyền thống cho lời Quẻ là của Văn Vương, lời Hào là của Chu Công). Chúng có trước các lời Truyện (lời bàn), được áng chừng xuất hiện thời Xuân Thu, Chiến Quốc và đầu Tây Hán.
Các học giả cho biết rất nhiều lời là kể lại chuyện các nhân vật lúc giao thời giữa 2 nhà Ân và Chu (Văn Vương, Trụ, Chu Công, Tỳ Can, Cơ Tử, v.v…) và tổ tiên của họ (ít khi hơn). Vì vậy thuộc sử thời đó sẽ giúp làm sáng tỏ rất nhiều các khúc mắc, sai lầm của hậu thế (như sửa lời mà không hiểu chuyện). Và hiểu rằng một chữ có thể có nhiều ý nghĩa khác nhau tùy lúc như chữ “Trinh” có nghĩa là chính bền (ngay thẳng bền bỉ) nhưng thường thì có nghĩa đoán, điềm. Ngoài ra một điểm quan trọng cần biết là thời tạo thành đó không có quẻ 3 vạch mà chỉ có quẻ 6 vạch. Điều đó không ngăn chúng ta sử dụng 8 quẻ có 3 vạch để hiểu thêm nhưng cần phải ý thức rằng các quái đơn ấy không thuộc hệ thống nguyên thủy.
Biểu tượng, từ phê và thuật ngữ
Thuật ngữ,
Cát/hung: nên hiểu là dòng khí lực mở/đóng hơn là tốt/xấu .
Vô cửu/cữu = không lỗi. Thể hiện thật ra lời khuyên đừng nghi ngờ, đừng đổ lỗi.
Hữu du vãng = có nơi đến, có qua lại. Chỉ việc nên vững tâm, đừng nản chí.
Lời/từ phê,
Chu Dịch còn cho biết xác suất của lời đoán.
Nguyên = lớn,
hữu = có,
trinh = đoán (xác suất thấp hơn),
chung = cuối cùng (đoán xa, xác suất hơi giảm nữa),
vô hay bất = không.
Theo Javary thì không có từ phê cũng là 1 xác suất khá cao nhưng dưới hữu, vô.
Biểu tượng,
Thái độ, hành động, cung cách “âm nhu” thường được xem là tốt hơn “dương cương “. Thí dụ: Chinh, từ có ý nghĩa cương cứng chỉ được coi là tốt 6 lần / 18. Cung cách nhà Nho vốn là sửa mình nên suy nghĩ chín chắn bao giờ cũng được xem trọng hơn những hành vi bột phát, cảm tính nặng thiên tính.
– Nguyên hanh, lợi trinh: mở đầu, hanh thông, lợi chính bền. Hiểu theo cách cổ điển Nho gia là nói về sức hiển hiện của Âm Dương, là động lực vận hành tạo ra mọi thứ sinh mệnh, vũ trụ. Hay 4 chữ này tượng cho một quá trình khép kín tuần hoàn của vũ trụ như sáng trưa chiều tối, như 4 mùa xuân hạ thu đông. Đầu thế kỷ XX có Cao Hanh thì cho rằng không có huyền bí, triết lý gì ở đây mà nên hiểu là Tế (hanh) lớn (nguyên), nên (lợi) bói (trinh/chiêm).
Điều thật sự cần thấy là 4 chữ này xuất hiện đủ cả 4 ở hai quẻ Càn, Khôn và 5 quẻ nữa và là 1 nền tảng cho vũ trụ luận của Trung Hoa sau này. Hai chữ Âm Dương thật ra chưa xuất hiện trong Chu Dịch.
Những quẻ có đủ 4 chữ này đều nói rằng đây là thời phải mau ứng biến để thích hợp với hiện tại đang đi vào một quy trình mới.
– Quân tử: tượng cho người trí và dũng, sáng suốt và can trường, biết tùy thời, thắng được mình.
– Đại nhân: là kẻ tài trí, kinh nghiệm, độ lượng hơn người và lời nói được tôn trọng, được nghe (kẻ tài đức).
– Tây (nam) / Đông (Bắc): ám chỉ Chu (Tràng An / Tây An) và Ân (Ân Khư/ An dương) . Thời đó Chu là chư hầu của Ân, thịnh lên trong khi Ân suy dần, đến đời Trụ thì bị Chu lấy mất quyền thủ lãnh (Chu làm thiên tử, Ân thành chư hầu = Tống).
Chú thích: Nhà Ân còn được gọi là nhà Thương, hay Ân Thương. Tên gọi “Ân” có từ lúc triều đại này dời đô về đất Ân.
– Tiểu / đại: thường được giảng như Âm / Dương nhưng thật ra nhiều khi giảng theo nghĩa đen thì rõ hơn.
– Lợi thiệp đại xuyên: nên qua sông lớn. Thời đó qua sông lớn thật nguy hiểm, có lẽ như đi sang một thế giới khác và dòng sông cuồn cuộn dễ làm sờn lòng người. Ý câu này nói nên thắng được chính mình, vượt qua những thói quen cũ kỹ, dám thử thách để đến/thấy được một chân trời mới.
– (xuất) chinh: hành động cương quyết, dẹp loạn.
– thú nữ: lấy vợ . Chỉ hành vi mềm mỏng.
1/ QUẺ CÀN/ KIỀN
Càn tượng trưng cho Mặt Trời, Bầu trời,… (Soạn giả chú: Tôi cố ý không dùng chữ “Trời” đứng riêng vì thời càng xưa thì con người càng ít trừu tượng hóa, sự phức tạp đến sau .Đó là điều văn bản học, văn hóa học thế giới đều chứng minh và đồng ý cho mọi nền văn hóa. Chỉ tại TQ người ta trọng cổ nên luôn gán những phát kiến mới cho người xưa để lấy uy tín).
Trời hun đúc mọi vật làm cho sinh khí nảy nở. Khí dương (trong quẻ Càn) lấy con rồng làm biểu tượng để diễn tả cho sức mạnh, SỐNG, ĐỘNG ; một khi đã sinh nở thì tràn lan khắp vũ trụ .Thời của hào đầu thì khí lực còn tiềm ẩn và yếu ớt, đến thời của hào 2 thì đã hiện rõ, đến thời của hào 3 và hào 4 thì trải qua những khó khăn, đến thời của hào 5 thì hoàn hảo, sung mãn, còn đến thời của hào 6 thì quá đà .Không hào nào được phê là cát, lợi vì tự sức dương đã rất cương cường nên phải hết sức thận trọng để tránh sai lầm .
Lời quẻ: Kiền, nguyên hanh lợi trinh.
Dịch: Kiền, mở đầu lớn, tế hanh thông; lợi chính bền.
(Sgc: tế là tế lễ nhưng nên hiểu rộng là giao tiếp, là dịp để con người hòa đồng với nhau, vượt qua cái tôi cá nhân (xem thêm quẻ số 45 Tụy)).
Nguyên hanh: thuật ngữ nói về một thời ban đầu rộng mở, dương (nguyên) sinh, âm (hanh) dưỡng.
Lợi trinh: thuật ngữ nói rằng để quá trình dẫn đến kết quả được thuận lợi thì cần bền bĩ giữ cái đức thẳng (không lạc đường).
Xem thêm nguyên hanh lợi trinh ở phần dẫn / biểu tượng.
Hào 1: Tiềm long vật dụng .
Dịch: Rồng còn ẩn náu (dưới sông), chớ dùng.
Sức chưa đủ, chưa xuất đầu lộ diện được. Đây vẫn là lúc sửa soạn, dưỡng sức.
Hào 2: Hiện long tại điền.Lợi kiến đại nhân.
Dịch: Rồng hiện ra ở đồng. Nên đi gặp đại nhân.
Sức mạnh hiện hữu nhưng còn non, nên đi hỏi thêm ở người tài đức (xem thêm đại nhân ở bài dẫn / biểu tượng).hào này, vị thì trung nhưng bất chính, chưa đủ sáng suốt, chưa nghĩ đủ xa.
Hào 3: Quân tử chung nhật càn càn. Tịch dịch nhược. Lệ, vô cữu.
Dịch: Quân tử cả ngày cương quyết, cứng rắn, đến đêm lo âu cẩn thận. nguy, không lỗi.
Lúc này cần dũng mãnh vì thời nguy nhưng có lúc phải xét lại mình để tránh quá nghiệt (thường là cách cư xử) gây hại.
Xem vô cữu phần thuật ngữ.
Hào 4: hoặc dược tại uyên, vô cữu.
Dịch: Có thể bay lên từ vực thẳm, không lỗi.
(Thời của) hào này vẫn còn nghi ngờ mà chưa quyết định dứt khoát, cảm thấy chông chênh. Cẩn thận nên thường hay ngập ngừng.
Hào 5: Phi long tại thiên. Lợi kiến đại nhân.
Dịch: Rồng bay trên trời .Nên đi gặp đại nhân .
Vị sung mãn cùng cực nên không được phê tốt hay lợi mà khuyên nên đi gặp người tài đức để hiểu lẽ thịnh suy (tránh quá cứng, sai lầm).Xem thêm biểu tượng đại nhân / phần dẫn nhập .
Hào 6: Kháng long hữu hối.
Dịch: Rồng kiêu mãn. Có hối.
Lên cao quá, hay cương cường quá đà, chậm trở lại khiêm / thực tế (mắc phải sai lầm thì) sẽ có hối hận.
Dụng cửu (6 hào dương cùng biến sang âm): Kiến quần long vô thủ, cát .
dịch: Thấy bầy rồng, không con nào cầm đầu, mở.
Lời này không ai chắc hiểu, tôi theo ý của Javary để cho thấy một cái nhìn khác cổ điển .
Nhưng ý riêng là nên hiểu Bầy rồng mất đầu, như nhà Ân vì đế Trụ tàn bạo mà mất cơ nghiệp nếu ta so sánh với quẻ khôn và lời Dụng Lục.Cát ở đây là cho nhà Chu có cơ hội đoạt nghiệp vì vậy mới ” thấy ” bầy rồng không đầu mà cát .
2/ QUẺ KHÔN:
Nói về những khả năng Âm, có tượng là đất . Nhận, chứa, nhu thuận,chủ về tạo vật, tạo hình (Dương chủ về khí, khí phát sinh), thực tế, vật chất . Và sự cẩn trọng, luôn luôn có mặt ở suốt hào quẻ này .
Lời quẻ: Khôn, nguyên hanh, lợi tẩn mã chi trinh .Quân tử hữu du vãng .Tiên mê hậu đắc chủ, lợi. Tây nam đắc bằng, đông bắc táng bằng . An, trinh cát.
dịch: Khôn, mở đầu lớn, tế hanh thông, nên chính bền như ngựa cái. Quân tử có nơi đến.Trước thì mê lạc, sau thì được chủ, lợi.Tây nam được bạn, đông bắc mất bạn An nhiên, điềm mở.
Xem thêm nghĩa hữu du vãng, tây nam, đông bắc phần dẫn/ biểu tượng. Ngựa cái tượng trưng cho sự nhu thuận .Thời Khôn thì không nên khởi xướng mà nên thuận theo thời và tìm chúa vì tài của Khôn là tài khuếch trương, nên tụ lại cùng làm việc chớ nên làm thủ lãnh độc đoán .An ở đây là yên cái Tâm hơn là yên thân .
Lời này dài, cắt quãng có nhiều cách, đâm ra nhiều cách hiểu . Tôi hiểu khác Javary, hơi gần Nguyễn Hiến Lê nhưng khác là tôi hiểu Chu (Tây nam) được lòng người và Ân (Đông bắc) mất lòng người chứ không phải người quân tử nên đi về hướng tây nam thì có bạn v.v…
Hào 1: Lý sương, kiên băng chí.
dịch: Đi trên sương giá, băng cứng (sẽ) đến .
Băng trơn tuột dễ ngã nhưng đông cứng thì còn đi được (không còn lảng đảng như sương không nắm được) nhưng Âm cực thì phải hết sức cẩn trọng .
Hào 2: Trực phương, đại bất tập .Vô bất lợi.
dịch: Thẳng đến (bốn) phương (phương nghĩa đầu là vuông). lớn mà không cần tập. Chẳng gì không lợi.
Sức âm nhu bây giờ hiện hữu lan tỏa khắp nơi rộng rãi mà dễ dàng như không toan tính (bất tập).Chữ lớn ở đây có nghĩa sẵn sàng rộng mở chờ đón nhận khí Dương mà sinh sôi nảy nở . Hào này qui mô lớn nhưng cần phải không cong queo (trực) và rộng rãi thì mới được chân thành tâm phục.
Hào 3: Hàm chương khả trinh . Hoặc tòng vương sự, vô thành hữu chung..
dịch: Văn vẻ ngậm chứa, điềm chứa (nhiều) khả năng.Giả dụ như ra giúp vua thì đừng làm hoàn thành (riêng theo ý mình) thì mới được chót (có hậu).
Khi giúp người mà biết nhũn, không áp đặt, tỏa sáng quá thì mới dễ được tin dùng, không bị nghi kỵ .
Hào 4: Quát nang, vô cữu, vô dự.
dịch: Đóng túi . Không chê, không khen .
Thời không làm được, khuyên được thì nên rút lui (nhưng nhẹ nhàng để người đừng trách).
Hào 5: Hoàng thường, nguyên cát.
dịch: Xiêm vàng, tốt lớn.
Nói đạo làm vua/ làm chủ nên vô vi, khiêm hạ, biết nghe.Xiêm là áo trong chỉ khiêm tốn, màu vàng chỉ vua.
Hào 6: Long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng.
dịch: Rồng đánh nhau ngoài xa, máu chúng (chảy) đen vàng.
Cuối âm lại có tượng dương (rồng), ở xa chỉ âm nhu đã cực có lẽ không còn hiệu quả.Huyền hoàng bây giờ có nghĩa bóng là Trời Đất.Tôi cho là sách muốn nói đến chiến tranh Ân/ Chu: Chu giúp Ân như chư hầu nhưng Ân vô đạo mà không nghe lời khuyên thì chỉ còn cách phản lại. Ngoài ra trận thư hùng giữa hai nhà diễn ra ở Mục dã, có lẽ chính là dã trong lời quẻ .Ý này chưa thấy ở sách nào.
Hào này không có lời phê, vậy người ở hào này phải suy xét cẩn thận để quyết định đúng/ sai .
Dụng lục (6 hào âm biến cả thành 6 hào dương):Lợi vĩnh trinh.
dịch: Điềm lợi muôn đời.
Phải chăng ý là Chu từ chư hầu nhờ nhu khôn gặp cơ hội mà biến thành vương triều vạn đại ? Ý này đưa ra nếu được học giả quốc tế tham khảo và đồng ý thì chúng ta giải được một khúc mắc khó hiểu lớn trong Chu Dịch .Xin xem thêm dụng cửu ở cuối phần quẻ Kiền .
3/ QUẺ TRUÂN:
Truân là truân chuyên, nghĩa là sự khó khăn vào buổi ban đầu .Lúc đó vừa phải tránh nóng lòng, vội vã (các hào dương), vừa đừng để lo âu quá đáng gây bất quyết (các hào âm), lại vừa phải giải quyết đủ thứ chuyện rắc rối . Quẻ này có lẽ nói về chuyện khó khăn trong giao tiếp/ ngoại giao với lân bang mới / dân tộc khác văn hóa .
Chú thêm của pth 77
– Quẻ có ba hào vị âm 2, 4, 6 đều đáng vị (đắc trung, hoặc chính), đều có hình ảnh “Thắng ngựa (xe) mà vẫn đứng chờ” (ở trong hoàn cảnh đã có sự chuẩn bị nhưng vẫn phải chờ đợi, chưa tiến vội), nhưng do hành động khác nhau mà kết quả mỗi hào lại khác . Hào 2 & 4 có hào ứng thuận âm – dương, hào 6 thì không thuận.
– Các hào 1, 3, 5 vị dương dùng ba hình ảnh khác nhau: tảng đá; đuổi hươu trong rừng; miếng thịt mỡ ngon, quí.
+ Tảng đá chắn đường: hoặc phải đi vòng để tiến .
+ (mải mê) Đuổi hươu trong rừng mà không có người dẫn lối thì bị lạc.
+ Miếng mỡ ngon (thời truân chuyên), nên muốn (ăn) được thì phải tính toán.
Lời quẻ:Truân. Nguyên hanh lợi trinh.Vật dụng .Hữu du vãng.Lợi kiến hầu .
dịch: Thời truân. Mở đầu lớn, tế hanh thông, nên chính bền .Chớ (vội) làm. có nơi đến .Nên dựng chư hầu .
Quá trình mới, nên hành động thì phải cẩn thận, có sách lược, phân biệt đâu là chính, đâu là phụ (vua / chư hầu) thì mới dễ đạt được kết quả lâu dài (có nơi đến/ mục đích có thể đạt).Xem thêm nguyên hanh lợi trinh ở phần dẫn/ biểu tượng.
hào 1: Bàn hoàn, lợi cư trinh, lợi kiến hầu .
dịch ; Dùng dằng.Nên ở yên, chính bền . Nên dựng hầu .
Câu này lập lại nên dựng hầu như lời quẻ cho thấy hào này là chủ chốt cho cả quẻ vì là nền tảng cho mai sau: không vội vã, có sách lược, bền bĩ giữ vững mục tiêu .Nên dựng hầu: lập phên dậu, củng cố quyền lực là cách hiểu khác truyền thống hơn nhưng không thua giá trị.
Từ bàn hoàn còn có nghĩa đen là tảng đá dựng đứng ngăn trở, cho nên phải mất công mất giờ để vòng qua .
hào 2: Truân như, chuyên như, thừa mã ban như.Phỉ khấu hôn cấu. Nữ tử trinh bất tự, thập niên nãi tự.
dịch; Như khó khăn, như khó tiến. Như thắng ngựa (xe) mà vẫn đứng đợi . Chẳng phải cướp kẻ (muốn) kết hôn . Điềm cô gái không sinh con, mười năm sau thì được.
Thời khó khăn ban đầu chưa tiến được.Theo cổ thì chưa kết hôn vội, theo tân thì chưa có con được ngay vì còn quá bé .Dù thế nào thì muốn kết thân, truyền bá văn minh, văn hóa, thông hiểu nhau thì phải cần một thời gian dài (chu kỳ 10 năm biểu tượng lâu dài, 3 năm thì ngắn hơn).. Hào này có thể chỉ sự đồng hóa của tộc Chu với thế giới nhà Ân, lúc trước ở đất Mân sau tộc Chu mới đến chân núi Kỳ sinh sống và thiết lập quan hệ với Ân Thương và bằng cách cưới các công nương thuộc thế giới nhà Ân (thí dụ Cơ Xương tức Tây bá tức Văn vương lấy công chúa đất Sằn, em họ Đế Ất nhà Ân).
Quách Ngọc Bội chú thêm về đoạn “Phỉ khấu hôn cấu. Nữ tử trinh bất tự, thập niên nãi tự”. Vốn rất đa nghĩa, Phỉ ngoài nghĩa là “chẳng, chẳng phải” thì cũng có nghĩa là giặc cướp (loại địa phương, có quy mô nhỏ, như “thổ phỉ”), Khấu có nghĩa là giặp cướp (loại ngoại xâm hoặc có quy mô lớn, như “địch khấu”). Cho nên, có thể dịch:
“Phỉ khấu hôn cấu” = bọn tặc khấu kết thân. Ý muốn nói là cái bọn mà ta coi là “giặc” nay lại muốn kết thân, thành ra rơi vào cảnh khó quyết định như đã sửa soạn xong xe ngựa mà dùng dằng đứng đợi, chẳng tiến lên, chẳng rời đi,…
“Nữ tử trinh bất tự” = Người con gái nhỏ bé, kiên quyết, khảng khái không đồng ý hứa hôn. (Chữ “tự” ngoài nghĩa là con, thì còn có nghĩa là “hứa hôn”). Ý muốn nói, vì dùng dằng chưa biết quyết định ra sao với việc cưỡng hôn kia, nên được khuyên là viện cớ “con gái còn bé” mà không đồng ý hứa hôn với lũ “giặc”. Bảo là 10 năm nữa (nó lớn) thì hứa hôn được].
hào 3: Tức lộc vô ngu, duy nhập vu lâm trung. Quân tử cơ, bất như xả.Vãng lận.
dịch: Đuổi hươu mà không người dẫn thì chẳng là sẽ lạc vào rừng sâu sao? Người quân tử thấy cơ, thà bỏ. (Cứ) tiến thì lận đận .
Xem quân tử phần dẫn/ biểu tượng. Hào này riêng một mình bất chính, bất trung trong cả 6 hào, lại âm nhu giữa hai hào âm khác thì như mê lạc vậy .
hào 4: Thừa mã ban như . Cầu hôn cấu, vãng cát. vô bất lợi.
dịch: Thắng ngựa (xe) mà vẫn đứng chờ. Cầu hôn, hãy làm, tốt. Chẳng gì không lợi .
Ở thời này mọi chuyện đã mở, chớ chần chờ nữa. Lợi về sau (hãy tính lâu dài).
hào 5: Truân kỳ cao. Tiểu trinh cát, đại trinh hung.
dịch: Cái phần mỡ của thời truân chuyên .Nhỏ đoán mở, lớn đoán đóng .
Trong miếng thịt, thời xưa miếng mỡ là phần ngon, phần quí .Thời này từ từ, tính nhỏ/ chậm mà chắc thì tốt, vung tay quá trán/ hối hả thì xấu .
hào 6: Thừa mã ban như, khấp huyết liên như.
dịch: Thắng ngựa (xe) mà vẫn đứng chờ. Khóc đầm đìa, (mắt) đỏ như máu .
Cuối quẻ rồi mà vẫn còn đợi. Hụt mất cơ hội.
4/QUẺ MÔNG:
Mông là mông muội, ngu tối, non nớt.Chỉ sự rồ dại của tuổi trẻ và nhu cầu giáo dục. Đây lấy truyện Chu công chú của Thành vương (con Vũ vương) nhiếp chính và giáo dục ông vua con ngỗ nghịch khi vua anh mất .Thành vương khi còn trẻ đã bị chú đầy đi xa một thời gian .
Lời quẻ: Mông.hanh.Phỉ ngã cầu đồng mông, đồng mông cầu ngã. Sơ phệ cáo, tái tam độc, độc tắc bất cáo.Lợi trinh.
dịch: Ngu tối.Hanh thông.Chẳng phải ta cầu đứa trẻ ngu tối mà là hắn cầu ta . Hỏi một lần ta bảo cho, hai ba lần là phiền nhiễu.Nhảm phiền ta chẳng dạy.Nên giữ thẳng và bền bĩ.
Đây nói về cách dạy kẻ thơ dại .Nếu cứ phạm lại lỗi cũ, tái đi tái lại là không chú ý, không thèm nghe thì không dạy được. Cần kiên nhẫn trì chí .
hào 1: Phát mông lợi dụng hình nhân . dụng thoát chất cốc, dĩ vãng lận .
dịch: Buổi đầu để dạy trẻ nên dùng hình phạt . (Nếu) thả lỏng chân tay (sớm quá) thì sẽ gặp khó lận.
Hình nên hiểu chung là luật lệ trật tự chứ không chỉ thuần túy là hình phạt . (Nếu) thả lỏng chân tay (sớm quá) – hàm nghĩa buông lỏng kỉ luật, dễ khiến trẻ không thèm nghe (sinh nhờn) thì không dạy được nên hối tiếc.
hào 2: Bao mông cát . Nạp phụ cát .Tử khắc gia.
dịch: Giáo dục trẻ thơ, tốt.(Đủ biết bổn phận để) lấy vợ, tốt.Người con trị vì (được) gia tộc .
Bao là bao bọc; gia tộc đây là hoàng tộc nhà Chu .Thành vương sau trở thành một ông vua tốt, biết lo trị vì, không bị che lấp hôn ám.- Hào 2 dương, lại có hào 5 âm ứng hợp, trợ giúp (bề trên giúp bề dưới), đúng như ông Chu công giúp dạy bảo Thành vương. Dạy cho biết vai trò của Giáo dục trẻ thơ, tốt.(Đủ biết bổn phận để) lấy vợ, tốt, do vậy mà có thể làNgười con trị vì (được) gia tộc.(kiểu như dạy tề gia, rồi biết trị quốc vậy).Pth 77 chú thêm.
hảo 3: Vật dụng. Thú nữ . Kiến kim phu, bất hữu cung.Vô du lợi.
dịch: Chớ (vội) làm.Lấy vợ. Thấy(mâm) vàng của chú rể nhưng chẳng thấy người.Chẳng lợi đâu.
Hào này âm nhu, bất chính, chưa đủ chín muồi.Lời hào không có chữ Mông tức không nói về quy trình giáo dục ; ở đây cho thấy tình trạng hiện hữu: trẻ chưa trưởng thành, phải nhờ người làm thay mình (hình ảnh là cảnh đến hỏi vợ nhưng không có chú rể). Kẻ chưa chín thì dù vì nông nổi, ngây thơ hay thiếu thành thật đều không nên hành động.
hào 4: Khốn mông, lận .
dịch: Thơ dại khốn đốn / Khốn trong ngu tối, lận đận (có hối tiếc).
Không ứng (hào 1 cũng âm) không hợp (hai hào bên cạnh cũng âm) như hào 4, vị hào này khó khăn nhất quẻ .Tôi cho là chỉ vào lúc Thành vương bị đi đầy .
hào 5: Đồng mông, cát.
dịch: Trẻ thơ đã thuần, mở.
Đồng là trẻ thơ nhưng không còn mông muội như mông.
hào 6: Kích mông. Bất lợi vi khấu, lợi ngự khấu.
dịch: Đánh tan ngu tối . Chẳng nên làm giặc, nên chống giặc.
Đây là cái nhìn lại của kẻ đã trưởng thành .Giặc là những sai trái của chính mình mà ta phải biết kiểm soát, đập tan .
Chú toàn quẻ của bạn pth 77: – Quẻ Mông miêu tả một quá trình nuôi dạy trẻ (hay người còn u mê) và có thể hàm chứa ý nghĩa về mối quan hệ giữa thày trò (ông Chu công và Thành vương). Hào 1 là thời phát mông cần phải tạo dựng nề nếp. Sau đó là hào 2 có sự bao mông, hàm nghĩa khi có được nề nếp rồi thì cần theo dõi, bao bọc, nuôi dưỡng cái nếp đấy để học hành. Hào 3 nhắc nhở rằng phải luôn trông chừng trẻ để có thể ngăn ngừa kịp thời những hành động vì nông nổi, ngây thơ khiến trẻ bỏ mất nề nếp (vời hình ảnh Thú nữ . Kiến kim phu, bất hữu cung) thì không có lợi cho việc học. Hào 4 có sự khốn mông (vị thế rất kém, không trợ lực, không thân cận), ngoài nghĩa phạt nặng để trẻ biết hối lỗi (quan niệm thời xưa) ta cũng có thể nghĩ rằng hào này nhắc nhở rằng phải quan tâm đến trẻ, nhằm tránh cho trẻ khỏi bị khốn đốn trong mông muội, do không được chăm sóc, dạy bảo mà (người thầy) sẽ hối hận (chẳng hạn như hoàn cảnh của trẻ mồ côi). Khi qua được thời có thể khốn mông, thì sẽ được đồng mông –Trẻ thơ đã thuần, mở, với hàm nghĩa là đã tạo dựng được nề nếp cho trẻ, nên mở ra thời mới là thời của hào 6 (thời mạt của quẻ). Khi trẻ đã thuần thì kích mông, hàm nghĩa dùng phương pháp để giúp trẻ đánh tan u mê (một cách triệt để), bằng cách giúp trẻ kiểm soát, ngăn chặn được các thói quen xấu – tức là giúp trẻ phân biệt được sự đúng sai, vượt qua được sự mông muội, tạo ra giá trị mới cho trẻ (cũng là lúc thoát khỏi thời/quẻ mông muội). Quẻ này có châm ngôn là Quả Hạnh Dục Đức, là sự/quá trình giúp giữ nết, nuôi đức
5/ QUẺ NHU:
Nghĩa chính trong Dịch là chờ đợi, biết chờ thời cơ.Ngày xưa người nông dân làm việc cật lực xong thì còn phải chờ mưa, có mưa thì ruộng đồng mới phì nhiêu.Mưa ở Chu Dịch vì vậy luôn là điều tốt lành nhưng là yếu tố không tính trước được.Quẻ nhu nói về tâm trạng khi chờ đợi nên như cái cảm xúc dần dần tăng triển dần dà “vào bên trong “: lúc đầu bực bội một chút ờ hào 1 rồi mạnh hơn ở hào 2, hào 3 đến hào 4 thì tối đa đến mức độ khủng hoảng thì ngộ ra được nên sang hào 5 thì trở về an nhiên tự tại, đến hào 6 thì quên mất luôn rồi . nhưng bất ngờ cơ hội lại đến thì nên xét kỹ (kính).
Lời quẻ: Nhu, hữu phu .Quang hanh, trinh cát.Lợi thiệp đại xuyên .
dịch: Thời nhu, (phải) có lòng tin .Rồi cầu nguyện (hanh/ hưởng) sẽ mang lại ánh sáng, đoán tốt .Nên qua sông lớn.
Xem thêm lợi thiệp đại xuyên ở phần dẫn nhập / biểu tượng . Quang hanh cũng có thể nên dịch là: hanh thông mang đến ánh sáng.
hào 1: Nhu vu giao .lợi dụng hằng, vô cữu.
dịch: Chờ ở ruộng xa .Nên kiên nhẫn, không lỗi.
Giao là nơi xa nhất còn nằm trong phạm vi ấp thành, làng mạc . Vị ở hào đầu, dương lại nằm trong nhóm 3 hào dương nên vị này dễ mất nhẫn nại . Hằng còn bền bĩ hơn cả trinh .Thế ở xa chỉ có thể cần cù, kiên trì thôi.
hào 2: Nhu vu sa. Tiểu hữu ngôn.Chung cát .
dịch: Chờ ở bãi cát Hành động tiểu nhân / thế nhỏ bé dễ chuốc lấy điều tiếng .Cuối cùng rồi sẽ mở.
Giữ bình tĩnh,thế không vững (bãi cát),chớ nói bậy . Có mắc tranh kiện cũng thong thả giải quyết.
hào 3: Nhu vu nê.Trí khấu chí .
dịch: Chờ nơi bùn lầy . Tự vời giặc tới .
Mắc kẹt, hào này quá bức xúc, lo sợ. Tự/ bị cô lập dễ gây tai họa .
hào 4: Nhu vu huyết .Xuất tự huyệt .
dịch: Chờ trong sự kinh sợ/ máu me . Ra khỏi hang động .
Hoang mang tột cùng thì nên đi ra ngoài / vượt cái lo sợ .
hào 5: Nhu vu tửu thực, trinh cát .
dịch: An nhiên chờ, ăn uống, đoán mở.
Có thái độ an lạc khi chờ đợi là đúng nhất .
hào 6: Nhập vu huyệt .Hữu bất tốc chi khách .Tam nhân lai .Kính chi, chung cát.
dịch: Chui vào động .Có ba người khách không (còn) chờ lại tới . Cung kính họ, đoán sẽ tốt.
Hào này hết hy vọng không cón chờ nữa (không có chữ nhu), chui rúc vào hang ổ thì có người đến mời. Chuyện Lã Vọng chăng ? Javary không nhắc đến Lã Vọng, các học giả khác cũng vậy .
6/ QUẺ TỤNG:
Tụng có nghĩa tranh cãi, kiện tụng.Ở Chu Dịch nghĩa đầu mạnh hơn, quẻ dạy ta khi nào nên nói (dương trung chính hào 5), nên im (các quẻ khác đều bất chính) .Nghĩa là đa phần (5/6 hào) đừng ham cãi vì mục đích không thể là ăn người mà là làm sáng tỏ và giữ được hòa khí để tiếp tục cộng tác với nhau .
Lời quẻ: Tụng, hữu phu trất dịch.Trung cát.Chung hung .Lợi kiến đại nhân. Bất lợi thiệp đại xuyên .
dịch: Bàn cãi, lòng tự ái tự tin làm che mờ/ quên sự cẩn trọng .Trung dung mở. Làm đến cùng đóng .Nên đi gặp người tài đức. Chẳng nên qua sông lớn (liều lĩnh).
Xem thêm đại nhân, lợi thiệp đại xuyên ở phần dẫn nhập / biểu tượng.Quẻ nói khi tranh tụng ta dễ mất sáng suốt nên hay gây xấu vì làm tổn thương người khác .
hào 1: Bất vĩnh sở sự.Tiểu hữu ngôn.Chung cát.
dịch: Đừng kéo dài kiện tụng, có chút điều tiếng . Cuối cùng sẽ mở.
Javary giảng tiểu hữu ngôn là lời xấu xa của tiểu nhân hay là nên kiệm lời. Tôi theo cổ điển .
hào: Bất khắc tụng .Qui nhi bô, kỳ ấp nhân tam bách hộ, vô sảnh.
dịch: Không thể cãi thắng .Nên về mà lánh; lo việc nhà thì tránh được họa vô ý / bất cẩn .
Cần thu hẹp việc gánh vác .Hào 2, đắc trung, không đắc chính, lại gặp phải hào Cửu Ngũ, nên vị thế không thể bằng.(coluong70)
hào 3: Thực cựu đức .Trinh lệ.Chung cát .Hoặc tòng vương sự, vô thành .
dịch: (Hoặc) sống dựa vào gia tài ông cha để lại, điềm nguy.Chung cuộc sẽ mở.Hoặc đi giúp vua, chẳng nên tự tôn, kiêu mãn.
Tôi dịch vế sau không sát nghĩa mà như vậy vì đó cũng là vế sau của hào 3 quẻ Khôn (số 2), nên đọc thêm.Vị hào này nhỏ bé, khiêm cung mới có hậu .Không có thể tranh cãi với ai cả (không có chữ tụng trong quẻ).
Quách ngọc Bội giảng khác: Đến vế sau: Hoặc tòng vương sự, vô thành .
Có thể dịch: Hay là theo phép vua vậy, không hiện hữu / không thực tế (tức là, bất khả thi).
Chữ “hoặc” khi đứng trước 1 cụm từ, đồng thời lại đứng sau 1 vế/cụm từ khác, thì nó vốn mang nghĩa của từ biểu thị nghi vấn (cho nên còn được phiên âm là “vực”, như trong “ngờ vực”).
Bởi thế mà nên dùng cụm từ: Hay là … vậy, để độc giả hiện đại khỏi bị nhầm sang ý nghĩa đề cập đến trường hợp khác của chữ “hoặc”.
Hào lục Tam này âm nhu mà bất chính, lại ở trong hoàn cảnh kiện tụng cho nên lúc đầu phải nương nhờ vào ân đức của người xưa (cha ông / chủ cũ), đó chính là điềm xấu, đến lúc chung cuộc thì sẽ tốt hơn nhưng mà vẫn không hiện hữu (ứng với đến hào 6 được thưởng nhưng lại bị lấy lại).
hào 4: Bất khắc tụng.Phục tức mệnh .Du. An, trinh cát.
dịch: Không thể cãi thắng.Được phục mệnh.Biến chuyển. An nhiên, đoán mở.
Nếu biết giữ miệng, tâm an thì tốt vì hào này sắp được tin dùng trở lại .Tránh gây oán thù.Hào 4, kề cận Chí tôn, lời người xưa ví như Công Khanh, nên phải có cách ứng xử phù hợp. (coluong70)
hào 5: Tụng nguyên cát .
dịch: Luận cãi. Rộng mở .
Đức hay vị đáng (trung chính), nên đưa ra lý luận của mình .
hào 6: Hoặc tích chi bàn đái . Chung triêu tam sỉ chi .
dịch: Dầu có được ban thưởng đai lớn thì đến cuối buổi chầu cũng sẽ bị ba lần lấy lại !
Hào này không nghe lời quẻ khuyên nên dù thắng cãi, được thưởng thì hậu quả cũng xấu xa . Chữ 3 lần là nói thậm cách chỉ sự chắc chắn sẽ xảy ra.
7/ QUẺ SƯ:
Sư có nghĩa là đám đông, quân đội.Chỉ thời dụng binh thì mọi người đều phải qui về một mối, kỷ luật thép .Chỉ có vị tướng chỉ huy là có quyền trong quân ngũ, trên nói dưới phải nghe . Theo QNBội thì có thể giải thích theo cách chiết tự như sau:
Chữ Sư 師 gồm có chữ Súy 帥 và một chữ Nhất 一.
Chữ Súy nghĩa là vị thống lãnh, chỉ huy, tướng soái,… trong chữ Súy này gồm bên phải là chữ Cân 巾 có nghĩa là khăn, vải vóc, lá cờ… và bên trái là chữ Phụ 阜 có nghĩa là gò đất, tường lũy đắp bằng đất,…
Ở trên chữ Cân trong chữ Súy mà lại thêm chữ Nhất thì thành ra chữ Sư hàm ý là một người đứng đầu cờ soái thống lãnh ba quân, chiếm giữ thành lũy. Lá cờ Soái dựng uy quyền duy nhất (theo Javary).
Lời quẻ: Sư.Trinh trượng nhân cát Vô cữu.
dịch: Quân binh. Đoán (dùng) người tài có kinh nghiệm thì tốt .Không lỗi.
Trượng nhân khác đại nhân, đều là người có tài nhưng một kẻ về chuyên môn, một là có đức độ.Thời chiến là 1 thời bất thường thì vua ban toàn quyền cho vị tướng soái, hét thời chiến thì phải dâng trả lại .
hào 1: Sư xuất dĩ luật.Phủ tàng hung.
dịch: Ra quân phải có kỷ luật / theo điệu nhạc lệnh . Nghĩ đến tiền của, xấu.
Phủ viết như bĩ (bế tắc) nhưng phải hiểu là ” có hay không ? “.
hào 2: Tại sư trung, cát, vô cữu.Vương tam tích Mệnh .
dịch: Trong quân, trung dung / chọn trúng, mở, không lỗi. Vua ba lần ban quyền mệnh cho .
Trong Chu Dịch, vua hiếm khi xuất hiện ngoài hào 5: thời chiến nên vua thân chinh giao quyền chỉ huy cho vị soái .Hào này chủ trì quẻ Sư vì duy nhất dương nên duy nhất chỉ huy.
hào 3: Sư hoặc dư thi, hung .
dịch: Ra quân do dự (thì chỉ) mang xác chết mà về, đóng.
Javary hiểu là ra quân thua một trận (chứ chưa thua toàn cuộc) Xấu (nhưng chớ nản vì còn hào 4 đến 6).
hào: Sư tả thứ, vô cữu.
dịch: Quân binh lui về đóng bên trái, không lỗi.
Thời chiến khác thời bình, bên trái là bên khinh (của phó tướng) nên tượng cho lùi binh, nghỉ ngơi Xem Đạo dức kinh chương 31: bên võ soái bên hữu, thời bình bên văn tả thừa tướng cao hơn hữu thừa tướng.)
hào 5: Điền hữu cầm. Lợi chấp ngôn, vô cữu. Trưởng tử xuất sư, đệ tử dư thi, trinh hung.
dịch: Trong ruộng có chim . Nên chấp hành lệnh trên, không lỗi.Con lớn ra quân, con nhỏ (mà ra thì chỉ) mang thây (mà về), điềm xấu .
Chim muông tượng cho giặc cướp.Quyền bính rõ ràng, công tác phân theo khả năng chứ còn mạnh ai nấy làm, dưới không phục tùng trên thì thua toàn cuộc (hào 5 rồi).
hào 6: Đại quân hữu Mệnh, khai quốc thừa gia. Tiểu nhân vật dụng.
dịch: Đại quân được Mệnh trời, mở nước nối nghiệp nhà. Tiểu nhân đừng làm theo.
Đại quân theo tôi chỉ Vũ vương, cầm đầu liên minh thắng Đế Trụ .Người không đủ tài đức, đủ thế lực chớ bắt chước .Javary ở đây theo cổ chẳng những không thấy bóng dáng Vũ vương lại còn giảng (đại quân) đừng dùng tiểu nhân .Theo tôi vậy là sai vì Chu Dịch cũng là sách bói nên phải hiểu mình có xứng đáng không với hào quẻ mình có: Trình Di, Chu Hi hay Học Năng đều hiểu như thế.
Nên nhớ hào 6 là hào cao hơn hào 5 (cửu ngũ là tượng ngai vua) nên hoặc siêu việt hoặc xiêu đổ; nói chung là ra ngoài, đứng bên tình huống của quẻ. Vua ở hào 6 lúc ấy là minh chủ nên gọi là Đại quân không gọi là vương hay thiên tử (là vua trong chức năng tôn giáo: thần – vương, hay còn gọi là người thay mặt toàn gia tộc/ tất cả bộ tộc thuần phục tế lễ thông cảm với Trời Đất).
Lãnh Mệnh là chủ thuyết của Tây Chu để đả phá thuyết Trung Quân (trung thành với vua) của các nho gia như Bá Di, Thúc Tề đã cố can ngăn Cơ Phát (Vũ vương) đừng đánh Đế Tân (Trụ) .Xem thêm quẻ 49 Cách .
8/ QUẺ TỶ:
Tỷ nghĩa là sánh vai, gần gủi .Rất có thể nói về hội thề liên minh do Vũ vương chủ xướng với 800 nước khác để đánh Trụ theo tôi .
Lời quẻ: Tỷ cát.Nguyên phệ: nguyên vĩnh trinh, vô cữu.Bất ninh phương lai, hậu phu, hung.
dịch: Kết hợp, mở.Hỏi bói bằng cỏ Thi:điềm mở đầu lớn và lâu dài, không lỗi.Có những kẻ lòng không an đến sau, đóng.
Người xưa xem bói, ăn thề để làm vững lòng tin .Những kẻ không tin tưởng, đến hội trễ thì không còn dịp liên minh .
hào 1: Hữu phu, tỷ chi, vô cữu.Hữu phu doanh phẫu, chung lai hữu tha, cát .
dịch: Có lòng tin để liên minh, không lỗi.Lòng tin đầy đặn (đầy cả ang) nên cuối cùng (kéo được) người ngoài theo đến, mở .
Không hiểu tại sao Javary lại hiểu tha là vật hay việc mà không là người ?
Chữ “tha” 他 còn có nghĩa là “thay đổi” (thay lòng đổi dạ) .
Chỗ này, QNB hiểu là cái cảnh liên minh với nhau thì cắt máu ăn thề, nên mới nói: lòng tin đầy cả cái vò (phữu/phẫu), chết mới có thể thay đổi được.
Tôi thấy cách đọc của QNB rất hay.
Hào 2: Tỷ chi tự nội, trinh cát.
dịch: Đoàn kết từ bên trong, đoán tốt.
hào 3: Tỷ chi phỉ nhân.
dịch: liên kết với bọn xấu / cướp.
Hào này không biết chọn bạn vì tuy vị chính nhưng không ứng, không hợp (các hào 6, 2, 4 đều cùng âm nhu).
hào 4: Ngoại tỷ chi, trinh cát .
dịch: Bên ngoài đồng minh, đoán tốt.
Được người ngoài kết hợp, việc lớn có thể bàn ra minh bạch (hào 4 đã là phần ngoài quẻ, đây là 1 trong những lý do cơ bản để hậu thế chia quẻ lục quái ra thành 2 quẻ nội, ngoại / tỳ hào 2 nội, hào 4 ngoại).
Hào 5: Hiển tỷ .Vương dụng tam khu, thất tiền cầm .Ấp nhân bất giới.Cát.
dịch: Làm sáng tỏ liên minh.Phép vua (khi đi săn) thì chỉ vây 3 mặt, (chịu) để mặt trước chim muông có lối thoát (ai không muốn thì thôi không bắt ép) .(Nhờ đức độ như vậy) người trong ấp (thuộc quyền cai trị trực tiếp của vua) không e dè gì .Mở.
Hào này trung, chính lại có ứng, được hợp nên vua ở đây thật đắc vị .Tích chỉ vây 3 mặt là điển về Thành Thang vua đầu của nhà Thương .
hào 6: Tỷ chi vô thủ, hung.
dịch: Kết nối mà không có đầu (sỏ), đóng.
Thường thì cổ giảng vô thủ là vô đức, không dường mối; Javary thì cho là không đồng thuận.Tôi nghĩ không cần trừu tượng hóa, vô thủ ở cuối thời Tỷ là phe theo Ân đã mất thủ lãnh khi Trụ tự thiêu sau khi bại trận thì liên minh này đã tan rã . Tuy nhiên hiểu như nho gia thì hay cho việc sửa mình .
9/ QUẺ TIỂU SÚC:
Nghĩa đen là nuôi thú nhỏ, nên hiểu là thuần tính bằng phương pháp âm nhu (tiểu). Quẻ này hào âm duy nhất ở vị 4, đắc chính lại là hào chủ thể của toàn quẻ.Javary cũng như xưa Chu Hi bảo là tượng cho thời gian Văn vương bị Trụ giam ở Dữu lý và cách hành xử của ông ta để đối phó với hoàn cảnh cay nghiệt này (có thể bị giết, không biết khi nào được về). Vậy nên quẻ này được giảng là kiên nhẫn sửa soạn tương lai trong sự mất mát của hiện hữu.
Lời quẻ: Tiểu súc, hanh .Mật vân bất vũ tự ngã tây giao.
dịch: Nuôi cái đức nhỏ, cầu nguyện .Mây đen dày đặc (mà vẫn) chưa mưa ở cõi Tây của ta .
Nếu hiểu hanh là hanh thông thì phải giảng là tuy thế bị ngăn trở nhưng lại giúp ta dùi mài cá tính để mai này tiến xa được (Javary). Hiểu là hưởng, cầu nguyện vẫn không nên hiểu buông xuôi thụ động thôi vì tuy bị bó buộc (bên ngoài) nhưng (bên trong) vẫn không nản mà tu đạo (xem hào 1).
Hào 1: Phục tự đạo, hà kỳ cữu ? Cát.
dịch: Trở lại đạo (trong) ta thì lỗi gì ? Mở.
Hào này dương, ứng với hào 4 chủ thể (âm) .Lấy việc mài dũa đạo làm phương châm vượt nạn. Chu Hi, Javary v.v… giảng hào này tiến tốt lại bị hào 4 ngăn trở, biết tự giữ mà không lỗi, thì theo tôi không phải sai nhưng dễ làm người đọc hiểu lầm.
Hào 2: Khiên phục cát.
dịch: Giật dắt trở lại, mở.
Vị này đắc trung nhưng bất chính nên cần phải lôi kéo trở lại đạo thì tốt.
Hào 3: Dư thoát bức.Phu thê phản mục.
dịch: Xe long trục. Vợ chồng trái mắt.
Vị này bị dồn nén khó chịu.Không có từ phê xấu thì khó khăn chỉ một thời.
Hào 4: Hữu phu: huyết khứ, dịch xuất, vô cữu.
dịch: Có lòng tin, (giờ đây) máu tan, lo (cẩn thận) hiện ra, không lỗi.
Hào 4 là hào công khanh gần vua nên chỉ Tây bá (tức Văn vương) vào triều bị Đế Tân (Trụ) bắt giữ. Nhờ đắc chính nên trỏ việc sau 7 năm bị bắt thì được thả .Nhưng nỗi sợ bị giết tuy hết (huyết khứ) nhưng chưa thể nào thôi thận trọng (dịch xuất).Chứ không thể hiểu theo cổ điển là lo sợ tiêu tan . Tôi theo Javary nhưng ghi thêm bối cảnh Tây bá được thả .
Hào 5: Hữu phu, loan như.Phú dĩ kỳ lân.
dịch: Có lòng thành tín ràng buộc .Giàu lên nhờ láng giềng.
Các nho gia, học giả đều giảng nhờ trung chính mà hào 4 (Tây bá) cảm hóa được hào 5 (Đế Tân).Lấy lòng thành mà tin tưởng nhau (Tây bá không oán hận).Tôi nghĩ hiểu như vậy đúng nhưng không đủ vì còn vế sau: giàu nhờ láng giềng; vì điểm trọng yếu của sách lược nhà Chu là giữ được trao đổi tốt với Đại quốc (Ân) để phát triển dù thế nào đi nữa. Ta nên nhớ cha của Tây bá là Quý Lịch đã trước đó bị vua Văn / Thái Đinh nhà Ân bắt lỗi để giết đi, bây giờ Cơ Xương bị tù 7 năm mà họ vẫn không động binh mà còn muốn giao hảo để lớn mạnh thì đủ thấy Tây Chu tính xa như thế nào .
Hào 6: Ký vũ, ký xử.Thượng đức tái.Phụ, trinh lệ.Nguyệt cơ vọng .Quân tử chinh hung.
dịch: Mưa rồi! nghỉ ngơi.Chở đức cao / giữ chức lớn. Vợ / đàn bà, điềm nguy. Trăng sắp rằm.Quân tử đi đánh dẹp thì xấu.
Mưa đang chờ ở lời quẻ đến hào cuối bây giờ đã rơi.Đây là lúc ngơi nghỉ lấy lại sức, nên tăng đức, chưa phải là thời đánh dẹp (động binh với Ân). Người vợ hay đàn bà có điềm nguy và Trăng sắp rầm nói về khí âm đang mạnh phải chăng nói về Đắc Kỷ, kẻ làm mê say Trụ gây ra bao tội ác ?
10/ QUẺ LÝ:
Lý là giầy xéo, dẵm đạp, bước đi.Quẻ này bàn về cung cách ứng xử khi ở gần một sức mạnh đáng gờm và nguy hiểm.Hình ảnh tượng trưng là dẵm lên đuôi cọp ; thực tế là phép tiểu quốc (Chu) cư xử với đại quốc (Ân).Quẻ này Javary không giảng gì mới, tôi diễn qua lăng kính Ân / Chu .
Hai hào dưới giao dịch còn ít còn giản dị. Hai hào giữa thật là nguy hiểm vì Chu đã phát triển nhưng chưa đương nổi con cọp Ân. Hai hào trên Chu cường thịnh và có ý dòm ngó Ân.
Lời quẻ: Lý hổ vĩ, bất điệt nhân, hanh.
dịch: Dẵm lên đuôi hổ, nó chẳng cắn người, hanh thông.
Cái quan trọng nhất khi sống bên cạnh một đế quốc là đừng cho nó cơ hội nuốt mình.
Hào 1: Tố lý, vãng, vô cữu.
dịch: Bước đi đầu, tiến lên, không lỗi.
Hào 2: Lý đạo thản thản.U nhân, trinh cát.
dịch: Đi trên đường bằng phẳng.Người ẩn mình, đoán mở.
Chu còn bé nhỏ chưa vào tầm ngắm của Ân.
Hào 3: Miễu năng thị, bã năng lý . Lý hổ vĩ, điệt nhân,hung.Vũ nhân vi vu đại quân.
dịch: Chột nhìn được, què đi được.Đạp đuôi cọp, nó cắn người, xấu. Vũ phu mà làm việc của đại quân .
Theo QNB thì có thể dịch “Miếu năng thị, bả năng lý” = Cái nhìn của kẻ chột, cái bước đi của kẻ què.
Tức là nhấn mạnh vào cái khả năng đã bị khiếm khuyết. Nếu không tự lượng sức thì sẽ gây ra họa xấu khi mà đòi làm cái việc quá khả năng của mình. Kẻ chột thì thấy sao rõ được, kẻ què thì đi sao vững được, loạng quạng dẫm vào đuôi cọp nó cắn cho thì khổ.
Cho nên, vế sau mới nói “Vũ nhân vi vu đại quân” = vũ phu mà làm cái việc của bậc cai trị.
Tức là, cái khả năng của kẻ võ biền thì khiếm khuyết về trí tuệ cai trị, nên nếu chẳng tự lượng sức mình thì hỏng bét.
Sức Chu đã khá nhưng so với Ân thì chưa là gì .Vọng động thì bị cọp cắn.Có sức mạnh nhưng chưa có đức của minh chủ (đại quân qui tụ liên minh) thì chỉ khiến kẻ kia muốn diệt mình ngay (lời hào lập lại lời quẻ nhưng ở đây bị cắn).Có thể nói về chuyện Quý Lịch cha Cơ Xương sau khi 3 lần thắng giặc bị đế Văn Đinh lo ngại triệu về triều rồi tìm lỗi nhỏ bắt giết .
Hào 4: Lý hổ vĩ, sóc sóc.Chung cát.
dịch: Dẵm lên đuôi cọp,(biết) sợ sệt thì đến cuối tốt.
Làm cho người ngờ nhưng biết sợ, thận trọng, không khiêu khích, che cái sáng thì có thể tránh được họa diệt vong .
Hào 5: Quyết lý, trinh lệ.
dịch: Bước đi cương quyết .Điềm nguy.
(Lớn mạnh rồi) nhưng hăng quyết quá vẫn nguy.Quyết hay Quải là tên quẻ số 43, nên xem thêm.Đắc trung, đắc chính nhưng quẻ này có 5 hào dương nên ngôi cửu ngũ có thể cương quá nên tuy vị đẹp vẫn bị phê nguy.
Hào 6: Thị lý, khảo tường.Kỳ toàn, nguyên cát .
dịch: Nhìn kỹ bước đi, xét điềm lành .Hoàn hảo, tốt lớn.
Tính toán thận trọng, chờ cơ hội tốt .Thập toàn rồi (mới hành động/ đánh Ân) thì mới thật tốt. Hào này bất trung, bất chính vậy mà được phê tốt lớn đó chỉ vì cuối thời Lý rồi, cọp đã về già .
Javary giảng rất lạ: kỳ toàn là đi hết một chu kỳ trở lại cái trong trắng của hào 1. Nếu quên bối cảnh Ân / Chu thì hiểu theo cổ điển sát nghĩa hơn .
11/ QUẺ THÁI:
Quẻ Thái tượng cho mùa xuân mới đến, vạn vật sinh sôi nảy nở, sức sống dâng tràn.Đó không phải là thời của sung mãn mà là của cơ hội đầy dẫy và sống trong mùa xuân là biết nương theo sự khai triển của thiên nhiên chứ ta không biết trước được kết quả hay hướng đi của vạn vật . Cơ hội hay cạm bẫy, tùy ở nơi ta biết buông, nắm.
Lời quẻ: Thái.Tiểu vãng đại lai.Cát, hanh.
dịch: Thái.Nhỏ đi lớn tới.Mở, thông.
Thường được hiểu như lúc khí âm, lạnh ra đi, khí dương, ấm trở lại nên mọi vật khai nở.Ở Á Đông mùa xuân được bắt đầu từ Lập Xuân (4 hay 5/2 dương lịch) đại diện bởi quẻ Thái này chứ không phải từ Xuân Phân (20 hay 21/3 dl) là lúc khí hậu đã ấm cúng . Ý cổ nhân là phải nương theo từ lúc khởi đầu .
Ở đây Javary cho là phải hiểu quẻ này là cơ hội tốt lành cho Tây Chu (hào 5 nói về vua nhà Ân gã cháu gái cho Cơ Xương / tây bá giúp cho Tây Chu cường thịnh lên).Thái vậy là lúc âm dương giao thoa (tượng 3 hào dương đi lên gặp 3 hào âm đi xuống) để sinh ra cái Mới tốt lành .Tiểu / Đại là tiền thân của Âm/Dương sau này.
Hào 1: Bạt mao nhự, dĩ kỳ vị .Chinh cát.
dịch: Nhổ cỏ tranh, cả cụm, phân loại chúng.Đánh dẹp mở.
Vế đầu hào này giống hệt vế đầu hào 1 quẻ 12 Bĩ: Xuân hay thu gì cũng bắt đầu bằng dọn dẹp, tổ chức.Thời Thái thì cần sự cứng rắn (đánh dẹp).
Hào 2: Bao hoang.Dụng bằng hà, bất hà di .Bằng vong .Đắc thượng vu trung hành.
dịch: Chịu đựng (khổ cực khi qua) vùng đất hoang sơ cằn cỗi. Qua sông không để lại cái gì.Mất bạn (vì có tộc đồng minh không theo).Được phần thưởng do hành động đúng đắn.
Hoang là vùng đất hoang đầy cỏ dại ; di là để lại ; trung là trúng hay trung dung.
Rõ ràng hào này nói về cuộc di dân của Cổ công Đản Phủ, ông của Văn vương từ đất Mân (để tránh rợ Địch) sang đất Chu .
QNB phân tích chú thêm:
包 荒 “Bao hoang” xưa nay vẫn được hiểu là: lòng bao dung lớn, sự thâu nạp,… Xuất phát từ nghĩa gốc là “thu gom sát nhập vùng đất hoang” và “thâu nạp, phụ trách vật hư phế”.
馮 河 “bằng hà” có nghĩa là: đi/lội qua sông (mà không có sự trợ giúp của thuyền bè hay cái gì cả). Nghĩa bóng là ám chỉ sự “hữu dũng vô mưu”.
不 選 遺 “bất hà di” = không bỏ sót, không để lại cái gì cả,…
Nhưng chữ “Bằng” trong “bằng hà” này, có chữ 用 “dụng” đứng trước, mà hiểu với nguyên nghĩa là: lấn, vượt sang,… thì khi hiểu liền với nghĩa của “bao hoang” phía trước đó ta sẽ được:
Thu gom những đồ phế phẩm, dùng để vượt qua sông, không bỏ lại cái gì cả.
朋 亡 “Bằng vong” = có người bạn chết / có người bạn lưu vong đi theo
得 尚 于 中 行 “Đắc thượng vu trung hành” = Nên phải coi sóc/quản lý ở trên đường đi.
Như vậy, toàn bộ hào 2 có thể hiểu là:
Thu gom những đồ phế phẩm, dùng để vượt qua sông, không bỏ lại cái gì cả. Có bạn lưu vong đi theo. Nên phải coi sóc ở trên đường đi.
Hào 3: Vô bình bất bí, vô vãng bất phục .Gian trinh, vô cữu .Vật tuất kỳ phu.Vu thực hữu phúc .
dịch: Không có bình nguyên nào lại không có vực, đồi (lồi lõm), không có đi mà chẳng lại .Điềm gian nan, không lỗi.Chớ có lo sợ (người dân không)tín nhiệm.Phúc thay (được) thức ăn (đầy đủ).
Hành trình gian nan rồi cũng tới .Người dân mến tài đức của Cổ công mà đều theo ông đông đảo .Đất chân núi Kỳ sơn rồi Chu nguyên màu mỡ là phần thưởng cho tộc Chu.
Hào 4: Phiên phiên. Bất phú dĩ kỳ lân .Bất giới dĩ phu.
dịch: Phơi phới dập dìu.Chẳng có liên hệ kinh tế với láng giềng .Chưa phải xem chừng phức tạp nên tin tưởng (giao hảo).
Cổ điển thường răn đe phải coi chừng bè tiểu nhân (3 hào âm) đi xuống .Javary cho rằng giao dịch với nhau có tin tưởng thì mới tốt .Tôi gần với cổ hơn vì cho rằng hào này còn đang vui mừng nên chưa biết cần thận trọng khi giao dịch (kinh nghiệm bói toán cá nhân).
hào 5: Đế Ất qui muội, dĩ chỉ. Nguyên cát.
dịch: Đế Ất gã cháu gái cho.Đầu mối của phúc lớn tốt lành .
Đế Ất là cha Đế Tân / Trụ gã cháu gái là Thái tự, công nương đất Sằn cho Cơ Xương với 2 em gái phụ dâu để nối lại giao hảo với Chu (cha Xương là Quý Lịch bị vua trước bắt lỗi giết đi).Chữ Muội ở đây cho thấy nhân vật chính là 1 cô em gái được gã theo, sau này là mẹ của Vũ vương, Chu công và 7 người nữa (xem thêm các quẻ 53 Tiệm và 54 Qui muội). Thời ấy các quí tộc lấy nhau thì thường lấy nhiều người là chị em cùng một lúc (em họ cũng được) để bảo đảm cho sự nối dõi tông đường và liên hệ sui gia tốt .
Hào này âm sai vị tuy trung nhưng được xem là tốt nhất quẻ vì biến cố này không đưa Chu lên ngai vàng nhưng chính là đầu mối cho sự “thành rồng ” sau này.Hào âm cũng hàm ý bà muội, mẹ vua Vũ và Chu công.
Hào 6: Thành phục vu hoàng.Vật dụng sư, tự ấp cáo Mệnh .Trinh lận .
dịch: Thành (đất) xụp đổ xuống hào.Chẳng nên dùng binh.Ở ấp mình mà báo mệnh.Điềm lận đận.
Giao thiệp không còn tốt nữa (Tây bá Xương bị cầm ở Dữu) Chẳng nên động binh.Nhưng báo với trời ta nay độc lập .Điềm lận đận vì còn phải khôn khéo để cứu giải Tây bá .
12/QUẺ BĨ
Bĩ là bế tắc, mắc kẹt .Quẻ này tượng trưng cho mùa Thu, lời quẻ trái ngược với lời quẻ Thái, Âm dương xa cách nên phải thu liễm sửa soạn cho mùa Đông phải ẩn tàng .Nhưng rồi cái gì cũng qua ta lại sẽ sửa soạn cho xuân hạ sinh, trưởng.Tổng hợp các hào: quẻ Bĩ không xấu mà chỉ là xấu cho sự tăng trưởng, thăng tiến là thời nên tránh, bỏ .Kiên trì sửa soạn cho sự vật cùng tắc biến .
Lời quẻ: Bỉ chi phỉ nhân.Bất lợi quân tử trinh. Đại vãng, tiểu lai.
dịch: Bĩ là(thời) của tiểu nhân . Chẳng lợi quân tử cố giữ chính bền . Lớn đi, nhỏ lại .
Trí dũng kiên tâm của người quân tử ở đây không hợp thời, chống trả tiểu nhân đắc thời, đắc vị là không nên .Phải có tài đức như bậc đại nhân (xuất hiện ở 2 hào trung 2,5) mới biết cách xử đúng thời. Giữ đạo, tránh theo tiểu nhân, biết nói không (bĩ còn đọc là phủ) mà vẫn tránh được tai họa .
Hào 1: Bạt mao nhự, dĩ kỳ vị .Trinh cát, hanh.
dịch: Nhổ cỏ Tranh cả cụm, phân loại chúng .Đoán tốt, cầu nguyện .
Hào này lập lại lời hào 1 quẻ Thái trừ lời phê . tới giao mùa phải sửa soạn nhưng xuân thì chinh, thu thì cầu nguyện, tế lễ .Biết liệu thời tri cơ thì đoán tốt.
Hào 2: Bao thừa.Tiểu nhân cát, đại nhân bĩ.Hanh.
dịch: Nhận chức vị. Tiểu nhân tốt, người tài đức không nhận / bế tắc .Cầu nguyện .
Trên bất chính thì người tài đức biết không làm gì được hay không muốn giúp vì vậy bế tắc .Kẻ tiểu nhân chỉ cầu tư lợi thì mừng .
Hào 3: Bao tu.
dịch: Mang điều xấu hổ.
Hào này chẳng làm được gì, cũng không bỏ đi được Cho nên đại nhân phải chịu dèm pha, chê cười .Tiểu nhân mặt mày dày dạn thì cố đấm ăn xôi .
Hào 4: Hữu mệnh vô cữu.Trù ly .Chỉ.
dịch: Được Mệnh, không lỗi. Phân biệt các chủng loại .Phúc thay .
Hào này có quyền có thể sửa sang được rối loạn .Lại ứng với hào 1, cả 2 bất chính nên cần phân loại làm sạch .
Theo QNB thì chữ 離 “Ly” chỉ mang nghĩa “sáng tỏ” khi mà đã xuất hiện quái đơn (quái 3 vạch) do tượng của quái này là lửa nên dẫn đến nghĩa sáng, sáng tỏ,…
Cho nên ở đây, ta có thể hiểu với nghĩa gốc của chữ Ly = phân ly, chia ly,…
Như vậy thì dùng nghĩa của chữ 疇 “Trù” trong vai trò danh từ = ruộng đất, chủng loại,…
Thì có thể hiểu là: Ruộng đất được chia ra, được phân loại ra.
Và cả hào 4: Có phận, không có lỗi. Ruộng đất được chia. Được hưởng phần (tức là có phúc phần).
Như vậy nó vẫn ứng với “cát” và “hanh” ở hào 1. Và sau đó đến hào 5 thì cái lúc bĩ nó ngừng lại, vận xui nó đã lui (hưu bĩ).
Hào 5: Hưu bĩ, đại nhân cát .Kỳ vong, kỳ vong ! Hệ vu bao tang .
dịch: Bĩ ngừng, đại nhân mở.Này mất! này mất ! Buộc chặt vào cụm rễ dâu .
Bế tắc giảm, người tài đức có cơ, nhưng mà còn lo lắm vì có thể cái xấu chỉ tạm ngừng nên phải làm sao cho việc ta lâu dài và vững chắc (cụm rễ dâu).
Hào 6: Khuynh bĩ.Tiên bĩ hậu hỉ.
dịch: Bế tắc đã hết .Lúc đầu bế tắc sau vui mừng .
13/QUẺ ĐỒNG NHÂN
Đồng nhân là đồng tâm, hòa hợp với người .Nhưng đó không phải là việc dễ.Hai hào đầu còn quanh quẩn trong gia tộc, hai hào cuối là kết hợp với người ngoài, hai hào giữa không có cụm từ ” đồng nhân ” là thời nghi ngờ, tranh giành .
Lời quẻ; Đồng nhân vu dã, hanh. Lợi thiệp đại xuyên .Lợi quân tử trinh.
dịch: Cùng người đến tận đồng xa, hanh thông. Nên qua sông lớn.Quân tử nên chính bền.
Xem thêm “lợi thiệp đại xuyên ” ở phần dẫn nhập / biểu tượng.lời quẻ nói rõ cần cố gắng mang sự đồng hợp đến càng xa càng tốt (dã là nơi xa thành, ấp), cần vượt qua chính mình và phải bền bĩ chính trực thì mới mong làm bạn được với tất cả, kể cả giống dân khác văn hóa .
Hào 1: Đồng nhân vu môn, vô cữu.
dịch: Cùng người ở cửa nhà, không lỗi.
Thời còn nhỏ hãy tập đồng thuận trong gia đình.
Hào 2: Đồng nhân vu tông, lận .
dịch: Cùng người ở từ đường, lận đận .
Hào này đã lớn biết hòa hợp với gia tộc .Nhưng bị phê lận đận xấu hổ vì tuy trung, chính nhưng là hào âm duy nhất trong quẻ cho nên hẹp hòi không chấp nhận khác biệt của người ngoài..
Hào 3: Phục nhung vu mãng.Thăng kỳ cao lăng.Tam tuế bất hưng.
dịch: Dấu binh trong rừng.Lên gò cao / mộ tổ.Ba năm chẳng dấy.
Thời này gặp khó khăn, nghi kỵ với người ngoài nên lại về với vây cánh họ hàng .Nhưng chữ “cao ” cho thấy ta phải vượt lên cao, nhìn xa suy nghĩ sâu để hiểu tại sao ta không hòa hợp được với người .Ba năm tượng cho một thời gian không quá lâu .
Theo QNB thì chỗ này có thể bỏ hai chữ “mộ tổ” đi cũng được . Vì chỉ cần nói, lăng = gò cao, là được.
Và cả hào này = Dấu binh trong rừng. Đưa chúng lên gò cao. Ba năm chẳng dấy.
Hào 4: Thừa kỳ dung.Phất khắc công, cát .
dịch: Cưỡi lên tường nhưng không đánh được.Mở.
Hào này vẫn chưa hòa đồng nhưng không đánh được, hoặc có lý hơn, không đánh nữa, nghĩa là bắt đầu bớt nghi kỵ, có lẽ nói chuyện được với người nên được phê mở .
Theo QNB hiểu là: Dẫn chúng lên thành. Không tấn công. Mở.
(Chữ “kỳ” ở đây vẫn được hiểu là đại từ mang nghĩa = họ, chúng nó,… là ám chỉ binh lính, thế lực của phe mình)
Hào 5: Đồng nhân, tiên hào đào nhi hậu tiếu .Đại sư khắc tương ngộ.
dịch: Hòa hợp với người.Lúc đầu kêu gào sau lại cười .Các bậc soái tướng chấp nhận gặp nhau .
Đánh nhau vỡ đầu rồi mới nhận bạn .
Hào 6: Đồng nhân vu giao. Vô hối.
dịch: Cùng người ở tận biên cương (giao là khoảnh đất xa nhất trong phạm vi kiểm soát của ấp), không hối gì .
Cuối thời Đồng nhân thì ta đã hòa hợp được với người xa .Nhưng có lẽ chưa xa được như lời quẻ (giao chưa ở ngoài như dã / hoang dã tộc khác văn minh), âu đó là khác biệt giữa thực tế và lý tưởng.
Chú thêm QNB: Quẻ này nhận thấy, hào 1, 2, 3, lần lượt là các thời kỳ đối nội. Còn các hào 4, 5, 6 thì lần lượt là các thời kỳ đối ngoại.
Toàn quẻ thể hiện sự giao thiệp cùng với người ta (đồng nhân) nhưng có phân chia trong ngoài (nội, ngoại).
Chữ “Giao” (ở hào 6) có nghĩa là 1 vùng đất ở bên ngoài thành, phạm vi khoảng cách so với thành là 50 – 100 dặm. Như cách thành 50 dặm thì gọi là “cận giao”, còn cách thành 100 dặm thì gọi là “viễn giao”.
14/ QUẺ ĐẠI HỮU
Đại hữu nghĩa đen là có lớn, khoan rộng nhưng thật ra nên hiểu là guồng máy (đại) có khả năng biến hư thành thực, tiềm tàng thành hiện hữu.Làm ra được là ở năm hào dương nhưng không có hào 5 âm (thiên tử) qui hợp thì không thực hiện được việc lớn (xã hội, đất nước giàu mạnh).Quẻ này thường được dùng để nói về cái tính ” vô ” (Lão tử chương 40: Sự vật trên thế gian sinh khởi từ cái có, cái có sinh khởi từ cái không) theo trường phái Hoàng Lão diễn nghĩa Dịch kinh từ Vương Bật thời Tam quốc.
Lời quẻ: Đại hữu . Nguyên hanh .
dịch: Đất nước (đại) giàu mạnh (hữu).Mở đầu lớn, hanh thông .
Xem “nguyên hanh ” ở phần dẫn nhập/ biểu tượng . Javary tuy giảng Đại hữu là Cái Lớn làm thành hiện hữu nhưng không thấy đại trỏ ở đây xã tắc dưới mắt vương, công nhà Chu.Quẻ này lấy hào 5 âm làm chủ tượng thiên tử, cả 6 hào đều không có cụm từ “đại hữu “, vậy cái Đại hữu phải là cái lớn hơn các phần tử của quẻ vậy phải là xã tắc, đất nước .
Hào 1: Vô giao hại, phi cữu.Nan tắc vô cữu.
dịch: Không giao thiệp gây hại, chẳng có lỗi.Khó khăn, không lỗi.
Xem ” vô cữu ” ở phần dẫn nhập/ thuật ngữ. Đầu thời Đại hữu thì gian nan khó khăn, chỉ cần tránh giao thiệp sai lầm là được (tránh gây sự rối ren trong nước).
QNB hiểu là: Chớ giao nộp nơi trọng yếu. Chẳng có lỗi. Khó nhưng không lỗi.
Vì chữ “giao” còn có nghĩa là đưa, trao, nộp, trao cho, giao nộp,… còn chữ “hại” còn có nghĩa là nơi trọng yếu, nơi yếu hại,…
Hào 2: Đại xa dĩ tãi, Hữu du vãng.Vô cữu .
dịch: Xe lớn để chở, có chỗ đến .Không lỗi.
Xem ở phần thuật ngữ hữu du vãng và vô cữu.Hào này có khả năng làm được việc, đi đến đích .Có học giả cho là tượng xe chở lúa vào mùa gặt.
Hào 3: Công dụng hanh vu thiên tử .Tiểu nhân phất khắc.
dịch: (Chu) công làm (mọi việc) hanh thông cho thiên tử. Kẻ tiểu nhân chẳng sao nổi .
Chu công nhiếp chính khi vua anh mất sớm (quẻ 4 Mông), nhờ ông mà Chu giữ được ngai vàng (xem hào 6 quẻ 15 Khiêm) .Dịch theo Chu Hi hanh là hưởng / tế lễ và hiểu Công dùng lễ dâng lên thiên tử . Thiên tử là chức năng thần – vương của vua: con Trời.Tức là người nắm quyền trong thiên hạ và có khả năng và bổn phận thay mặt mọi người tế thông lên với Trời (Thiên của nhà Chu).Xem thêm quẻ 45 Tụy .
Hào 4: Phỉ kỳ bành, vô cữu.
dịch: Chớ hoành tráng.Không lỗi.
Cũng có thể hiểu đừng lợi dụng chức vị cao to để bành trướng ngoài nghĩa ỷ y giàu có, hợm hĩnh .
Hào 5: Quyết phu, giao như, uy như . Cát .
dịch: Lòng tin chí thành (giúp) giao dịch, (giúp) oai nghiêm .Mở.
Lòng tin thể hiện ở đấng quân vương giúp cho mọi việc đều thông thuận, trôi chảy.
Hào 6: Tự thiên hựu chi .Cát, vô bất lợi .
dịch: Tự trời (cũng) giúp cho .Mở, không gì là chẳng lợi .
Phải cả thiên nhiên giúp đỡ mới đạt được đại hữu .
Lời bàn thêm của pth 77: Trong ngoài ổn định rồi thì tiến hành xây dựng bộ máy nhà nước – Xe lớn để chở – nhằm xây dựng quốc gia, lãnh thổ. Nên Đại Hữu cũng hàm nghĩa xây dựng thể chế, bộ máy nhà nước – guồng máy (đại) có khả năng biến hư thành thực, tiềm tàng thành hiện hữu – với hiền thần (như Chu công), với thủ lĩnh chí thành (Vua -hào 5), có lòng tin cảm tới Trời, nên cũng được Trời giúp mà thành công – Phải cả thiên nhiên giúp đỡ mới đạt được đại hữu.
15/ QUẺ KHIÊM:
Khiêm là khiêm nhường, khiêm cung, nhũn nhặn và khéo giữ.Quẻ này rõ ràng là trang sử của Tây Chu từ di dân mở nước thời Cổ công đến thời Chu công giữ nước.Không hiểu sao Javary lại không thấy ?
Sách lược chủ yếu của Tây Chu là đây: nhún nhường và khéo giữ.
Lời quẻ: Khiêm hanh .Quân tử hữu chung .
dịch: Nhún nhường hanh thông.Người quân tử có hậu .
Người quân tử (xem thêm ở phần dẫn nhập/ biểu tượng) là tượng cho các đời thủ lãnh của Tây Chu .
Hào 1: Khiêm khiêm.Quân tử dụng thiệp đại xuyên, cát .
dịch: Khéo giữ nhún nhường.Quân tử dùng đức ấy để qua sông lớn, mở.
Đây nói về Cổ công Đản Phủ (cụ vua Vũ, ông vua Văn, sau này Chu lấy thiên hạ thì được gọi thụy là Thái vương).Ông này là người tránh rợ Địch, dùng đức nên được dân theo di dời bộ tộc từ đất Mân về chân núi Kỳ .Qua sông lớn ở đây theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Hào 2: Minh khiêm .Trinh cát
dịch: Tiếng khiêm vang rền.Điềm mở.
Đản Phủ thấy cháu là Xương thông minh, đức dộ nên truyền ngôi cho con út là Quý Lịch để mong ngôi đến tay Xương (2 anh của Quý Lịch biết ý nên bỏ đi lập nghiệp phương xa).
Hào 3: Lao khiêm .Quân tử hữu chung, cát .
dịch: Trong nhà lao vẫn thu mình khiêm cung.Quân tử có hậu, mở.
Lao ở đây là lao nhọc nhưng nên hiểu là lao lý (chữ đồng âm dùng thông nhau thời cổ đại) .Xương bị Đế Tân cầm tù 7 năm ở ngục Dữu vì bị nghi chống đối .Nhờ khiêm cung và nước Chu nhũn nhặn nên cuối cùng ông được thả (xem thêm quẻ số 9 Tiểu Súc).
Hào 4: Vô bất lợi, Huy khiêm .
dịch: Chẳng gì không lợi .Phát huy tính khiêm .
Xương về rồi không báo oán mà vẫn tiếp tục giao hảo với Ân, cùng lúc lại phát triển bờ cõi đánh Sùng, được dâng đất Phong, lập đô mới tại đó .
Hào 5: Bất phú dĩ kỳ lân .Lợi dụng xâm phạt .
dịch: Giao hảo với láng giềng không còn lợi .Nên đánh phạt Ân .
Xương chết, Phát lên .Thấy Trụ vô đạo bèn hội 800 nước liên minh đánh Ân .Lần đầu lui binh vì chưa có thời cơ .Lần hai chờ Ân phải đánh nhau với rợ sông Hoài phía Đông, Tây binh ra quân thắng ở Mục Dã, Trụ tự thiêu .Tây Chu lập nghiệp vương .
Lưu ý đây là hào duy nhất quẻ không có chữ Khiêm .Đạo Khiêm không phải lúc nào cũng hợp thời .Cái đó gọi là Trung dung: nghĩa là làm đúng thời, đúng lúc .
Hào 6: Minh khiêm .Lợi dụng hành sư, chinh ấp quốc .
dịch: Tiếng khiêm vang rền.Nên dùng binh đánh thành nước (giặc) .
Phát (Vũ vương) mất sớm, Chu công nhiếp chính . Vũ Canh con Trụ vẫn được giữ đất Ân nhân dịp phao đồn Chu công muốn soán đoạt, kéo được 3 người em Chu công đáng lẽ được phong gần Ân (tam giám) để canh chừng là Quản, Hoắc và Sái theo mình chống Chu công ..Sau khi đã giao việc triều chính cho Thiệu công Chu công xuất binh và dẹp được loạn, giữ vững ngai vàng cho cháu là Thành vương .
Chu công Đán con thứ 4 của Văn vương chính là truyền nhân thực thụ của ông về tính khiêm, trung và tài đức cho nên truyền thống Nho mới cho Chu công là nhân vật lịch sử thứ hai viết về Chu Dịch sau Văn vương, trước Khổng tử .
16/ QUẺ DỰ
Dự là vui vẻ lôi cuốn, như lòng người được lôi cuốn theo bài hát, điệu nhạc hay lý tưởng, cơ hội nào đó . Nó có ý nghĩa của sự hưng phấn nên dễ thành không bền nếu không biết củng cố, biến nhất thời thành lâu dài . Và dĩ nhiên trong trường hợp xấu thì cũng dễ thành nghe theo tà thuyết .Hào 4 dương duy nhất là chủ quẻ .
Lời quẻ: Dự, lợi kiến hầu . Hành sư.
dịch: Phấn khích, nên lập hầu, ra quân .
Lợi kiến hầu cũng có nghĩa là phải lập ra chính sách, kế hoạch tiến độ chứ không chỉ làm theo một phút hưng phấn mà không chuẩn bị. Khí thế hưng phấn như mưa bão, như triều dâng cuốn trôi những vật cản khó khăn ngày thường. Nên Chu Dịch lấy việc hội đồng minh, dụng binh phạt Trụ làm ví dụ .
Hào 1: Minh dự, hung .
dịch: Phấn chấn vang động / ồn ào, đóng .
Ứng với hào 4 chủ quẻ nhưng vị bất chính nên quá vội vã thiếu hàm dưỡng (dễ đi theo người nữa) .
Hào 2: Giới vu thạch .Bất chung nhật, trinh cát .
dịch: Ngừng ở (trụ) đá . (Cái vui) không quá ngày .Đoán tốt .
Hào này không a dua, vui nhưng tỉnh táo .
Hào 3: Hu dự, hối.Trì, hữu hối.
dịch: Nhìn lên trên mà vui, (sau lại) hối.Trễ nãi (không theo), có hối thật đấy .
Như lời quẻ đã viết, tiến hay lùi đều không hay vì điều quan trọng là phải biết lên kế hoạch, tính toán đầy đủ để đạt mục đích .
Vị ngay dưới hào 4 chủ quẻ nên nhìn lên trên mà theo vui nhưng rồi lại hối .Khi hứng khởi thì phải biết đặt nền tảng để phong trào, cuộc vui kéo dài.Nếu dùng dằng thì lại sôi bỏng hỏng không, hoặc không theo kịp mọi người .
Hối và hữu hối ở đây khác nhau ở điểm chữ đầu nói về tâm trạng hào 3 mà cụm từ sau là lời phê quẻ .Vì không phân biệt rạch ròi nên nhiều người giảng nhầm là không nên ham vui, phải hối cải (hu là nhìn lên thòm thém, xấu ; nhưng hu cũng có thể hiểu là nhìn lên ước mong nhưng không dám làm).Sách của cụ Học Năng có bài thơ giảng rất rõ như sau:
Mưu cầu chẳng được liền thôi
Chương trình gấp đổi, chẳng ngồi, trách ai ?
Ta thấy hào này có ý mà không tiếp nối bằng hành động nên sẽ có hối hận .
Hào 4: Do dự, đại hữu đắc .Vật nghi, bằng hạp trâm .
dịch: Do ta mà có vui, được điều lớn .Đừng nghi ngờ gì, bạn bè sẽ tụ hợp lại
Trâm là vật để cài tóc, tượng cho việc tụ họp nhưng cũng chỉ khả năng tổ chức .
Hào 5: Trinh tật.Hằng, bất tử.
dịch: Điềm mắc bệnh. Kéo dài nhưng không chết .
Hào này không có chữ dự nên không vui cùng mọi người .Hoặc giả đã đắm đuối trong cuộc vui bây giờ là lúc trả giá .
Hào 6: Minh dự .Thành hữu du, vô cữu.
dịch: Cuộc vui về đêm .Việc thành rồi thì có đổi rời, không lỗi.
Minh ở đây không cùng chữ minh của hào 1 .Nhiều tác giả quên chữ thành, lời phê vô cữu nên hiểu lầm là hào này tối tăm trong hoan lạc .Thật ra cuộc vui gần tàn rồi phải hết, nếu mình biết sửa soạn tốt cho sự nối tiếp thì lỗi gì ?
17/ QUẺ TÙY
Tuỳ là theo, tùy thời, thuận theo hoàn cảnh .Ở đây các hào âm nhu đều có chữ hệ (ràng buộc) có vẻ vì tư tình, lợi lộc mà quấn quít .Còn các hào dương cương thì vì chính nghĩa mà theo (ý Nguyễn Hiến Lê) .Theo tôi thì 3 hào dương khởi xướng, 3 hào âm quấn quít theo.
Lời quẻ: Tùy.Nguyên hanh lợi trinh.Vô cữu.
dịch: Thuận thời.Đầu lớn, tế thông, nên chính bền.Không lỗi.
Xem Nguyên hanh lợi trinh ở phần dẫn nhập / biểu tượng .Quẻ này nói về lòng người dân đi theo Cổ công di cư vì cả tình lẫn lý để tránh rợ Địch và tìm một nơi an cư lạc nghiệp .
Hào 1: Quan hữu du.Trinh cát .Xuất môn giao, hữu công .
dịch: Quan gia có quyết định di dời, đoán mở.Ra ngoài giao thiệp, có công (kết quả).
Tôi dịch quan là quan gia vì Trình Di, Nguyễn Hiến Lê chú là người chủ . Quan gia là tiếng gọi vua ở nước ta đời nhà Trần .
Hào 2: Hệ tiểu tử, thất trượng phu .
dịch: Ràng buộc với đứa trẻ, bỏ mất người kinh nghiệm .
Hào này trung, chính lại ứng với hào 5 vậy mà theo lời lại chọn hào sơ (1) âm dương hợp tính .
Hào 3: Hệ trượng phu, thất tiểu tử.Tùy hữu cầu đắc.Lợi cư trinh .
dịch: Ràng buộc với người kinh nghiệm,bỏ mất đứa trẻ .Theo (vì) cầu được(lợi). Điềm nên ở yên .
Hào này âm nhu, bất chính gần với hào 4 dương nên tượng theo trượng phu .Nhưng theo vì lợi lộc, chẳng bằng ở yên .
Hào 4: Tùy hữu hoạch, trinh hung .Hữu phu tại đạo, dĩ minh, hà cữu ?
dịch: Theo thì có thu hoạch, điềm đóng .Có lòng tin vào con đường (phải) đi, sáng suốt như thế, sao có lỗi (sai làm) được ?
Hào này vì nghĩa mà đi theo Cổ công dù gian truân thấy trước .Nhưng thực ra ở hoàn cảnh bị giặc càn quét mãi thì ra đi là một quyết định sáng suốt .
hào 5: Phu vu gia, cát .
dịch: Tin vào gia tộc, mở .
Tôi cho là chữ gia là tốt đẹp được dùng thay cho chữ gia là gia tộc nên dịch khác với mọi người kể cả Javary .Hào này dương chính trung đủ cả thì sao lại theo hào 6 âm nhu mà không là ngược lại nếu không vì hào 6 tượng cho Thái vương (Cổ công), dịch gia là đẹp thì trừu tượng và lại tối nghĩa, còn gia là gia tộc thì dễ hiểu .Tuy nhiên nếu hào này khởi xướng, hào 6 thuận theo thì cũng thông (lúc đó hào 6 chỉ vừa sự ràng buộc của dân chúng theo chúa vừa chỉ lòng chí thành của Cổ công khi tế lễ.
Hào 6: Câu hệ chi, nãi tòng duy chi .Vương dụng hưởng vu Tây sơn .
dịch: Ràng buộc thắt chặt, rồi theo bám lấy . (Thái)vương tế lễ (dựng miếu) ở núi Tây .
Thái vương lập miếu thờ tổ tiên khi lập nước ở chân núi Kỳ (Tây sơn) .Miếu thờ ở đây đã được khảo cổ khai quật gần đây .Hào này nói rõ lòng dân cảm đức thủ lãnh mà quấn quít đi theo .
18/ QUẺ CỔ
Cổ có nghĩa là đổ nát và có việc.Lâu ngày hỏng hại thì phải mạnh dạn sửa sang nên có việc . Tượng sự hỏng nát được Chu Dịch dùng là “gia tài “, công việc cha mẹ để lại . Việc cha thì phải dùng cương quyết, việc mẹ thì nên dùng nhẹ nhàng .Hào 6, hào ra, không nhắc đến cha, mẹ nữa mà cho rằng ta phải tự là mình (sau khi đã san định gia tài quá khứ).
Lời quẻ: Cổ, nguyên hanh.Lợi thiệp đại xuyên .Tiên giáp tam nhật, hậu giáp tam nhật.
dịch: Hoại nát có việc, mở đầu hanh thông. Nên qua sông lớn.Trước ngày giáp 3 ngàt, sau ngày giáp 3 ngày.
Cái gì cũ nát thì nên sửa sang lại từ đầu (nguyên) .Xem thêm nguyên hanh và lợi thiệp đại xuyên ở phần dẫn nhập / biểu tượng .Vế cuối có thể hiểu là muốn sửa sang phải có kế hoạch trước sau (Nguyễn Hiến Lê). Javary thì cho là ngày Giáp là ngày đầu một thập can, có lẽ chỉ sự khởi đầu một chu kỳ mới chứ không thuần là một sự nối tiếp (hào 6).Theo ông xưa mỗi khi sang mùa thì có cúng lễ trước một chút là nghênh đón mùa mới, còn sau mốc cũng có lễ cúng để tiễn đưa mùa cũ .
Hào 1: Cán phụ chi cổ Hữu tử, khảo vô cữu.Lệ, chung cát .
dịch: Cáng đáng đổ nát của cha. Có con trai (nối dõi), cha đã mất không lỗi gì .Nguy, cuối cùng sẽ mở.
Có người kế tục nhưng ở hào sơ thì con còn trẻ thiếu kinh nghiệm hay thế cô vị thấp cho nên phê “nguy ” .nhưng dù sao vẫn có khả năng mở.
Hào 2: Cán mẫu chi cổ.Bất khả trinh.
dịch: Cáng đáng hỏng nát của mẹ, không thể lâu dài .
Đừng cố chấp, bảo thủ (ở đây tôi theo đa số cổ điển).
Nhưng ý của Javary là: bất khả trinh phải dịch là ” đoán không thể được ” . Và ông ta giảng giống Trình Di rằng, ở vị âm tượng mẹ thì cần thời gian và thuyết phục chứ không sửa ngay được như mong muốn (hào 2 là dương).
hào 3: Cán phụ chi cổ.Tiểu hữu hối, vô đại cữu.
dịch: Cáng đáng việc đổ nát của cha . Có chút hối, không lỗi lớn.
Dương cư dương vị nên hào này nóng nảy lắm. Có lẽ có chút mạnh tay nhưng sửa được việc .
Hào 4: Dụ phụ chi cổ.Vãng, kiến lận .
dịch: Chần chờ sửa việc đổ nát của cha. Cứ thế mà đi thì thấy lận đận, xấu hổ.
Ở đây cổ điển giảng vì ngần ngừ nên làm kéo dài sự hư hỏng, Javary lại cho là hào âm vị âm nên tiến gấp thì không được ! Tôi cho là phải thực hành bói toán mới biết hiểu thế nào là đúng nên tạm chưa kết luận..
Hào 5: Cán phụ chi cổ.Dụng dự.
dịch: Cáng đáng việc đổ nát của cha . Được tiếng khen .
Hào này có tài (dù vị bất chính).
hào 6: Bất sự vương hầu .Cao thượng kỳ sự .
dịch: Không thờ / lo việc vương hầu.(Chỉ lo) vun sới nâng cao việc mình.
Vị cao, không còn màng chính sự, chỉ lo vun trồng cái đức của mình .
Tôi nghĩ có thể quẻ này nói về cuộc đời tận tụy của Chu công Đán . Hết lo việc này cho cha lại việc kia cho anh, cho cháu .Sau này khi không còn được tin ông về điền viên ở đất Sở chứ không đến Lỗ là nơi được phong (con trai thay vị) .Theo chính sử thì Thành vương, cháu ông, sau này đọc được sớ ông viết chứa trong cái rương thì biết mình ngờ oan mới rước ông trở về triều .
Vì hào 6 này có thể hiểu là xưng ta nên hậu thế dựa vào đó mà cho Chu công Đán là người viết lời các hào chăng ?
pth77 bàn thêm:
– Có lẽ quẻ miêu tả các giai đoạn – thái độ, trạng thái tâm lí, sự lựa chọn có tính cá nhân của người được giao nhiệm vụ cáng đáng – trong việc thực hiện nhiệm vụ rất quan trọng là cáng đáng, duy trì, gây dựng…”gia tài” – sự đổ nát của cha mẹ để lại:
+ Hào 1: khi nhận nhiệm vụ từ người đi trước (cha, anh), nhưng lại chỉ ở vai trò nhiếp chính – rất tế nhị trong chính trị,vì người được chọn làm thủ lĩnh là cháu, còn nhỏ, nếu không cẩn thận dễ bị gièm về việc soán đoạt – nên Nguy, cuối cùng sẽ mở.
+ Hào 2: tại sao lại có gia tài của mẹ, gia tài của mẹ có gì mà lại phê không thể lâu dài? Gia tài của cha là sự nghiệp, là người kế tục ? Còn của mẹ, có lẽ cũng là những người con (những người khác không được chọn kế tục), những sự yêu thương, những lời căn dặn, do vậy mà rất tình cảm, khó xử, nên không thể lâu dài – không nên để lâu, cần làm nhanh chóng? hay không thể tồn tại lâu dài? Hoặc cũng có thể là bước đường từ hào 2 đến hào 5 cần làm nhanh, không thể làm lâu dài? Hoặc có thể chỉ là những việc phụ, nhỏ, nên nếu làm thì cũng không thể lâu dài?
+ Hào 3&4: những trạng thái xấu
+ Hào 5: Là đã làm được ổn định, theo mong muốn, thành công nên Được tiếng khen
+ Hào 6: làm thành rồi thì chọn cách lui về, tránh hậu hoạ, nên không còn màng chính sự, chỉ lo vun trồng cái đức của mình .(một sự lựa chọn khôn ngoan)
19/ QUẺ LÂM
Lâm là đến .Ở đây là người trên đến với kẻ dưới: hai hào dương là kẻ dưới cùng có khả năng cảm được người trên, bốn hào dương là kẻ trên,mỗi hào đều có cách riêng để đến và nâng đỡ kẻ dưới.
Lời quẻ: Lâm.Nguyên hanh, lợi trinh.Chí vu bát nguyệt, hữu hung.
dịch: Đến.Mở đầu lớn, tế hanh thông, nên chính bền.Đến tháng tám (sẽ) đóng .
Xem nguyên hanh lợi trinh ở phần dẫn nhập / biểu tượng .Quẻ Lâm tượng cho tiết Đại hàn, tháng 12 dương lịch lúc khí dương đang dần tăng (khi lập xuân thì 3 dương ngang với 3 âm là thời quẻ Thái), tháng 8 thì thuộc khí thu phân của quẻ 20 Quan là lúc mọi vật sửa soạn ẩn tàng qua đông nên bảo là đóng (dịch hung là xấu ở đây thì sai lạc cả).
Hào 1: Hàm lâm, trinh cát .
dịch: Cảm thông mà đến, đoán mở.
hào 2: Hàm lâm, cát.Vô bất lợi.
dịch: Cảm thông mà đến, mở. Chẳng gì không lợi.
Hai hào này đều có khả năng cảm người.Hào 1 còn sơ nên chỉ đoán tốt, hào 2 thì đã chín thì chắc tốt.
Hào 3: Cam lâm.Vô du lợi.Ký ưu chi, vô cữu.
dịch: Ngọt ngào mà tới, không lợi đâu.Nhưng đã thấy xấu nên lo sửa đi thì không lỗi.
Hào 4: Chí lâm, vô cữu.
dịch: Tới nhau rất mực, không lỗi.
Vị chính và ứng với hào 1 .đến với và khả năng giúp người thật đúng.
Hào 5: Trí lâm.Đại quân chi nghi, cát .
dịch: Dùng trí tuệ mà đến (là) phong thái của bậc minh chủ, mở.
Xem đại quân, hào 6 quẻ 7 Sư.
Hào 6: Đôn lâm .cát, vô cữu.
dịch: Dày dặn mà tới.Mở, không lỗi.
Xem vô cữu ở phần dẫn nhập/ thuật ngữ .Đôn nên hiểu là đôn hậu .
20/ QUẺ QUAN/ QUÁN
Quan là xem xét, nhưng cũng là người trên bị mọi người dưới nhìn lên soi mói phải làm gương .Quán cũng là nơi trên cao có thể nhìn ra xa được (thí dụ Bạch vân quán của Đạo giáo), quán cũng là nhìn tổng kết, nhìn lại mình .Quẻ này 2 hào dương ở trên được xem là chỉ người lãnh đạo, 4 hào âm dưới là cái nhìn lên của kẻ dưới.
Lời quẻ: Quan, quán nhi bất tiến, hữu phu ngung nhược.
dịch: Làm gương.Rửa tay/ rót rượu mà không (cần) dâng lễ .Lòng chí thành nên người dưới ngửa lên xem.
Đây là dịch theo cổ điển, ngày nay nhiều học giả TQ cho phải hiểu là: rót rượu lễ mà không dâng đồ cúng, bị quỷ thần phạt nặng. Javary cho ” hữu phu ngung nhược ” là gây được lòng thành kính khi mặc vào bộ đồ tế lễ trịnh trọng .
Hào 1: Đồng quan .Tiểu nhân vô cữu, quân tử lận.
dịch: Cái nhìn (ngây thơ) của trẻ con .Tiểu nhân thì không lỗi gì (chứ) quân tử mà như vậy thì lận đận/ xấu hổ.
Hào 2: Khuy quan.Lợi nữ trinh.
dịch: Dòm lén.Đoán nữ thì lợi .
Cái nhìn ở đây cục bộ .Thời xưa con gái, đàn bà chỉ biết chăm chú việc nhà nên ở hào này thì được cho là có lợi .
hào 3: Quán ngã sinh.Tiến thoái.
dịch: Xét cách sống của mình. Có tiến, có thoái.
Bắt đầu biết xét lại nhưng còn có điều ngờ nên khi thì tiến bộ, lúc lại thối lui .
Hào 4: Quan quốc chi quang .Lợi dụng tân vu vương .
dịch: Nhìn cái sáng của đất nước. Nhân khi làm khách của vua (mà xem xét).
Có cơ hội mở rộng tầm mắt .Hào này viết vương chứ không phải đế vậy quốc ở đây là Chu .
Hào 5: Quán ngã sinh .Quân tử vô cữu.
dịch: Xét lại cách sống của mình .Người quân tử (như thế mới) không lỗi.
Hào 6: Quán kỳ sinh .Quân tử vô cữu .
dịch: Xem xét cuộc đời .Người quân tử (như thế mới) không lỗi.
Hai hào dương trên cao là 2 cái nhìn của người quân tử: một nội soi, một ngoại chiêm mới là đầy đủ .
21/ Quẻ Phệ Hạp
Phệ nghĩa là cắn, còn có nghĩa là xử lý, thôn tính, xâm chiếm, Hạp là ngậm miệng lại, còn có nghĩa là cắn, ăn/ uống, nói / bàn chuyện (cả 2 dều có bộ khẩu).Quẻ có 2 hào dương ở tận trên và tận dưới thêm 1 hào dương khác ở giữa nên được xem là tượng hình cái miệng cắn vật ngăn trở.Có 2 loại hình được dùng: các hào có chữ phệ chỉ việc hình quan xét xử, các hào có chữ diệt chỉ việc thụ hình.Riêng Javary thì cho là những hào có chữ diệt còn có nghĩa phán xét sai lầm do không đi, không ” thấy “, không nghe của hình quan / phạm nhân .Ông ta dẫn các hào 38/3 và 47/5 để cho rằng hình phạt xẻo mũi phải được chỉ bằng một chữ tỵ khác (có bộ đao) và hình phạt xẻo tai không có trong hình luật Tây Chu.
Phệ hạp trong lời quẻ có bảo ” dụng ngục ” nên đây là quẻ tụng hình _ khác với quẻ 6 Tụng chỉ là cãi lý _ và xét xử nơi công môn .
Lời quẻ: Phệ hạp, hanh .Lợi dụng ngục .
dịch: Cắn hợp, thông.Nên dùng hình ngục (để sửa trị).
Hào 1: Lý giảo, diệt chỉ.Vô cửu.
dịch: Mang cùm ở chân mà đi .Không lỗi.
Diệt chỉ là mất ngón cái, nghĩa bóng là đi lại khó khăn.Ở hào sơ lỗi còn nhẹ, ngừng ngay thì còn sửa được .
Với Hào 1 thì QNB còn có một cách hiểu 履 校 滅 趾 (lý giáo diệt chỉ) = Khảo nghiệm, tra xét kỹ càng cho hết mọi vết tích.
(như thế thì mới không lỗi).
Vì chữ Lý 履 ngoài nghĩa là “mang” còn có nghĩa là “khảo nghiệm, xem xét” và theo nghĩa này nó hàm chứa một quá trình vận động của sự khảo xét vì chữ lý còn có nghĩa là “đi”, “trải qua”,…
Chữ Giáo 校 xưa nay vẫn được giảng là “cái cùm chân” nhưng nó còn có nghĩa là “tra xét”.
Diệt còn có nghĩa là trừ cho tận hết
Chỉ còn có nghĩa là dấu vết, tung tích.
pth thì gần với Javary nhưng cho rằng ở đây Mang cùm ở chân thì sẽ không nhìn thấy ngón chân – mất ngón chân cái -đồng thời đi lại sẽ khó khăn, chậm chạp. Hình ảnh có lẽ hàm nghĩa rằng khi mới bước vào vụ việc xét xử, cần xem xét nội dung một cách thận trọng, từ tốn – Khảo nghiệm, tra xét kỹ càng cho hết mọi vết tích. Làm được như vậy thì không lỗi.
Hào 2: Phệ phu, diệt tỵ.Vô cữu.
dịch: Cắn da (khô ròn), mất mũi.Không lỗi.
Cắn da thì việc phán xử còn đơn giản.Mất mũi có thể là mất mặt ? Học Năng cho rằng phạt người thì khó tránh làm thương tổn người.
Chữ Phu 膚 còn có nghĩa là 4 ngón tay xếp lại thành 1 vốc, cho nên Phệ Phu có lẽ là cái hình thức tra tấn bằng cách dùng kẹp ngón tay(xem hình bên dưới).
Hào 3: Phệ tích nhục, ngộ độc.Tiểu lận, vô cửu.
dịch: Cắn miếng thịt có xương, trúng độc. Khó chịu một chút, không lỗi.
Hình quan gặp khó, chắc có sai lầm (tượng bị trúng thực)nhưng sửa kịp .
Phệ tích nhục, có thể là hình thức dùng đồ có mũi nhọn gí, ép, đâm vào thịt vào người.
Hào 4: Phệ can tỷ, đắc kim thỉ.Lợi gian trinh, cát.
dịch: Cắn miếng thịt khô có xương.Được mũi tên đồng.Điềm khó khăn được lợi.Mở.
Hào chủ quẻ, gặp việc khó, xét đoán mọi mặt, khéo tìm ra sự thật nên được ban mũi tên đồng.Hào duy nhất quẻ được phê cát .
Phệ can chỉ, có thể là hình thức bắt ép kẻ bị phạt đem phơi nắng cho còn da bọc xương.
Hào 5: Phệ can nhục, đắc hoàng kim.Trinh lệ, vô cữu.
dịch: Cắn miếng thịt khô có tẩm, được (đồ vật) bằng đồng màu vàng.Điềm nguy (nhưng) không lỗi.
” Thịt có tẩm ” là mọi việc đã được xem xét kỹ càng, ở đây hào 5 vị cao (được đồ đồng màu vàng) chỉ còn ra phán quyết sao cho công minh .Nhưng mà điềm nguy vì dễ gây ra thù oán, nhưng hãy mạnh dạn (vô cữu).
Phệ can nhục, có thể gần nghĩa với Phệ can chỉ ở hào 4.
Hào 6: Hà giảo, diệt nhĩ.Hung.
dịch: Đội gông, mất tai .Đóng .
Lỗi lớn bị phạt nặng.Cuối quẻ rồi không sửa được nữa.
Tra tấn kẹp ngón tay:
Tra tấn bằng cách kẹp ép vòng có mũi nhọn vào người
22/ QUẺ BÍ
Bí là trang sức, văn vẻ, rực rỡ.Bí nói về hình ảnh bề ngoài và sự quan trọng của sắc đẹp, nụ cười, phong thái, sự lịch sự v.v…Nhưng cái đẹp thật sự nằm ở bên trong và Bí nói về sự thay đổi cần có, sự tác động hai chiều trong ngoài để dần dà nét đẹp trở thành nếp văn hóa .Nghĩa là việc giao tế và nét đẹp tâm hồn ngày càng quyện luyện vào nhau thành một thể thống nhất .
Lời quẻ: Bí hanh.Tiểu lợi.Hữu du vãng.
dịch: Văn vẻ, hanh thông.Tinh tế lợi.Có chỗ đến .
Học văn hóa thì cần sự chầm chậm tiểu tế mỗi ngày mỗi tiêm nhiễm (khác với sự dương cương cần thiết trong quẻ cặp đôi Phệ hạp) .
QNB cho rằng nên ngắt từ = Bí. Hanh. Tiểu lợi. Hữu du vãng.
và dịch là: Trang sức. Hanh thông. Được lợi nhỏ. Có chỗ đến.
Cách dịch và ngắt của QNB là cách bình thường lô – gích nhất nhưng cách của tôi là nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng chiến lược của văn minh, văn hóa trong sách lược của Tây Chu.
Hào 1: Bí kỳ chỉ.Xả xa nhi đồ .
dịch: Trang sức ngón chân .Bỏ xe mà đi bộ.
Hào sơ nên ngô nghê chạy theo phù hoa.An phận dưới thì hơn.
Chữ “chỉ” ngoài nghĩa là “ngón chân” còn có nghĩa là “chân” nói chung (như “ngọc chỉ” = gót ngọc).
Cho nên ta có thể để phần dịch là: Trang sức ở chân. Bỏ xe đi bộ.
Hào 2: Bí kỳ tu.
dịch: Chải chuốt bộ râu .
Hào này biết đến giá trị của cái bề ngoài .
Hào 3: Bí như nhu như.Vĩnh,trinh cát.
dịch: Vui vẻ thấm nhuần. Lâu dài, đoán mở.
Ở đây cái văn hóa bên ngoài đã thấm vào trong thành nếp sống đẹp .
Chữ “nhu” còn có nghĩa là dồn lại, lưu lại,… cho nên chúng ta có thể hiểu:
“Bí như nhu như, vĩnh. Trinh cát” = làm đẹp cho mai sau. Đoán mở.
Hào 4: Bí như bà như.Bạch mã hàn như.Phỉ khấu hôn cấu .
dịch: Rực rỡ như trắng toát .Ngựa trắng (cắm lông) như có cánh .Chẳng phải kẻ cướp mà là kẻ đi cầu hôn .
Ở đây nét văn hóa được thể hiện hướng về người khác .Cho nên Chu Dịch mới dùng lại hình ảnh nhà Chu đi cầu hôn với các tộc văn minh thuộc Ân ở quẻ 3 Truân như bằng cớ của sự thấm nhuần văn hóa .
Trong “bạch mã hàn như” thì riêng chữ “hàn” 翰 có nghĩa là 1 giống/loại ngựa màu trắng toát. Cho nên “Bí như bà như bạch mã hàn như” = Làm đẹp, trắng như là loài ngựa Hàn màu trắng toát.
“Phỉ khấu hôn cấu” = Chẳng phải kẻ cướp mà là kẻ đi cầu hôn. Hoặc là = Kẻ tặc khấu muốn cầu hôn (như đã bàn ở quẻ Truân).
Hào 5: Bí vu khâu viên, thúc bạnh tiên tiên .Lận, chung cát.
dịch: Trang trí vườn gò chỉ bằng một bó lụa bạch mỏng.Xấu hổ, sau chót (chắc cũng) mở.
Hào này tằn tiện quá đáng, không hiểu lẽ văn vẻ nên có xấu hổ.Nhưng dù sao đó không phải là điều chính yếu, nếu có lòng thành thì vẫn mở .
Hào 6: Bạch bí, vô cữu.
dịch: Nét giản dị, thanh bạch.Không lỗi.
Bạch là trắng, ở thời trang sức thì đã vượt qua cái đẹp bên ngoài rồi vậy. Như người đạt đạo thì cần gì cái văn vẻ bề ngoài nên sao lại có sai lầm ?
Hào 1 đến hào 4, chúng ta có thể hiểu là trang sức, làm đẹp cho con ngựa / đàn ngựa để dùng vào việc kết thân.
Hào 1: trang sức, làm đẹp ở chân con ngựa, không thắng nó vào xe nữa mà tháo ra cho nó đi không (đi bộ).
Hào 2: Chải chuốt bộ râu, chính là chải chuốt, làm đẹp cái bờm con ngựa.
Hào 3: Làm đẹp cho lâu dài, để mà dùng vào việc
Hào 4: Tắm cho ngựa, làm đẹp cho nó trắng như loài ngựa trắng Hàn. Để dùng vào hôn sự.
Hào 5: Làm đẹp ở vườn, với những dải lụa nhỏ.
Hào 6: Làm đẹp đơn giản, giản dị.
Hào 4 quẻ này là bằng chứng về tính sử ký của Chu Dịch, vì không hiểu điều này nên các nho gia học giả thường tỏ ra lúng túng để giải thích cụm từ ” phỉ khấu hôn cấu “ở đây và cả ở quẻ 3 Truân .Ngoài ra ta cũng thấy là hào 3 dương ở đây không có tính cách chủ quẻ như hào 4 dương ở quẻ Phệ hạp cho nên không có lời dẫn dắt thì tượng hình có thể đưa đến suy diễn vu vơ .
23/ QUẺ BÁC:
Bác là rơi rụng, bóc lột, gọt bỏ. Theo mùa thì quẻ này gần đến Đông chí, chỉ còn lại một hào dương cuối cùng.Như thiên nhiên con người lúc này mỏi mệt, bệnh tật thì chỉ nên nghỉ ngơi, thu mình (đông tàng) bỏ hẳn những tính toán phát triển.Như cây cối thì rụng lá hay phải nhờ đến con người cắt tỉa để lấy lại sức sống khi sẽ giao mùa. hình ảnh chính của quẻ bác là cái giường nhắc đến nơi dùng để ngơi nghỉ và có thể nơi con người chết đi để sang cõi khác .
Căn cứ vào cái nghĩa “bóc lột, tước đoạt” của chữ Bác 剝 nên QNB cho rằng quẻ Bác này là thời của việc thu thuế. Và chữ Sàng 床 (ngoài nghĩa là “giường”) cũng có liên hệ để ta tin vào giả thuyết này: ngày xưa việc đánh thuế tính theo người đàn ông, mỗi người một thuế suất gọi là “nhất sàng”, ông nào chưa có vợ thì được giảm một nửa gọi là “bán sàng”.
Lời quẻ: Bất lợi hữu du vãng.
dịch: Chẳng nên có chỗ đi .
Không nên hành động, tính toán tăng trưởng. Dương suy cùng cực rồi.
(vì bóc lột) nên bất lợi.
hào 1: Bác sàng dĩ túc.Miệt.Trinh hung.
dịch: Gẫy chân giường. Mê sảng. Điềm đóng.
Bóc lột đánh thuế đến tận chân. Khinh thường. Điềm đóng.
(chữ Miệt 蔑 này có nghĩa như khinh miệt, miệt thị,…)
Thời Bác bắt đầu nên hỏng từ chân giường, người trên giường còn mê sảng nên không biết.Hào này mê mẩn chưa hiểu phải ngừng nghỉ chờ thời.
Hào 2: Bác sàng dĩ biện. Miệt.Trinh hung.
dịch: Gẫy thành giường. Mê sảng. Điềm đóng.
Bóc lột đánh thuế đến khắp (nơi). Khinh thường. Điềm đóng.
Chữ biện còn có nghĩa là “khắp” và có nghĩa là tranh luận, biện bác. Riêng có 1 nghĩa nữa là “phân biệt” khiến QNB hình dung ra cảnh thu thuế mà lại phân biệt gây ra không công bằng?!!!
Người trên giường còn mê vẫn không biết.Căn bản hỏng rồi mà vẫn mê muội, như vậy thì phê xấu lắm.
Hào 3: Bác chi. Vô cữu.
dịch: Rơi rụng đấy. Không lỗi.
Tước đoạt. Không lỗi.
Ở giữa thời Bác, hào 3 âm này có ứng với hào dương duy nhất nên đã hiểu mà tàng thân, tu tỉnh.Cho nên phê không lỗi.
Hào 4: Bác sàng dĩ phu. Hung.
dịch: Sự hỏng hại đến tận da thịt. Xấu.
Bóc lột đánh thuế đến da thịt. Xấu.
Hào này như kẻ phải nằm liệt giường, bệnh đã cực cho nên thối rữa đến cả da, thịt (loét điểm tỳ).Cái họa xấu đã đến chứ không còn là dự đoán như ở hai hào đầu.
Hào 5: Quán ngư. Dĩ cung nhân sủng. Vô bất lợi.
dịch: Xâu cá một đàn. Lấy đó mà sủng ái cung nhân / Ân sủng nhờ cung nhân .Chẳng gì không lợi.
Một xâu ngàn tiền cá. Lấy (làm) cung nhân (làm) thiếp. Chẳng có gì bất lợi cả.
Chữ Quán 貫 có nghĩa là dây xâu tiền và “nhất quán” nghĩa là “1 xâu một ngàn tiền”.
Dĩ cung nhân sủng: có lẽ ám chỉ việc trao đổi cái việc đánh thuế ngàn tiền ngư nghiệp lấy 1 cô gái mà đem về làm thiếp, làm cung nhân.
Hào trước cái xấu đã cực nên sang hào 5 thì cái rơi rụng đã hết, không còn được nhắc tới nữa mà lại trở thành tốt nên được phê vô bất lợi .
Cổ điển giảng là tượng bà hậu dẫn cả bầy cung nhân theo thứ tự (xâu cá) để phục vụ quân vương.Javary bảo xâu cá là phơi khô để dành, cá lại đẻ nhiều trứng nên tượng cho sự sinh sôi nảy nở (cùng ý với tượng cung nhân), vậy nên hào này nói đến cách tốt nhất để thâu tàng chờ qua thời Bác .
Khảo theo các học giả đời Đường, và theo Hậu Hán thư (Lương hoàng hậu) thì xâu cá (quán ngư) là cách nói bóng gió về việc giao hợp nam nữ .
Hào 5 này cận hợp hào dương duy nhất 6 chủ quẻ nên bàn về dự trữ, tiềm năng, truyền giống chăng ? Có thể có một điển tích mà chúng ta không biết đến .
Hào 6: Thạc quả bất thực. Quân tử đắc dư, tiểu nhân bác lư.
dịch: Quả lớn không ăn. Quân tử được xe, tiểu nhân đổ nhà.
To lớn nếu không vơi bớt. Vua quan thì được đất đai, cương vực, còn dân đen lại bị bóc lột mất căn nhà đơn sơ.
Chữ Quả 果 ở dạng liên từ có nghĩa là “nếu”. Còn chữ Thực 食 còn có nghĩa là vơi bớt, mòn, khuyết. Và chữ Dư 輿 còn có nghĩa là đất đai, phong thổ, cương vực (như trong “dư địa chí”).
Hào này có lẽ ám chỉ rằng khi đã lớn mạnh, khi nhà nước đã giàu mà không giảm bớt việc bóc lột đánh thuế đi thì chỉ có khiến cho giới vương quan công quyền được giàu trong khi dân đen lại mất nhà mất cửa.
Quả lớn không ăn nên giữ được hạt giống .Cuối thời Bác thì mầm sinh có cơ trở lại, cho nên quân tử thì được vời ra lo việc nước mà tiểu nhân thì cơ nghiệp đã có tượng suy vong .
Thời Tây Chu thật khó biết việc thuế má là như thế nào . Gần như chắc chắn là phục dịch là bắt buộc, chưa kể tù binh bị bắt làm nô lệ / người giúp việc, thuế không đánh đến quí tộc nên thuế má mà hiểu phải nộp tiền thì e không phải là điều quan trọng .Nhưng Thi kinh có nói đến đóng góp của dân chúng thì chính sách thuế má không phải hoàn toàn không có .Còn quan niệm ” bóc lột ” thì thời ấy chắc không có mà chỉ là vua thì có thần quyền tức là có mọi quyền định đoạt vậy .
24/ QUẺ PHỤC
Phục là phản hồi, quay lại .Qua đông chí thì dương sinh trở lại nên quẻ này có tượng nhất dương sơ.Phục là hồi sinh là khí dương mới phát, nơi ý muốn và hành động còn chỉ là tiềm năng, cần phải được nuôi dưỡng.Tuy nhiên bối cảnh lịch sử cho ta một cái nhìn chính trị hơn (xem cuối quẻ).
Đối với quẻ Phục thì QNB nhất trí là chủ yếu để nói đến “những sự trở lại, trở về”, mà hầu hết đều liên quan tới việc quân. Có thể là nói đến đoàn quân trở về.
Lời quẻ: Phục, hanh.Xuất nhập, vô tật.Bằng lai, vô cữu.Phản phục kỳ đạo, thất nhật lai phục.Lợi hữu du vãng.
dịch: Trở lại, tế lễ thông.Ra vào không bệnh / nhanh.Bạn đến, không lỗi.Trở ngược con đường, bảy ngày thì quay lại .Nên có chỗ đi.
QNB: “Phản phục kỳ đạo, thất nhật lai phục” = nói về sự trở lại thì bảy ngày nữa sẽ trở lại.
Xuất nhập ở đây có thể nói về phương pháp luyện hơi thở, tật thì không gấp gáp mà đều đặn, bằng lai chỉ khí dương thổi vào cõi toàn âm . Phục nói về quan niệm phản hồi chứ không một đường thẳng tiến của văn hóa Á Đông ; bảy ngày tượng trưng cho chu kỳ tuần hoàn của thiên nhiên (6 hào hết 1 quẻ, thứ bảy là sang hào sơ của quẻ mới, 6 tháng là 1 chu kỳ âm/ dương tiến triển tháng thứ bảy là đổi khí âm / dương). Quẻ Phục cần có dự phóng nên bảo lợi có chỗ đi (xem thêm lợi hữu du vãng ở phần dẫn nhập / thuật ngữ).
Hào 1: Bất viễn phục, vô chi hối.Nguyên cát.
dịch: Chưa xa đã về, không hối lớn.Mở lớn.
Chữ Viễn còn có nghĩa = lâu, lâu nữa,… (về phương diện thời gian). Cho nên “bất viễn phục” = Không lâu nữa sẽ trở lại.
Hào dương duy nhất, việc phục hồi tự nhiên, dễ dàng.
Hào 2: Hưu phục, cát.
dịch: Vui vẻ trở lại, mở.
Hưu, Javary cho là hưu nghỉ, tôi theo cổ điển.Hào 2 âm sát hợp với hào 1 nên được ảnh hưởng tốt.Hưu là đẹp đẽ, mặt mày vui theo Cao Hanh.
Hào 3: Tần phục, lệ.Vô cữu.
dịch: Buồn rầu trở lại, nguy.Không lỗi.
Tần là trở đi trở lại nhưng các học giả TQ thế kỷ XX đều bảo nên hiểu là buồn rầu như Vương Bật thời Tam quốc. Dầu sao hào này dù là dùng dằng thì cũng dễ gặp nguy, chỉ khi nào hiểu là nên trở về thì mới không lỗi.
Chữ Tần 頻 còn có nghĩa = gấp gáp, cấp bách,…
Chữ Lệ 厲 còn có nghĩa = Bệnh tật.
Cho nên ta có thể hiểu “Tần phục, lệ” = trở về gấp, (vì có) bệnh tật.
Hào 4: Trung hành, độc phục.
dịch: Giữa đường một mình trở về.
Javary hiểu trung hành là làm đúng .Nhưng dù sao thì hào này có ứng với hào 1 thì có hiểu lẽ phục nhưng cô đơn nên không được phê tốt.Lý Đại Dụng hiểu một mình Cơ Xương đến triều Ân xin quy phục.
Hào 5: Đôn phục, vô hối .
dịch: Dày công trở lại, không hối gì.
Sự về được trau dồi .Đôn cũng có thể hiểu là đôn đốc, thúc giục (việc trở về).
Hào 6: Mê phục, hung.Hữu tai sảnh: dụng hành sư, chung hữu đại bại .Dĩ kỳ quốc, quân hung. Chí vu thập niên bất khắc chinh.
dịch: Mê ám (không thấy) đường về, đóng.Chịu tai họa: đem quân đi đánh, cuối cùng thua to .Đến nỗi nước, vua đều gặp xấu .Mười năm việc binh vẫn chưa đủ sức(hồi phục).
(Lúc) Trở về mê sảng, đóng. Có tai nạn bệnh tật, vì hành quân, cuối cùng thua to. Bởi vì quốc quân (chúa, vua) gặp điều xấu (có thể “xấu” là ám chỉ về bệnh tật). Mười năm không động binh.
Đây nói về Tây bá Xương gấp việc trả thù cha đem quân đánh Đế Ất (nối ngôi Thái / Văn Đinh kẻ giết Quý Lịch) nhưng thua to.Chữ mê chỉ sự lạc lối .sau khi thua Xương mới hiểu mình chưa đủ sức nên phải cầu hòa và tính kế lâu dài (hay hiểu ra thù riêng không quan trọng bằng an nguy của xã tắc) .Javary không biết đến sự kiện này, Lý Đại Dụng lại hiểu là Xương giỏi mê hoặc nhà Ân làm cho họ sau này đại bại .
Lý Đại Dụng cho rằng cả quẻ này nói về vấn đề nối lại giao hảo với Ân sau biến cố Quý Lịch bị giết .Cha Xương đã đánh dẹp được nhiều lần quân rợ và chiếm lãnh nhiều đất đai, vua Thái Đinh sợ bèn mời ông đến triều ban thưởng nhưng phái đi xa rồi tím cách bắt lỗi để giết đi .Vài năm sau vua Ân băng, Đế Ất nối ngôi, Xương nhân cơ hội trẩy binh nhưng thua. Ân không đánh tới vì còn bận nhiều cuộc loạn khác, Chu cầu hòa, được chấp thuận, Đế Ất gả cho Xương em / cháu gái và hai bên giao hảo được trên 40 năm.
Tôi đồng ý với Lý Đại Dụng trừ hào 6 .
TB Ngoài ra cấu trúc của quẻ Phục cũng cho ta biết một số thông tin về cách dùng sử kiện trong Chu Dịch: theo sử thì việc nối lại bang giao chỉ xảy ra sau khi Cơ Xương đã nổi dậy thất bại như vậy ta biết rằng Chu Dịch đặt sử kiện theo nhu cầu quẻ chứ không đặt theo dòng thời gian .Các hào khác có thể được xem như các mốc tâm trạng khác biệt của Chu nhưng thật ra có lý hơn nếu ta nghĩ đó là những tâm trạng khi có thật, khi giả thiết theo nhu cầu của quẻ .
25/ QUẺ VÔ VỌNG
Vô vọng là không càn bậy, nhưng Tư Mã Thiên thời Tây Hán lại chép là không kỳ vọng .Xét các lời hào và việc Sử ký là một tài liệu xưa gần với thời đại nhà Chu nhất thì đáng tin là Không kỳ vọng. Vậy vô vọng là ngẫu nhiên, không tính trước.
QNB cũng rất đồng tình với việc lấy nghĩa cho Vô Vọng = không tính toán trước, chẳng biết đâu mà lần. Điều này cũng được thấy rõ trong các lời của từng hào và được nhiều nhà nghiên cứu mô tả “Vô vọng” bằng câu “không cầu mà được, không ước mà thành, không muốn cũng vẫn bị”.
Lời quẻ: Vô vọng. Nguyên hanh lợi trinh.Kỳ phỉ chính, hữu sảnh .Bất lợi hữu du vãng.
dịch: Ngẫu nhiên. Mở lớn hanh thông, lợi chính bền. Nếu chẳng đúng, tai họa ! Không nên có chỗ đi.
Xem nguyên hanh lợi trinh ở phần dẫn nhập/ biểu tượng.Chính là thẳng, đúng.Javary giảng việc tự dưng xảy đến nếu không biết thích hợp là mang tai họa, cho nên không thể ” lợi có chỗ đi ” (cứng nhắc trong thái độ, ước vọng, cách tính toán).
hào 1: Vô vọng,vãng cát.
dịch: Không dục vọng gì khi tiến tới. Mở.
Chữ “vãng” 往 còn có nghĩa là thường thường, thường là, thường được,…
Nên ta có thể hiểu “Vô vọng, vãng cát” = Không kỳ vọng, thường được mở.
Hào sơ còn trẻ .Suy tư chưa có sẵn nếp nên dễ thích hợp.
Hào 2: Bất canh, hoạch. Bất tri, dư.Tắc lợi hữu du vãng.
dịch: Không canh tác mà lại có thu hoạch, không cày vỡ mà lại thành ruộng đất. Vậy thì nên có chỗ đi.
Hào này bất ngờ hưởng lợi nhưng đừng quên mục đích hay dự án của mình.Cao Hanh giảng là không làm việc nông mà có thu hoạch có ruộng đất là do làm nghề công, thương thành đạt.
Hào 3: Vô vọng chi tai. Hoặc hệ chi ngưu, hành nhân chi đắc, ấp nhân chi tai.
dịch: Tai ương bất kỳ. Giả dụ như buộc con trâu, có kẻ qua đường lấy mất gây họa cho người làng.
Cũng có thể dịch là:
Tai vạ chả biết đâu mà lần. Có kẻ buộc trâu. Người đi đường thì được. Người làng thì gặp tai vạ.
Hào này gặp họa bất ngờ ngược lại với hào 2 .Nhưng dù xấu mà không bị phe đóng; lận hay hối vì có lẽ ta phải biết chấp nhận sui xẻo bất ngờ, không thối chí cũng chẳng tự trách .
Hào 4: Khả trinh, vô cữu.
dịch: Điềm có khả năng, không lỗi.
Thời rộng mở có nhiều cơ hội, tự tin mà tiến. (cũng chỉ là cái điềm có khả năng thôi, không phải là chắc chắn nên chả biết đâu mà lần)
Hào 5: Vô vọng chi tật. Vật dược, hữu hỷ.
dịch: Bệnh đột nhiên, chẳng thuốc men đã khỏi (có mừng).
Bệnh tật chả biết đâu mà lần. Chẳng thuốc men gì cũng khỏi.
Hào 6: Vô vọng, hành hữu sảnh. Vô du lợi.
dịch: Không tính trước. Làm vậy sẽ gặp tai ách. Không lợi đâu.
Chẳng biết đâu mà lần. Đi/làm (thì) sẽ có bệnh tật, tai ách. Chẳng có chỗ đến nào là lợi cả.
Hào cuối, già đầu rồi (đó là khác biệt với hào sơ) mà không biết tính toán thì phải gặp họa thôi .
26/ QUẺ ĐẠI SÚC
Súc là chăn nuôi, thường được giảng là nuôi dưỡng, kiềm chế và tích trữ, tụ họp.Đại súc là chăn thú lớn và dùng đức cương mà nuôi chúng.Trong các hào chúng ta thấy nhắc đến ngựa, nghé và heo rừng ; theo sử thì Tây Chu lo việc cung cấp cho Ân các loại thú lớn để tế Sinh.
Trong quẻ này, ba hào trên là cách chăn, ba hào dưới là kẻ được chăn.Ta có thể so sánh Đại Súc với quẻ cặp Vô Vọng phải chịu sự chi phối từ ngoài mà ứng phó, còn quẻ 26 thì cần thuần hóa sức mạnh nội tại thành hữu dụng . Quẻ Tiểu Súc thì hoàn cảnh mất mát, ngăn trở bắt ta phải giáo dưỡng vi tế và nặng nề trên tâm lý.
Lời quẻ: Đại súc.Lợi trinh.Bất gia thực, cát.Lợi thiệp đại xuyên .
dịch: Nuôi cái lớn.Nên chính bền.Chẳng ăn ở nhà, mở.Nên qua sông lớn.
Nuôi thú lớn, chí lớn thì không thể không mất công, mất thì giờ và phải giữ đúng.Không ăn ở nhà: thú lớn phải dẫn chúng ra ngoài đồng cỏ, việc lớn thì ” nên qua sông lớn “(xem lợi thiệp đại xuyên ở phần dẫn nhập/ biểu tượng) thì mới phát triển hết sức được.
Hào 1: Hữu lệ, lợi dĩ.
dịch: Có nguy, nên ngưng lại.
Hào 2: Dư thoát phúc.
dịch: Xe long trục .
Hai hào này dương ứng với hai hào âm 4,5 trên tượng kẻ bị ngăn ngừa, chẳng thể vọng động.Hào sơ chưa sai quá còn ngừng kịp, hào hai phải bị gẫy mới ngưng.
Hào 3: Lương mã trục.Lợi gian trinh.Nhật nhàn ư vệ.Lợi hữu du vãng.
dịch: Ngựa tốt đuổi theo / Đuổi theo ngựa tốt, điềm khó khăn có lợi.Ngày ngày tập luyện xe (ngựa) quân binh .Nên có chỗ đi .
Hào này đã biết thuần, tập luyện chờ khi hữu dụng (hào 6 trên cũng dương nên không kiềm chế, hào 3 tự kiềm được).
Hào 4: Đồng ngưu chi cốc.Nguyên cát.
dịch: (Lấy) mảnh gỗ chắn sừng nghé. Đầu sự tốt mở.
hào 5: Phần thỉ chi nha, cát.
dịch: Thiến con heo rừng nanh nhọn. Mở.
QNB hiểu là: Bẻ cái răng nanh nhọn của con heo.
Hai hào âm này tượng cho cách nuôi thú.Hào 5 phải mạnh tay hơn.
Hào 6: Hà thiên chi cù ? Hanh.
dịch: Há chẳng phải đường trời quanh co đó sao ? Thông.
QNB hiểu là: Há chẳng phải tự nhiên có đường lớn đó sao. Hanh thông.
Chữ Thiên cũng có nghĩa là tính tự nhiên, chữ Cù 衢 còn có nghĩa là đường lớn thông thương có nhiều ngã rẽ.
Cù các tác giả cổ hậu thế giảng là đường, các học giả sau này cùng ý hay giảng là phúc đức, là chỗ giao đường, là đường có nhiều đường rẽ nhỏ.Javary bảo chỉ có Trời mới biết tự chăn mình, tức là thiên nhiên tự điều tiết, chế ngự.Học Năng giảng: chứa càng được nhiều thì lúc thi thố ra càng được lớn.
Thiển nghĩ có thể gom 2 ý sau lại: nhà Chu tự mình nuôi chí lớn, đến lúc nào đó thiên thời hé mở mới có sức mà dụng . Anh hùng và thời thế là đây chăng ?
27/ QUẺ DI
Di là mép, má, cằm từ đó có nghĩa nuôi dưỡng, sự nuôi, cái để nuôi, cách nuôi. Hình tượng quẻ Di được xem là cái miệng mở rộng để ăn, nhưng sự ăn cũng ám chỉ tính tham lam cũng như việc nuôi dưỡng Đạo .Ba hào dưới bị chê xấu, ba hào trên thì tốt, đó là do tùy vị, tùy thời nhưng cũng do độ chín.
QNB cho rằng, đây vẫn đang nói về cái thời nuôi dưỡng gia súc mà thôi. Vừa trước đây là quẻ Đại Súc là quá trình chăn thả, đến quẻ này là quá trình nuôi dưỡng, có thể việc nuôi dưỡng ở đây là ám chỉ việc nuôi ngựa dùng cho việc quân, cũng có thể là ám chỉ việc nuôi dưỡng quân lính.
Lời quẻ: Di, trinh cát. Quan di, tự cầu khẩu thực.
dịch: Nuôi, điềm mở. Xét việc nuôi và cách tự nuôi mình (hoặc là: từ đấy mà nuôi lấy mình).
Nuôi dưỡng. Điềm mở. Xét cái việc nuôi dưỡng, (thả cho chúng) tự đi kiếm ăn.
Quan là xem xét chứ không phải chỉ nhìn suông thấy đói bụng đi tìm cái ăn. Sự ăn để nuôi, nuôi cái gì, bằng cái gì, có được không, làm sao là những việc các hào bàn tới.
Hào 1: Xả nhĩ linh quy, quan ngã đóa di. Hung.
dịch: Bỏ con rùa thiêng của ***, nhìn ta trễ mép. Đóng.
Hào sơ dương, đáng vị, có ứng thì không phải đói mà là tham lam quá. Phải xét lại để sửa cái gì gây ra sự thèm thuồng ấy.
Chữ Xả 舍 còn đọc là Xá = Chuồng nuôi gia súc.
–> Chuồng nuôi rùa thiêng. Xét tự bản thân thấy việc nuôi trệu trạo. Đóng.
Hoặc nếu hiểu chữ Xả = bỏ, thì “xả nhĩ linh quy” = bỏ con rùa thiêng –> có thể ám chỉ rằng trong việc nuôi dưỡng cần phải thực tế, đừng có dùng linh quy để bói xem nên nuôi như thế nào,…
Hào 2: Điên di, phất kinh. Vu khâu di. Chinh hung.
dịch: Sự nuôi đảo ngược, trái lẽ thường. Tại lăng tổ mà nuôi . Đánh dẹp đóng.
Xáo trộn việc nuôi dưỡng, trái với lẽ thường. (Vì) Nuôi ở trên gò. Đánh dẹp đóng.
(chúng ta có thể nhớ lại hào 3 quẻ Đồng Nhân từng nói “đưa binh lên gò, 3 năm chẳng dấy”).
Vì cận hợp với hào sơ nên hào này theo hắn cho nên bảo là sự nuôi đảo ngược, trái lẽ thường.Vế sau nói rõ chỉ nên về nhà tổ mà ăn, không ra ngoài tìm cái ăn. Vậy sự nuôi ở hào này có sai lầm chỉ nên tu tâm dưỡng tính để tránh thị phi tai họa.
Hào 3: Phất di, trinh hung. Thập niên vật dụng, vô du lợi.
dịch: Chẳng nuôi / được ăn, điềm xấu. Mười năm chẳng làm được gì, không lợi đâu.
Việc nuôi dưỡng bị sai. Điềm xấu. Mười năm chẳng dùng được, chẳng có lợi ích gì cả.
Hào này xấu nhất quẻ vì cái ăn không có / không nuôi ai. Mười năm chỉ một chu kỳ dài .
Hào 4: Điên di, cát. Hổ thị đam đam, kỳ dục trục trục. Vô cữu.
dịch: Đảo lộn sự nuôi, (nhưng) mở.(Như) con hổ nhìn (mồi) chăm chăm, lòng muốn vồ bắt . Không lỗi.
Xáo trộn việc nuôi dưỡng, (nhưng) mở. Hổ nhìn chằm chằm, nó muốn đuổi bắt. Không lỗi.
Tâm cầu vọng ở đây tuy có sai trái ít nhiều nhưng không bị phê xấu vì như con cọp hào này có đủ sức để đáp ứng điều nó muốn.
Hào 5: Phất kinh, cư trinh cát. Bất khả thiệp đại xuyên.
dịch: Trái lẽ thường, điềm ở yên thì mở.Không thể qua sông lớn.
Vị cao mà lại không bàn đến việc nuôi (hào này duy nhất trong quẻ không có chữ di) nên trái lẽ thường.Tài hèn sức mọn nên chẳng qua sông được (xem lợi thiệp đại xuyên ở phần dẫn nhập/ biểu tượng).Ở yên, biết phận, cầu người tài (hào 6 dương hợp) thì mở.
Hào 6: Do di, lệ cát . Lợi thiệp đại xuyên.
dịch: Do ta mà nuôi (được mọi người), nguy (nhưng) mở. Nên qua sông lớn.
Đây là hào có tài an bang tế thế nhưng vì thế phải hết sức cẩn trọng để đem cả nước qua cái nguy .So sánh với hào 5 thì ở đây Chu Dịch bảo có tài thì phải ra làm đừng ngại nguy khó (có thể bị chỉ trích do hào 3 ứng).
28/ QUẺ ĐẠI QUÁ
Quá là quá đáng, sai lỗi, vượt qua.Đại là lớn, dương khí.Quẻ này có 4 hào dương ở trong họp thành một khối trung tâm nên bị cho là mang nặng quá, nên tượng chính là cây cột chính chống nhà ở 2 hào giữa. hai hào dương còn lại lấy hình ảnh là cây dương (gỗ sốp), còn 2 hào âm ngoài thì dùng tượng mềm mại là cỏ và nước.
Lời quẻ: Đại quá.Đống nạo.Lợi hữu du vãng, hanh.
dịch: Khí dương nhiều quá .Cột cong ỏe.Nên có chỗ đi, hanh thông.
Sức nặng quá nhiều cột nhà cong, nguy cơ sắp gãy nhưng lời quẻ phê lợi, phê thông.Cho nên thời điểm quá đáng chưa chắc đã hỏng mà còn tùy ở mình có biết xử sự sao cho đúng.Xem thêm lợi hữu du vãng ở phần dẫn nhập / thuật ngữ. Lợi thông là khi nào ta biết tính toán trước và biết làm sao.
Tạ dụng bạch mao, vô cữu.
dịch: (Chiếu) lót dùng cỏ mao trắng, không lỗi.
Hào sơ âm cẩn trọng nên không mắc lỗi.Cỏ mao mềm mại, màu trắng giản dị, chiếu dùng quỳ lạy quỉ thần.
Hào 2: Khô dương sinh đề.Lão phu đắc kỳ nữ thê.Vô bất lợi.
dịch: Cây dương khô trổ lá non.Ông già lấy được vợ trẻ.Chẳng gì không lợi.
Vị âm giúp cho hào dương sửa cái quá lại gần hợp hào 1 âm. Quá này sửa cho quá kia vậy.
Hào 3: Đống nạo, hung.
dịch: Cột cong ỏe. Đóng.
Chịu quá hết nổi, không sửa kịp thì nguy rồi.
Hào 4: Đống long, cát.Hữu tha, lận .
dịch: Cột cứng khỏe, tốt. Thêm nữa, lận đận .
Sức dương vị âm, chống đỡ tốt .Nhưng nếu không biết dừng mà còn muốn chứa thêm nữa thì thể nào cũng có chuyện .
Hào 5: Khô dương sinh hoa.Lão phụ đắc kỳ sĩ phu.Vô cữu, vô dự.
dịch: Cây dương khô ra hoa. Bà già lấy được chồng trẻ. Không lỗi, không khen .
Hào này dương cư dương vị nên cái quá không thể sánh với hào 2, lại còn gần hào 6 âm xấu .Ra hoa thì sẽ tàn mau, lão phụ thì dù chồng trẻ cũng không có con được .
Hào 6: Quá thiệp, diệt đỉnh.Hung, vô cữu.
dịch: Lội qua sông chỗ (sâu) quá, chìm lút đầu.Đóng, không lỗi.
Hào này âm cư âm vị là quá đáng ở thời Đại Quá . Cái gì quá mất thì xấu .Nhưng có thể không lỗi vì nên cương quyết không nghi ngờ. Nếu làm quá thì nên ngừng, nhưng nếu vì thời thế ép buộc thì cứ tiến tới .Cho nên sách Học Năng chú: hào này rất xấu cho người đã có chức phận, đi thi lại rất tốt (lẽ Biến Dịch, tùy người).
29/ QUẺ TẬP KHẢM
Tập là tập quen, khảm là hiểm trở, hố sâu, vực thẳm.Tập thời Hán giảng là dòng nước sâu để từ đó giảng quẻ Khảm là tượng cho nước và tập từ đời Tống là 2 lần, vì vậy có người đặt luôn tên mới là thuần Khảm.
Quẻ này nói về sự cần thiết tập luyện trong nguy hiểm để biết cách ứng phó .
-pth 77: Quẻ có lẽ bao gồm hai ý nghĩa chính yếu:
+ Tập luyện để vượt qua thực tế khó khăn, khắc nghiệt.
+ Tập luyện để rèn cái Tâm can đảm/ can trường.
Lời quẻ: Tập khảm.Hữu phu, duy tâm, hanh . Hành hữu thượng.
dịch: Tập luyện nơi hiểm trở .Có đức tin, giữ vững lòng, hanh thông.Thực hành dẫn đến vượt qua, vươn lên (khó khăn)
Cổ điển hơn thì hành hữu thượng là: thực hành sẽ có điều hay / phần thưởng..
Hào 1: Tập khảm.Nhập vu khảm đảm.Hung.
dịch: Tập luyện nơi hiểm trở.Đi vào hố sâu, hiểm.Đóng.
Hào sơ còn lo sợ (hào âm) nên phải luyện tập để đừng hốt hoảng.Nếu không thì xấu.
+ bắt đầu đi vào thời kì tập luyện khó khăn, gian khổ, nhiều hiểm nguy, chưa có nhiều kinh nghiệm mà đã chọn ngay việc tập luyện đi vàohố sâu, hiểm thì không phù hợp, nên đóng.
Hào 2: Khảm hữu hiểm.Cầu tiểu đắc.
dịch: Trũng có chỗ hiểm.Cầu (việc) nhỏ thì được.
Khi đang ở chỗ hiểm nguy không nên tính chuyện quá lớn (liều lĩnh).
Chọn điạ hình Trũng có chỗ hiểm để rèn luyện, hào này có lẽ thấy được khả năng thực tế, cũng như rút kinh nghiệm từ hào sơ, nên lựa chọn việc nhỏ phù hợp, tránh vượt quá sức. (Hào đắc trung, lại dương cương, nên có lẽ đủ sức vượt được khó khăn thời kì đầu)
Hào 3: Lai chi khảm khảm.Hiểm thả chẩm .Nhập vu khảm đảm. Vật dụng .
dịch: Trước mặt trùng trùng hiểm trở.Trong hiểm mà gối (đầu nghỉ ngơi) .Đi sâu vào hố hiểm. Chớ làm.
Hào này càng nhập sâu càng gặp khó nên phải biết nghỉ ngơi dưỡng sức.Chớ làm chỉ việc cần cực kỳ thận trọng.
Chọn địa hình tập luyện vô cùng khó khăn – trước mặt trùng trùng hiểm trở, có thể cho rằng đó là giới hạn tối đa cho sức chịu đựng, do vậy mà có thể:
+ Trong hiểm mà gối (đầu nghỉ ngơi) chọn sự nghỉ ngơi, dừng lại không tiếp tục nữa vì có thể vượt quá sức chịu đựng mà gặp nguy hiểm thực tế. (giới hạn tập luyện cho những người còn ít từng trải)
+ Trong hiểm mà gối (đầu nghỉ ngơi) .Đi sâu vào hố hiểm: nghỉ ngơi để lấy lại thăng bằng, an tâm, sau đó lại tiếp tục đi vào thách thức, tuy nhiên cần cực kỳ thận trọng.(có lẽ là giới hạn cần phải vượt qua của những người ưu tú, đã từng trải)
Hào 4: Tôn tửu, quỹ nhị, dụng phẫu.Nạp ước tự dũ .Chung vô cữu.
dịch: Dùng rượu, hai chén, dùng bồn đựng thức ăn.Giao thâu đều qua cửa sổ.Cuối cùng không lỗi.
Hào này thú thật chúng tôi không hiểu ý . Đây ngắt theo Dương Ngọc Dũng, nạp ước hiểu theo Cao Hanh mà không hiểu ước là tín ước.Hào này có lẽ nói về một điển tích mà chúng ta không biết đến.Theo bài thơ trong sách Học Năng thì ý nghĩa hào này là phải chờ lâu, kiên nhẫn mới mong thành công.Sự trịnh trọng khi tế lễ cần sự cẩn trọng, hay là đó là thái độ cần có khi đang trong hiểm nguy ?
Cổ điển dịch: Dâng rượu trong chén, sau đó dùng bồn chứa thức ăn.Nạp tờ giao ước qua cửa sổ.Cuối cùng không lỗi.
Chữ Tôn có nghĩa là chén uống rượu, cũng có nghĩa là tôn quý, cao cấp,… nên QNB hiểu là:
Dâng rượu quý, hai chén. Dùng vò mà nộp ước. Chủ động mở mang dẫn lối. Đến cuối sẽ không lỗi.
Tức là ở hào này vẫn trong vị thế thấp kém, có thể bị nguy hiểm, nên cần phải nhún nhường, dâng chén rượu quý, lại dùng cả vò rượu quý mà nộp như là vật ước lễ. Chủ động để gợi mở cơ hội cho mình thì cuối cùng sẽ không có lỗi gì nguy hại.
Hào 5: Khảm bất doanh, ký kỳ bình.Vô cữu.
dịch: Hố sâu chưa (lấp) đầy. Chỉ là đã bằng phẳng .Không lỗi.
Ở thời Khảm thì không làm việc lớn được nhưng ở hào này thì tâm đã vững.
Hào 6: Hệ dụng huy mặc.Chí vu tùng cức.Tam tuế bất đắc .Hung.
dịch: (Bị) trói chặt bằng dây thừng, dây chão.(giam) trong (tù) có cây gai bao bọc .Ba năm chẳng được.Đóng .
Hào này không nói đến hố sâu mà lại bị giam hãm .Phải chăng vì không tập luyện nên dù theo nghĩa đen hay nghĩa bóng đều bị rơi vào nơi sâu hiểm ?
30/ QUẺ LY/LA
Ly có nghĩa là xa rời, lại có nghĩa là bám víu, lệ thuộc. Theo Javary thì chữ Ly là Chữ Ly/Li 離 (bộ Chuy 隹).
Với Chuy (được viết ở bên phải của chữ Li) có nghĩa là chỉ các loài chim có đuôi ngắn nói chung.
Bên trái của chữ Li cũng đọc là Li 离, có phần trên có hình tựa như con chim, phần dưới là chữ Nhựu 禸 có nghĩa là vết chân thú dẫm vào, chân thú in vào, đạp vào,…
Cho nên Ly/Li 離 mang cả 2 nghĩa:
– thứ nhất là, Chia lìa, phân chia ra, tách ra (khi ở gần mà chia lìa, tách ra thì người ta dùng chữ Li, còn khi ở xa mà chia lìa thì gọi là Biệt).
– thứ hai là, Bám dính, mắc phải,…
Giải nghĩa theo kiểu chiết tự của Javary thì là như thế. Nhưng bản thân QNB thì cho rằng chữ Li này chỉ cần hiểu là sự phân chia, chia lìa, chia ly.
.Nhưng nhiều học giả TQ ngày nay lại viện bản Mã vương Đôi mà cho rằng chính ra là quẻ La,có nghĩa là lưới bắt chim / chim mắc lưới nên còn có nghĩa gặp nạn .Giải thích này dựa vào ý nghĩa gặp nạn, đốt phá, giết chóc, chiến tranh của các hào từ 4 đến 6 và ly hay la đều có hình tượng chim bay .Sau này ly lại có thêm nghĩa ánh sáng từ hình ảnh con chim mà ra. Ly là lửa thì chỉ có từ thời Hán khi các quẻ tam quái đã xuất hiện.
lời quẻ: Ly.Lợi trinh, hanh.Súc tẫn ngưu, cát.
dịch: Bám chặt.Chính bền lợi, hanh thông.Nuôi bò cái, mở.
Javary giảng phải tỉnh táo, giữ chính bền như nuôi bò cái chứ không nên mê mẩn .Cho nên ý của Javary là ly chỉ con chim, nếu biết bám chặt chỗ đứng của mình thì tốt mà nếu tham lam bay xa thì bị lưới
QNB hiểu là: Phân chia. Lợi chính bền, hanh thông. (được) nuôi con bò cái. Mở
Hào 1: Lý thác nhiên .Kính chi, vô cữu.
dịch: Đi bừa/ rón rén.Cẩn trọng, không lỗi.
“Dẫm lầm. Thận trọng, (thì) không lỗi”.
Hào sơ chưa biết phải làm thế nào nên cẩn trọng thì tránh được sai lầm.
Hào 2: Hoàng ly.Nguyên cát .
dịch:Ánh sáng vàng / Chim vàng anh.Tốt lớn.
Đất được phân chia. Tốt lớn
hào 3: Nhật trắc chi ly.Bất cỗ phẫu chi ca, tắc đại điệt chi ta.Hung
dịch: Mặt trời xế bóng. Không gõ bồn mà ca hát, tất các già lão thở than .Đóng
Mặt trời xế bóng thì phân chia. Chẳng gõ phẫu (một loại nhạc khí) mà ca ngâm, thì người già (cũng) đau xót. Đóng.
Hào 4: Đột như, kỳ lai như, phần như, tử như, khí như.
dịch: Như đột nhiên, như trở lại .như cháy, như chết, như bị bỏ.
Đột ngột… xảy ra… đốt cháy… chết chóc… hủy bỏ…
Hào này dương cư âm vị dường như quá nóng nảy .Vương Bật cho là ngỗ ngược làm loạn.
Hào 5: Xuất thế đà nhược, thích ta nhược.cát .
dịch: Nước mắt đầm đìa, than thở vắn dài .mở.
Nước mắt chảy ra giàn dụa, thân thích đau xót. Mở
Hào này phải chịu hậu quả tang thương.Nhưng cớ sao lại phê mở ? nạn đã qua ? Hào 6 cứu ?
Hào 6: Vương dụng xuất chinh .Hữu gia chiết thủ, hoạch phỉ kỳ xú.Vô cữu.
dịch: Vua ra quân .Thật tốt đẹp vì chém được tướng giặc, chẳng bắt hết bè lũ xấu .Không lỗi.
Hào này dẹp loạn, cốt yên dân tình chẳng cần bắt nô lệ .
Quẻ này với tôi là quẻ khó nắm bắt nhất, tên quẻ không chắc . Một giả thuyết lịch sử tôi xin đưa ra là quẻ này nói về sự phản loạn của Tam thúc họp với Vũ Canh, con vua Trụ.Trong trường hợp đó hào 2 nói đến lúc tam thúc được tấn phong ở các đất xung quanh Ân khư đã cắt ra cho 3 người là Quản, Sái/ Thái và Hoắc để giám sát con vua Trụ được phong ở trung tâm đất Ân cũ.Hào 3 nhắc đến cái chết của Vũ vương, tam thúc không khóc than mà lại mưu việc soán đoạt .Hào 4 kể lại cuộc nổi dậy/phản loạn và hậu quả kẻ bị giết (Võ Canh tức Lộc Nghĩa và Quản thúc) người bị phế bỏ.Hào 5 chỉ sự khóc lóc của Sái thúc và Hoắc thúc cùng họ ngoại (tức là phe Ân)xin tha và cuối cùng họ được tha chết chỉ bị đi đầy.Hào 6 nói rằng sau khi bắt giết được các đầu sỏ Chu công đã tha tội cho quí tộc nhà Ân, chỉ bắt một số gia đình dời sang Lạc ấp sống và số còn lại thì chịu sự cai trị của chư hầu trung thành của nhà Chu (xem quẻ 35 Tấn).
31/QUẺ HÀM
Hàm 咸 có nghĩa là tất cả, hết thảy, giống nhau.
Nhưng từ thời Hán thì chữ Hàm 咸 có thêm bộ Tâm 心 thành chữ Cảm 感 và có nghĩa là giao cảm, cảm ứng. Từ nhà Thanh đến hiện đại thì có thêm khuynh hướng giảng là bị thương hoặc là động. Tôi theo Javary nghĩ rằng hàm là sự cảm bị động.
QNB: Chữ Cảm còn có nghĩa là mắc phải, bị, cảm thương (thương tiếc, thương xót),… nó còn thông với chữ Hám 撼 nghĩa là lay động.
Có hai quẻ trong Chu Dịch dùng cơ thể con người làm tượng: quẻ 52 Cấn nói về sự dừng, và quẻ Hàm này nói về sự động (động lòng, động tình …).
Cảm động là 1 trạng thái ngắn ngủi có thể gây ra mê hoặc hay bối rối nhưng cũng có một tiềm năng làm chuyển động trở lại cái gì trước đó bị đình trệ (có nhà nho sau này chú rằng quẻ Bĩ chuyển sang quẻ Hàm nhờ trao đổi hai hào 3 và 6) hay, ở hào 4, biến được cái cảm động phiếm diện thành tình cảm lâu dài.
Lời quẻ: Hàm. Hanh. Lợi trinh. Thú nữ, cát.
dịch: Động cảm. Thông. Nên chính bền. Lấy vợ, mở.
Cái cảm giúp cho hanh thông nhưng việc động phải biến thành lâu dài thì mới lợi. Lấy tượng tình cảm trai gái tựu thành việc vợ chồng làm điều tốt.
Hào 1: Hàm kỳ mẫu.
dịch: Cảm ở ngón chân cái.
Mới cảm sơ đã muốn động đậy. Ứng với hào 4 chủ quẻ nên không phê xấu. Duy nhớ là còn mới chưa sâu.
Hào: Hàm kỳ phi, hung. Cư cát .
dịch: Cảm ở bắp vế, đóng. Ở yên mở.
Cảm mạnh nên dễ đi đến mê mệt .tỉnh táo lại thời mở (ứng với hào 5).
Hào 3: Hàm kỳ cổ,. Chấp kỳ tùy. Vãng lận .
dịch: Cảm ở bắp đùi. Giữ chặt (không để) theo. Tiến lên sẽ hối hận.
Sức cảm mạnh quá dễ sa ngã.Chớ nghe theo lời ngon ngọt hay khích bác(ứng với hào 6) mà làm điều xằng bậy.
Hào 4: Trinh cát, hối vong. Đồng đồng vãng lai. Bằng tòng nhĩ tư.
dịch: Chính bền tốt, sẽ không hối tiếc. Chạy qua chạy lại lăng xăng như trẻ con. Các bạn bè đều thuận theo ý ngươi.
Hào này sự cảm thông rất cao, tình cảm trở nên sâu đậm .giữ được lâu dài thời thật tốt.
Hào 5: Hàm kỳ mỗi. Vô hối.
dịch: Động ở sống lưng. Không hối hận gì.
Sống lưng chỉ việc cân bằng, bình tĩnh, không dễ bị lay động vì sự cảm, nên không hệ lụy gì.
Hào 6: Hàm kỳ phụ, giáp thiệt.
dịch: cảm ở cửa miệng,má, mép.
Động ở chỗ dễ trao đổi (thức ăn, uống, lời nói) nên động nhiều .Miệng lưỡi tự nó không có lỗi, chỉ là tùy tâm người ta mà dụng .Nên không phê xấu tốt.
32/ QUẺ HẰNG
QNB: Hằng là thường hằng, là tính bền, là sự ổn định về tính quy luật chứ không phải là sự bất biến về trạng thái.
Lời quẻ: Hằng.Hanh, vô cữu.Lợi trinh, lợi hữu du vãng.
dịch: Thường hằng.Thông, không lỗi.Nên chính bền, nên có chỗ đi.
Việc thường ngày có khi trở thành khô khan, nhàm chán cho nên cần cố gắng, lập chí bền bĩ và nên có mục tiêu (xem thêm lợi hữu du vãng ở phần dẫn nhập / thuật ngữ).
Hào 1: Tuấn hằng.Trinh hung, vô du lợi.
dịch: Đi sâu vào sự hằng (bền gan, câu nệ). Điềm đóng, không lợi đâu.
Tuấn 浚 (có bộ thủy) nên cũng mang nghĩa là khai mở dòng nước, nạo vét, đào sâu (đối với hố/giếng nước),…
Bởi thế mà có thể hiểu hào 1 là: Làm mất cái tính ổn định thường hằng. Điềm đóng. Chẳng chỗ nào lợi cả
Hào sơ này bất chính ứng với hào 4 cũng sai lầm nên dễ đi đến cái tệ trì trệ, cố chấp.
Hào 2: Hối vong .
dịch: Hối tiếc không còn.
Hào này bình thản và biết giữ lâu bền, không quá câu nệ (hào 1) cũng không quá vội vã (hào 3).
Hào 3: Bất hằng kỳ đức.Hoặc thừa chi tu.Trinh lận.
dịch: Không giữ đức thường.Giả như thăng tiến thì lại gặp nhục nhã.Đoán lận đận.
Không giữ cho bền cái đức. Có thể nhận lấy cái nhục. Điềm hối tiếc.
Dương cư dương vị quá cương, quá nóng lòng đi lên có thể bất chấp tất cả .
Hào 4: Điền vô cầm.
dịch: Đi săn chẳng có chim.Đi săn (mà) chẳng bắt.
Đi săn không phải là việc thường ngày nên không hợp quẻ, dù có bền chí cũng vô ích.
Do chữ Cầm 禽 còn có nghĩa là bắt giữ, cầm nắm,…
Lẽ thường thì đi săn là phải bắt, nhưng hào này tả cái chuyện “Đi săn mà chẳng bắt”, ấy là phá vỡ tính quy luật thường hằng, là làm trái lại cái tính quy luật vốn có.
Hào 5: Hằng kỳ đức.Trinh phụ nhân cát phu tử hung.
dịch: Giữ dức đạo hằng.Đoán phụ nữ (như thế) thì mở, đàn ông thì đóng.
Giữ cái đức được bền. Điềm (với) người vợ thì mở, (còn với) chồng thì đóng.
Theo xưa đàn bà thì cần bền chí, đàn ông nên hiểu lẽ tùy thời.
Đoán với người chồng thì đóng là do: theo lẽ thường thì vợ phải giữ cái đức mà theo chồng, còn người chồng không cần phải làm thế. Nếu chồng làm như thế thì rõ ràng là trái lẽ thường, nên điềm đóng.
Hào 6: Chấn hằng.Hung.
dịch: Chấn động cái sự ổn định, lung lay cái tính thường hằng. Đóng.
Không giữ lâu dài nữa, vượt sự thường.Đóng đấy nhưng theo Bát tự Hà Lạc làm đúng lý thì dù trái thường cũng không sai (lẽ tùy thời).
33/ QUẺ ĐỘN
Độn là trốn chạy, lui thoái, giả trá.QNB: Chữ Độn 遯 này viết với bộ Sước 辵 (nghĩa là đi túc tắc, lúc đi lúc dừng) và chữ 豚 (có bộ Thỉ 豕 nghĩa là con Heo) có 2 cách đọc: khi đọc là Đồn thì có nghĩa là con Heo sữa, còn khi cũng đọc là Độn thì nghĩa là đi loẹt quẹt, đi mà kéo lê gót chân. .Javary giảng là hình ảnh con lợn con được dùng ở đây là vừa để chỉ sự chạy trốn vừa chỉ cái lợi bảo toàn thế lực khi lui thoái tựa như con lợn lớn dần thì mau mập.Quẻ này ở 3 hào đầu nói đến những khó khăn khi phải thực hiện việc lui binh chiến lược (không vì nhát mà là không để thua tan nát) .Ba hào sau nói về cái lợi của sự thoái ẩn đúng thời.
Lời quẻ; Độn hanh. Tiểu lợi trinh.
dịch: Thoái lui, thông.Tinh tế mềm dẻo đoán lợi .
Hào 1: Đồn vĩ, lệ.Vật dụng.Hữu du vãng.
dịch: Đuôi lợn.Nguy.Chớ làm.Có chỗ đi.
Hình ảnh heo sữa thấy bóng người thì hoảng sợ chạy cong đuôi.Thế hào này chưa nên tiến lên, thoái là theo chiến lược (có chỗ đi).
Hào 2:Chấp chi dụng hoàng ngưu chi cách.Mạc chi thắng thoát.
dịch: Trói chặt bằng dây da bò.Chẳng gì (đánh) bật nổi.
Thời độn mà không có chữ độn lại dùng chữ chấp (giữ chặt).Vậy ở đây là cố giữ đến cùng như đóng chốt để cho đại quân có thì giờ lui binh an toàn.
Hào 3: Hệ độn, hữu tật, lệ .Súc thần thiếp, cát.
dịch: Thoái lui bị trở ngại, mắc bệnh, nguy.Tụ họp tôi tớ, nô thiếp. Mở.
Là hào dương đầu tiên của quẻ nên việc lui gặp khó, rất dễ bị phá tan.Cho nên phải tụ họp mọi người lại, tránh sự hoảng loạn tối kỵ khi lui quân.Súc có 3 nghĩa: nuôi dưỡng, cản trở đều đã thấy ở các quẻ 9 & 26 còn ở đây có nghĩa tụ họp.
Hào 4: Hiếu độn.Quân tử, cát.Tiểu nhân phủ.
dịch: Thoái lui tốt đẹp / con lợn ngon lành . Quân tử mở, tiểu nhân không .
Lùi quân thành công.Người trí dũng thì biết là tốt, kẻ tiểu nhân cho rằng không.
Hào 5: Gia độn.Trinh cát.
dịch: Thoái lui khéo léo /con lợn đầy đặn .Đoán mở.
Bây giờ sự thoái lui mang lại cái lợi toàn cục đã rõ ràng.
Hào 6: Phì độn.Vô bất lợi.
dịch: Thoái lui dưỡng quân / Con lợn mập mạp .Chẳng gì không lợi.
Hào này cuối quẻ nên không cần lui nữa.Quân tướng sẵn sàng phản công nên phê vô bất lợi.
34/ QUẺ ĐẠI TRÁNG
Đại tráng là lớn mạnh, cương mãnh quá.Quẻ này bàn về việc kiểm soát được sức mạnh, khí nóng biến đó thành hữu dụng, không để phá hỏng, tự mình hại mình.Tượng của quẻ là con dê đực thích húc càn (ngược với con heo con sợ sệt, trốn lủi của quẻ cặp).
Lòi quẻ: Đại tráng .Lợi trinh.
dịch: Lớn mạnh .Nên chính bền.
Sức mạnh lớn mà biết kiềm chế biến thành sức trường lâu, bền bĩ thì lợi.
Hào 1: Tráng vu chỉ.Chinh hung.Hữu phu.
dịch: Sức mạnh ở chân .Đánh dẹp đóng.Có lòng tin.
Hào sơ nên chỉ muốn động đậy.Chu Dịch khuyên chớ làm bậy.Có lòng tin ở đây có lẽ là quá tự tin .Nhưng kinh nghiệm BTHL cho thấy cũng có thể hiểu là ngừng hung hăng thì có sự tin tưởng để giao hiếu.
Hào 2: Trinh cát.
dịch: Đoán mở.
Hào này có người bảo nên lấy 2 chữ hữu phu của câu trên xuống.Như vậy thì hợp lý hơn vì xưa kia là 1 bài viết dài, đâu có ngắt chỗ nào hào nào rõ ràng nên chấp nhận giả thuyết này được. Tôi ghi để tồn nghi.
Hào 3: Tiểu nhân dụng tráng, quân tử dụng võng.Trinh lệ.Đê dương xúc phiên, luy kỳ giác.
dịch: Tiểu nhân dụng sức, quân tử chẳng vậy/ dùng trí/ dùng đạo không .Điềm nguy.Dê đực húc bờ giậu, mắc kẹt sừng.
Chữ võng gây nhiều tranh cãi: võng là vô (dùng cái không), là chẳng, là lưới (ám chỉ mưu mô hay luật lệ) ?Cao Hanh còn cho là lo buồn.Nhưng tựu chung thì thú tính mà không kiềm chế được, làm bậy thì sẽ nhận hậu quả xấu (khác với hào 6 vị âm, ứng với hào 3 này biết thay đổi).
Hào 4: Trinh cát, hối vong.Phiên quyết, bất luy.Tráng vu đại dư chi phúc.
dịch: Điềm mở.Hối hận hết.Giậu đổ, không còn mắc kẹt.Sức mạnh ở trục xe lớn.
Hào dương nhưng vị âm lại cận hào âm nên trong cương có nhu .Vật cản đổ rồi.Vế chót nói về cái hay của cái trục quay, nhờ nó mà xe chạy (xem Lão tử: lấy âm rỗng mà điều khiển dương thật).
pth 77 Sử dụng được sức mạnh tổng hợp (nỗ lực cao nhất) nên thắng được sức cản của ngoại cảnh, không còn mắc kẹt nên cáng đáng được việc. Thế – lực được ví như Sức mạnh ở trục xe lớn – trục xe mạnh thì mới giúp xe lớn chạy tốt, chở nặng được, nếu không sẽ bị gãy, xe không đi được.
Hào 5: Táng dương vu Dị.Vô hối.
dịch: Mất dê, cừu ở thành Dị .Không hối.
Đây là một khám phá của văn bản học dựa vào Trúc thư kỷ niên và Sơn Hải kinh. Dị hay Dịch là tên 1 ấp cổ, Vương Hợi (một tổ nhà Thương) đem thú vật qua đó bán, nhưng lại đi tằng tịu với vợ chúa xứ nên vỡ lỡ thì phải bỏ chạy mất tất cả bò dê nhưng thoát chết .Sau Vương Hợi sẽ bị vua Dị phục kích giết.
Hào này nói rằng lén lút (hào này âm) thỏa chí làm bậy thì phải gánh hậu quả, chỉ mất tài vật đã là may.
Vô hối, theo kinh nghiệm Hà Lạc cũng có thể hiểu theo khuynh hướng xấu là: vẫn không hối hận (xem thêm hào 6 quẻ Lữ 56).
Hào 6: Đê dương xúc phiên .Bất năng thoái, bất năng toại.Vô du lợi.Gian tắc cát.
dịch: Dê đực húc giậu.Không lui được, chẳng toại lòng.Không lợi đâu.Gian nan thì (lại) mở.
Hào 6 âm cư âm vị nên tuy làm sai, mắc kẹt nhưng khó khăn thì cùng tắc biến (sửa mình) nên mở.
35/ QUẺ TẤN
Tấn là tiến nhưng ở Chu Dịch là tấn phong.Sử gia Cố Hiệt Cương đấu thế kỷ XX đã tìm ra Khang hầu trong lời quẻ chính là một nhân vật lịch sử: Khang thúc Phong, dựa vào Tả truyện và Sử ký.Rồi khoa khảo cổ cũng tìm được một cái ” zun ” bằng đồng nằm trong quốc khố từ đời Tống, trên đó có ghi hàng chữ: Khang hầu Phong (đã cho) làm chiếc tôn (?) quý này [ Kang hou Feng zuo bao zun ], chứng thực sự kiện Khang thúc đã cho làm chiếc tôn này để đánh dấu ngày được thụ phong .
Bối cảnh lúc ấy là sau khi Chu công đánh dẹp được loạn Võ Canh (tức Lộc Nghĩa) và tam thúc thì nhà Chu thưởng công cho những người trung thành là Vi tử Khải, anh dòng thứ của Trụ, phong ở Tống để giữ hương hỏa nhà Ân, những nhà quyền quý đất Ân theo Võ Canh thì phải dời sang sống ở Lạc Ấp ; ở đó Chu công cho xây Vương thành để làm đông đô nhằm kiểm soát đất Trung nguyên, vùng ảnh hưởng cũ của nhà Ân .Còn đất Ân thì giao cho Khang thúc em áp út của Vũ vương, đặt tên nước là Vệ (bảo vệ nhà Chu) cai quản những người còn lại ở đó.
Vì QNB không quen thuộc với chữ phiên âm do nhiều chữ Hán có thể được phát âm kiểu đồng âm khác nghĩa nên chỉ có thể dựa vào ngữ cảnh để suy “Kang Hou Feng zuo bao zun” = Khang Hầu Phong tác/tạc bảo tôn
Quẻ Tấn nói về việc tấn phong nhưng đi kèm là những khó khăn và lo âu chính trị đằng sau.
Lời quẻ: Tấn.Khang hầu dụng tích mã phồn thứ.Trú nhật tam tiếp.
dịch: Tấn phong.Khang hầu được ban cho nhiều ngựa (xe) .Trọn ban ngày được (vua) tiếp ba lần.
Tích hiểu là phần thưởng (Javary), là vua ban (Trình Di) .Sự tấn phong Khang thúc phải được làm rạng rỡ mà lại gần gũi để cho thấy vai trò hộ vệ quan trọng của ông cho triều Chu.
Dương Ngọc Dũng cũng biết và sử dụng những khám phá của sử và khảo cổ nhưng không hiểu có vì chịu ảnh hưởng quá đậm của giới học giả TQ không mà không thấy ý nghĩa của chữ tấn (phong) lại dịch là Khang hầu đem ngựa vua cho chúng “giao phối ” 3 lần một ngày để nhân giống chúng thật nhiều !?Và từ đó ông đã hiểu các hào một cách rời rạc trong khi quẻ này là một quẻ nhất quán hoàn toàn.
Hào 1: Tấn như, tồi như .Trinh cát.Võng phu, dụ, vô cữu.
dịch: Như tiến lên, như lùi bước Đoán mở.Không (được) tin, khoan thai (thì) không lỗi.
Hào chỉ khó khăn của người phải mang trọng trách, không được dân tin tưởng .Phải biết dùng khoan hồng để lấy lòng người.
Hào 2: Tấn như, sầu như.Trinh cát .Thụ tư giới phúc vu kỳ vương mẫu.
dịch: Như tiến lên, như buồn rầu.Đoán mở.Nhận được phúc lớn từ mẹ vua .
Hào này chỉ tâm trạng đằng sau vinh quang của người mang trọng trách.Đoán mở vì sở dĩ Khang thúc được chọn làm Vệ công ngoài tài cán, lòng trung thành còn là vì ông là con cùng mẹ với Vũ vương mà mẹ ông vốn thuộc gia tộc Ân (xem hào 5 quẻ Thái 11) nên ông cũng có một phần máu mủ với quí tộc dất Ân.Đây là phép dùng tâm lý của Chu công.
Hào 3: Chúng doãn, hối vong.
dịch: Dân chúng tin cẩn, lo hối tiêu tan.
Mọi người chấp thuận. Lo hối tiêu tan
Phép trị dân của Khang hầu cùng những sửa soạn tâm lý đã giúp cho đất Ân cũ không còn nổi loạn.
Hào 4: Tấn như thạc thử.Trinh lệ.
dịch: Tiến mà như dế mèn / chuột đá. Đoán nguy.
Tiến lên… Nỗi lo âu lớn hơn. Đoán nguy.
Hào này là giả thiết nếu không biết quang minh chính đại thì hung nguy sẽ xẩy ra.
Hào 5: Hối vong.Thất đắc vật tuất .Vãng cát.Vô bất lợi.
dịch: Lo hối tiêu tan Được mất chớ lo. (Như vậy mà) tiến sẽ mở.Chẳng gì không lợi.
Đây là tóm tắt câu chuyện của Khang hầu.Cuối cùng thì bốn bề yên tĩnh không phải lo nữa.
Hào 6: Tấn kỳ giác.Duy dụng phạt ấp.Lệ cát, vô cữu.Trinh lận.
dịch: Tiến lên sừng sộ.Chỉ dùng để trừng phạt quân phiến loạn của(Đại) Ấp (tức đất Ân) .Nguy (nhưng) mở.Điềm lận đận.
Hào này trở lại ngọn ngành .Khang thúc theo Chu công đánh dẹp cuộc phản loạn của Võ Canh và tam thúc, đó là lúc duy nhất ông tỏ ra cứng rắn với dân Ân .Phê nguy rồi lại phê cát vì chiến tranh nguy hiểm nhưng chiến thắng thì mở cho tương lai của ông .Giác là cái sừng, ở đây hiểu như tĩnh từ.
Từ hào 1 đã mô tả sự thăng trầm của Khang Thúc Phong là tiến tới/thăng tiến -> gãy đổ (do bị oan) -> được khoan dung, minh oan là không có lỗi gì.
Quá trình ở hào 2 -> hào 3, gần tương tự như quá trình ở hào 4 -> hào 5: với sự thăng tiến đi kèm với lo âu nhưng được người khác trợ giúp, đồng thuận nên sau đó nỗi lo âu đều tiêu tan cả.
Hào 6 là tiến lên rầm rộ mạnh mẽ, hợp với cảnh chinh phạt, ở trong lúc/chỗ nguy hiểm thì vẫn được an toàn, tuy nhiên vẫn phải chịu lân đận.
Hiểu rõ quẻ này là thành công rực rỡ hàng đầu của khoa Ngữ văn .Cổ điển vì không biết Khang hầu là tên nhân vật, không rõ bối cảnh lịch sử nên hiểu sai lạc nhiều, nhất là ở hai hào 2 & 6.
36/ QUẺ MINH DI
Minh là sáng, sáng suốt, trí tuệ, văn minh. Di là bị thương, bị tiêu diệt, che dấu, là tên các dân tộc sống ở vùng Đông bắc TQ (trung tâm cổ là Sơn Đông) đến nam Siberia .Đại tộc Di phần lớn nay đã bị đồng hóa (dân thiểu số Ainou còn sống ở đảo Hokkaido Nhật là một chi còn sót lại) dùng cung lớn và thích lấy lông chim để hóa trang và thờ phượng chim.Minh di vậy vừa có nghĩa ánh sáng bị che (thời của quẻ) vừa có nghĩa che sự sáng suốt (sách lược để tránh họa thời Minh Di). Theo giáo sư Li Xing Shi thì lúc đầu Minh Di được viết với 2 chữ khác và nên được đọc là Chim Bồ nông bị thương kêu la.Như chúng ta đã thấy ở quẻ Ly 30 chim và ánh sáng được hoán dụng cho nhau (hay như con heo và sự lùi trốn ở quẻ Độn 33).
Lời quẻ: Minh di. Lợi gian trinh.
dịch: Ánh sáng bị che .Điềm (chịu) gian khổ (mới) lợi.
Trí tuệ bị tiêu diệt. Điềm khó khăn/nguy hiểm tới nhanh.
Chữ “lợi” ở đây có thể hiểu với nghĩa nhanh, mạnh, sắc bén,… giống như “lợi khẩu = mồm miệng lanh lợi sắc bén”, “lợi khí = khí cụ sắc bén”,… nên “lợi gian – trinh” có thể hiểu là điềm khó khăn nguy hiểm đến nhanh, xảy ra nhanh.
Quẻ này nhờ hào 5 có tên Cơ tử, em họ hay chú vua Trụ nên cổ điển cũng hiểu theo bối cảnh lịch sử mà giảng: đế Trụ hôn ám không nghe lời can gián nên trung thần nhà Ân hoặc bị giết, hoặc phải giả điên hay phải bỏ trốn.
Hào 1: Minh di vu phi, thùy kỳ dực. Quân tử vu hành, tam nhật bất thực.Hữu du vãng .Chủ nhân hữu ngôn.
dịch: Chim đang bay thì bị thương, cánh nó rũ xuống. Người quân tử trên đường đi (lánh) ba ngày không có ăn. Có chỗ để đi. Chủ nhân có lời tiếng.
Trí tuệ bị diệt bất ngờ/nhanh. Sự cung kính rớt xuống. Người quân tử ra đi, ba ngày chẳng ăn. Có chổ để đến. Người chủ (vua) có lời truy hỏi.
Hào này thường được hiểu là người quân tử gặp thời hắc ám thì nên tránh đi . theo riêng tôi thì đoán là nói về anh em Vi Khải, Vi Trọng Diễn (anh dòng thứ của vua Trụ) bị bạc đãi và chứng kiến sự tàn bạo của Trụ nên bỏ sang Tây Chu (có chỗ để đi) .Chủ nhân hẳn chỉ đế Trụ.
Theo QNB thì đây là khi Trụ vương bất ngờ giết Tỷ Can, lúc giết thì Trụ vương có nói “nghe đồn tim người thánh nhân trí tuệ có 7 cái lỗ, để ta thử xem tim ngươi có thật thế không”.
Tỷ Can chết và Vi Tử (Vi Khải) bỏ đi, có lẽ là vừa buồn vừa sợ (sợ Trụ diệt cả đám – hào 3) nên đi rất gấp mà ba ngày chẳng ăn. Bỏ sang Tây Chu.
Hào 2: Minh di, di vu tả cổ. Dụng chửng mã tráng. Cát.
dịch: Chim kêu rên, bị thương ở đùi trái. Cứu (người) bằng ngựa khỏe. Mở.
Trí tuệ bị diệt, diệt cả phe phái ấy luôn. Cần cứu lấy con ngựa tốt. Mở.
Nhiều người cho là nói về Văn vương (minh cũng là sáng suốt, thông minh) bị giam ở Dữu lý (bị thương ở đùi trái). Để cứu ông ra Tây Chu phải dùng 3 món quà trong đó có ngựa hay; nhưng ta cũng có thể hiểu là phải dùng vừa bền bĩ âm nhu qua sủng thần (tượng ngựa cái quẻ Khôn) vừa cương quyết mãnh liệt (tráng).
Cũng vẫn nằm trong cái việc Trụ Vương giết Tỷ Can, giam cầm Cơ Tử, giáng Cơ Tử làm nô lệ, truy lùng Vi Tử. Phía Tây Chu nhân cơ hội cứu lấy Vi Tử (ví Vi Tử như con ngựa tốt – sau này Khổng Tử gọi 3 người này là hiền nhân), điều đó có lợi cho Tây Chu nên hào phê mở.
Hào 3: Minh di vu nam thú. Đắc kỳ đại thủ. Bất khả tật trinh.
dịch: Chim bị thương khi đi tuần tiễu phương Nam. Bắt được đầu sỏ lớn. Đoán chẳng thể nhanh.
Trí tuệ bị diệt như ở cuộc săn bắt phương Nam. Giết được đầu sỏ. Điềm bệnh tật không khỏi được.
Hào này có nhiều cách ngắt câu và dịch giảng khác nhau nhưng ý chính là lập được chiến công hay đi săn bắt được thú lớn nhưng chưa đến thời nên phải chờ.Tôi cho có thể chỉ Vũ vương vì hào 3 này ứng với hào 6 chỉ Đế Tân / Trụ, ông ta phải chờ thời chứ không đánh ngay được (đã tựu quân 1 lần rồi bỏ về).
Giết hoàng thân, đại thần bằng cách moi tim thì chẳng khác gì săn thú.
Hào 4: Nhập vu tả phúc, hoạch minh di chi tâm vu xuất môn đình.
dịch: Mổ vào từ bụng trái, lấy trái tim của ánh sáng bị che khi đi ra khỏi cửa lớn.
Một số học giả tân thời cho là chuyện Vi tử (theo tôi chuyện Vi tử ở hào 1), xưa thì trừu tượng hóa .Javary theo tôi đúng nhất vì nghĩ là kể chuyện Tỷ Can em họ vua Trụ sau khi can gián bất thành bị Trụ nham hiểm bảo muốn xem tim của người hiền có đúng 7 lỗ không nên truyền mổ tim trước cửa điện chầu .
Hào này nên hiểu là thời xấu ám quá không nên cố sửa sẽ thiệt thân .
Hào 5: Cơ tử chi minh di. Lợi trinh.
dịch: Cơ tử (tự) che ánh sáng. Đoán nên .
Trí tuệ bị diệt là Cơ Tử. Điềm thuận lợi.
Cơ tử là em Tỷ Can, là người hiền triết biết Trụ sẽ không tha mình nên giả điên .Nhờ vậy chỉ bị Trụ tống giam ở chuồng heo .Sau nhà Chu giải cứu ông, mời ra tham chính nhưng ông tạ từ chỉ dạy Vũ vương phép trị quốc (thiên Hồng phạm trong kinh Thư) rồi xin di cư sang bán đảo Triều Tiên rồi lập quốc ở đấy.
Hào này bảo phải biết che sáng giữ mình hòng truyền đạt lại được cái tài đức cho đời sau chứ đừng bắt chước hào 4 .
Còn lại có Cơ Tử là trí Tuệ nhất của nhà Ân mà đem giam cầm, giáng làm nô lệ thì Điềm thuận lợi là thuận lợi cho phía Tây Chu.
hào 6: Bất minh hối. Sơ đăng vu thiên, hậu nhập vu địa.
dịch: Tối tăm không chút ánh sáng. Lúc đầu thì lên tận (ngôi) trời, sau thì phải nằm (trong lòng) đất.
Hào này ám chỉ đế Trụ .Sống bạo chết bạo.
Theo sử cũ thì Tỷ Can, Cơ tử có thể là chú (thúc) vua Trụ nhưng vì việc xảy ra khoảng gần 40 năm sau khi Đế Trụ lên ngôi nên có lẽ họ là em hơn (như Khang thúc là em Vũ vương) .
pth77:+ quẻ Tấn là sự lo lắng của một người được giao trọng trách, nhưng chưa có được sự tin tưởng của mọi người (trên và dưới), nên phải khẳng định bằng hành động
+ quẻ Minh Di là sự thương tổn/ lo lắng do không còn nhận được sự tin tưởng của người trên, nên phải lánh đi
37/ QUẺ GIA NHÂN
Gia là gia tộc, dòng họ . Gia nhân là người trong họ .Gia tộc là 1 cộng đồng dựa vào huyết thống, một tổ chức để lớn mạnh và giữ được lâu dài vượt trên con người cá nhân nhờ vào điểm chung là tổ tiên các đời.
Lời quẻ: Gia nhân .Lợi nữ trinh.
dịch: Người trong gia tộc. Chính bền như phụ nữ thì lợi.
Nếu trong 1 dòng họ người trưởng họ là người nắm quyền và được chỉ định để giữ sự liên tục giữa các thế hệ qua sự thờ cúng tổ tiên thì thật ra người đàn bà mới là kẻ có khả năng đẻ con sinh cái hầu tiếp nối dòng họ từ đời này sang đời khác .
Hào 1: Nhàn hữu gia .Hối vong.
dịch: Bảo vệ đề phòng,lập thành gia tộc .Hối hận tiêu tan.
Nhàn là cửa lớn có cài thanh gỗ lớn làm then để phòng giữ.Ý nghĩa của nó còn là lập ra nề nếp, lề lối trong dòng họ thành một tổ chức bền vững.
Hào 2: Vô du toại.Tại trung quỹ.Trinh cát.
dịch: Không cần đẩy xa hơn .Ở trong nhà lo việc bếp núc.Đoán tốt.
Hào âm chính vị ứng với vai trò quan trọng của người vợ là lo cho đời sống hàng ngày của cả gia tộc .
Hào 3: Gia nhân hác hác, hối.Lệ cát.Phụ tử hi hi.Chung lận.
dịch: Gia nhân nghiêm ngặt, hối.Nguy (nhưng) mở.Vợ con cười giỡn.Cuối hối tiếc.
Trị gia thà quá nghiêm còn hơn quá khoan.
hào 4: Phú gia, đại cát.
dịch: (Làm) giàu gia tộc.Tốt lớn.
Có đức nên làm gia tộc hưng thịnh.
Hào 5: Vương giả hữu gia.Vật tuất, cát.
dịch: Nhà vua (thay mặt gia tộc) cầu khấn tổ tiên .Chớ lo, mở.
Giả là không thật nhưng ở đây thay cho chữ cách mà cách có nghĩa mời đến, cầu khấn.Vậy giả chính là khi cầu khẩn thì giả như (tưởng tượng) có mặt của ông trời, tổ tiên .Xem thêm quẻ 45 Tụy.
Hào 6: Hữu phu, uy như.Chung cát.
dịch: Có lòng tin, uy nghiêm .Cuối cùng mở.
Ở đây không chỉ là thiên tử làm lễ mà là cả gia tộc cùng cộng hưởng trong không khí thiêng liêng của buổi lễ.Đấy chính là sức mạnh làm đoàn kết mỗi nhân tố của cộng đồng.
38/QUẺ KHUÊ
Khuê là trái ngược, tách rẽ. Quẻ này nói về sự đối lập, bất đồng và làm sao giải quyết những tình huống này. (Khuê cũng có nghĩa là trừng mắt lên mà nhìn, giương mắt lên mà nhìn,… nên trông thấy) Không khí của toàn quẻ đầy dẫy những cái nhìn xấu về tha nhân ;: kẻ ác, người bị trỗ mặt cắt mũi, con heo đội bùn, lũ quỷ, giặc cướp.Thời cô lập, xa lạ, lúc trái ý, đối kháng dễ gây ra những cái nhìn sai lạc.
Lời quẻ: Khuê.Tiểu sự, cát (Hối vong) .
dịch: Chia lìa .Việc nhỏ / (Giải quyết) sự việc một cách mềm dẻo, Mở.(Hối hận tiêu tan)
Thời Khuê chỉ nên từ từ xích các quan điểm lại gần hòng biến đổi các thái độ kình chống vô bổ sang hợp tác giao dịch, tương quan hữu ích.
Hào 1: (Hối vong) .Táng mã, vật trục tự phục.Kiến ác nhân, vô cữu.
dịch: (Hối hận tiêu tan) .Mất ngựa chớ đuổi, tự (nó) quay về.Thấy kẻ xấu / Gặp kẻ ác, không lỗi.
Hào sơ lại không ứng hợp với ai nên đang cô lập .Đừng đổ xấu cho người, bỏ cái ác cảm ban đầu.
Vế đầu: hối vong, tôi nghĩ nên mang lên lời quẻ.
Hào 2: Ngộ chủ vu hạng .Vô cữu.
dịch: Gặp người chủ trong ngõ hẹp.Không lỗi.
Trong thời bất đồng gặp kẻ kia một cách ngẫu nhiên hay bí mật có thể giúp giải quyết được tranh chấp.
Hào 3: Kiến dư duệ, kỳ ngưu xiết. Kỳ nhân thiên thả tỵ. Vô sơ hữu chung.
dịch: Thấy cái xe bị trì kéo, con bò bị lôi ngược lại. Một bọn bị trỗ mặt cạo đầu xèo mũi. Không đầu có hậu.
Thấy xe bị kéo, hay là con bò nó lôi đi. Hay là kẻ vừa bị thích chữ trên mặt vừa bị xẻo mũi. Chẳng bắt đầu mà lại có kết thúc.
Hào này ở vị thế nội xuất nên bao nhiêu khó khăn của quẻ Chia lìa như dồn đổ về hết. Ấy vậy mà sự xấu xa ấy dần dần vẫn có thể làm tan biến đi được (ứng với hào 6, riêng hào được phê cát).
Hào 4: Khuê cô. Ngộ nguyên phu. Giao phu, lệ, vô cữu.
dịch: Đang bị cô đơn chia lìa thì gặp được một người đàn ông tốt.có lòng tin nên kết bạn, nguy (nhưng) không lỗi.
Chia lìa cô đơn. Gặp người đầu tiên. Trao sự thành tín, nguy, (nhưng) không lỗi.
Hào này không có ứng với hào sơ nên tượng chia rẽ cô độc may mà lại gặp được người đồng hành với mình (hào 5 hợp) lại giỏi giang.Nên tuy vẫn còn trong nguy hiểm (hợp với hào 3 nữa) nhưng có đủ sức để vượt khó.
Trong hoàn cảnh bị chia lìa cô đơn nơi hẻo lánh (chữ “cô” cũng mang nghĩa là hẻo lánh) thì dễ mừng cuống cả lên khi gặp người khác, nhưng mà trao sự thành tín cho người khác lần đầu tiên gặp là nguy, tuy nhiên cũng may là không có lỗi gì.
Hào 5: Hối vong. Quyết tông phệ phu. Vãng, vô cữu.
dịch: Hối hận hết. Quyết (lên) từ đường (cùng) ăn uống. Như thế mà tiến thì lỗi gì ?
Hào này ứng với hào 2 nên sau khi gặp gỡ đã đả thông được bất đồng .Cùng nhau làm việc (vãng) sau khi đã lên nhà tổ chứng tỏ ý thành (phệ phu là cắn thịt như ở hào 2 quẻ Phệ hạp 21).
Hào 6: Khuê cô. Kiến thỉ phụ đồ, tải quỷ nhất xa.Tiên trương chi hồ, hậu thoát chi hồ.Phỉ khấu hôn cấu .Vãng, ngộ vũ tắc cát.
dịch: Chia lìa cô đơn.Như thấy con heo đội bùn, một xe chở đầy quỷ .Lúc đầu giương cung định bắn, sau lại bỏ cung xuống.Không phải giặc mà là người cầu hôn.Đi đường gặp được mưa nên mở.
Đang cảm thấy chia rẽ hào này nhìn đâu cũng thấy xấu. Thế nhưng dần rồi cũng quen, nghi ngại giảm đến có thể dâu gia với nhaunua-‘ (xem quẻ 3 Truân / phỉ khấu hôn cấu).Hào cuối rồi nên sự chia lìa có thể hàn gắn lại (ứng với hào 3 cũng nhìn mình như một thứ chẳng ra gì) .Gặp mưa trong Chu Dịch là lúc giải nồm/ căng thẳng nên tốt (xem hào 6 quẻ 9 tiểu Súc).
39/ QUẺ KIỂN:
Kiển vốn có nghĩa là què, thọt nghĩa bóng là khó khăn, trở ngại, vướng mắc bất tiện, không lanh lợi, chậm chạp. Một cặp quẻ thường là đảo ngược nhau như hào 1 của A thành hào 6 của B và ngược lại v.v…nhưng có khi là biến âm thành dương và ngược lại (như giữa cặp Càn / Khôn).Kiển 39 đảo ngược thành Giải 40, nhưng nếu biến từng hào thì lại thành quẻ Khuê 38 .Mà khuê còn có nghĩa là mắt lác .Trong Chu Dịch chúng ta thường thấy thọt và chột đi chung với nhau (quẻ lý, quẻ Qui Muội) mà họ dù tàn tật vẫn đi được, nhìn được .Vậy ngăn trở cũng thường là vướng mắc tâm lý.
Lời quẻ: Kiển. Lợi Tây Nam, bất lợi Đông Bắc. Lợi kiến đại nhân, cát.
dịch: Trở ngại. Lợi phía Tây Nam, không lợi bên Đông Bắc. Nên gặp người tài đức, mở.
Trong các lời hào dưới đây ta sẽ thấy sử dụng hình ảnh lai, vãng (trở lại, tiến lên) để khuyên thái độ nên có .
Quẻ này dùng nhiều hình ảnh “lai, vãng” nhất nên QNB chú rõ thêm một chút về 2 chữ này. Lai với Vãng có nghĩa đối ngược nhau. Từ chỗ khác đi tới chỗ người nói (lấy làm mốc) được gọi là Lai. Còn ngược lại từ chỗ người nói mà rời đi tới chỗ khác thì gọi là Vãng.
Tây Nam là Chu, Đông Bắc là Ân vậy cũng là lai, vãng. Ám chỉ không nên tìm cách giải quyết ngay trở ngại mà nen lùi lại để xem xét những sai lầm, thiếu sót hay cách trở tâm lý mà mình mắc phải. Và cách thứ hai là đi vấn kế người tài đức để có cái nhìn cao (bao quát) hơn hòng giải tỏa khó khăn.
Quẻ này có lẽ là nói đến sự việc ngoại giao của nhà Chu (lúc ấy vẫn đang còn là chư hầu, là vương thần của nhà Ân) khi tới chầu, tới tiếp kiến phía nhà Ân. Xem lời các hào đều như cảnh tượng phía Ân vừa đe dọa (gây khó khăn) vừa dụ dỗ (được vui, được liên minh liên kết) đối với phía Chu. Trong khi đó, thì phía Chu cảm thấy lúng túng khó xử (hào 2) chưa biết ứng đáp thế nào thì có bạn có bè đảng tới đỡ lời (hào 5).
Hào 1: Vãng kiển lai dự.
dịch: Đi lên vất vả, lui lại được khen.
Rời đi thì khó khăn, đến đây thì yên vui, được khen.
Hào 2: Vương thần kiển kiển. Phỉ cung chi cố.
dịch: Bậc bầy tôi khó khăn trong khó khăn. Không phải lỗi ở mình .
Vương thần cứ lúng túng khó xoay sở. Không phải là nguyên cớ do khom mình.
Hào này ứng với hào 5 nên phải mang thân ra gánh vác giúp vua trong buổi khó khăn.Cớ sự (cố) trở ngại không phải ở mình (cung).
Hào 3: Vãng kiển lai phản.
dịch: Đi lên vất vả lui lại chuyển hướng.
Rời đi thì khó khăn, đến đây thì suy xét.
Suy xét tức là có thể sẽ có sự chuyển biến, chứ chưa chắc đã được yên vui, được khen thưởng như ở hào 1.
Hào 4: Vãng kiển lai liên .
dịch: Đi lên vất vả lui lại liên kết.
Rời đi thì khó khăn, đến đây thì liên kết.
Hào 5: Đại kiển bằng lai.
dịch: Khó khăn lớn, bạn bè đến (giúp).
Rất khó khăn, bạn bè đến.
Hào này là bậc vương giả khi khó khăn có bạn bè quần tụ nên có thể vượt qua được trở ngại mà không cần lui..Ứng với hào 2, hợp với các hào 4, 6.
Hào 6: Vãng kiển lai thạc. Cát. Lợi kiến đại nhân.
dịch: Đi lên vất vả lui lại được lớn. Mở. Nên gặp người tài đức.
Rời đi thì khó khăn, đến đây thì tốt đẹp, vững bền. Mở. Nên gặp người tài đức.
Hào này biết sử dụng cả 2 chiến lược đề ra trong lời quẻ nên riêng được phê cát .
40/ QUẺ GIẢI
Giải là cởi bỏ, thoát, tan .Quẻ này là quẻ cặp với quẻ Kiển nên ở lời quẻ lặp lại hướng Tây Nam của đất Chu .Hai hào dương làm chủ động cho quẻ.
Lời quẻ: Giải.Lợi Tây Nam.Vô sở vãng, kỳ lai phục, cát.Hữu sở vãng, túc cát.
dịch: Cởi bỏ.Lợi Tây Nam .Không có chỗ đi, lúc trở lại mở.Có chỗ đi (thì nên) làm nhanh, mở.
Để giải tỏa những khó khăn nên bình tâm nhìn lại sự việc, quay về đất nhà thì dễ bình tâm.Cái gì không thể làm được, không do mình định đoạt thì nên bỏ qua .Cái gì có thể làm được thì nên chộp lấy cơ hội ngay.
Hào 1: Vô cữu.
dịch: Không lỗi.
Hãy đi tìm điều kiện để giải thoát, cởi mở.Đừng nghi ngờ, ngần ngại.
Hào 2: Điền hoạch tam hồ.Đắc hoàng thỉ.Trinh cát.
dịch: Đi săn bắt được ba con cáo .Được mũi tên vàng.Điềm tốt.
Hào này ở vị trung nội lại dương cương nên phải sắn tay mà làm, giải quyết những khó khăn hàng ngày, cụ thể.Cho nên được thưởng mũi tên vàng (như hào 4 cần mẫn ỏ quẻ 21 Phệ Hạp) .Có thể con cáo tượng cho sự cẩn thận, ám chỉ những điều kiện còn nằm trong bóng tối phải hội đủ để giải tỏa.
Hào 3: Phụ thả thừa, trí khấu chí.Trinh lận.
dịch: Mang vác (tài vật) mà cưỡi xe chỉ như vời giặc tới.Điềm lận đận.
Đã gặp khó còn đeo theo những tham lam lẽ ra phải bỏ đi (vô đức mà ngồi địa vị cao) nên tai họa khó tránh.
Hào 4: Giải,nhi mẫu.Bằng chí.Tư phu.
dịch: Giải tán thì tiến được .Bạn đến.Tin tưởng đó.
Hào dương nên quyết đoán: biết cởi bỏ nên không mắc kẹt .Bạn bè sum vầy nên tương lai có cơ mở lại.
Hào 5: Quân tử duy hữu giải, cát.Hữu phu vu tiểu nhân.
dịch: Quân tử chỉ còn cởi bỏ, tốt.Có lòng tin hướng về tiểu nhân .
Hào này vị cao nhưng âm nhu, nhờ ứng hợp với 2 hào dương đã làm tan cái khó, còn chờ hào 5 cởi bỏ nghi ngờ là xong.Nhưng coi chừng vì hào này thiếu cương quyết dễ nghe theo tiểu nhân .Cho nên chỉ là người trí dũng thì mới thoát được.
Hào 6: Công dụng xạ chuẩn vu cao dung chi thượng.Hoạch chi.Vô bất lợi.
dịch: (Chu) công dùng tên bắn con chim ưng từ tường cao của tòa thành.Bắt được nó.Chẳng gì không lợi.
Chu công là người nhìn xa đức lớn đứng trên thành cao nên bao quát được vấn đề. Thu hoạch là giải tỏa được khó khăn.
Cuối quẻ, hào này duy nhất có vị chính nên đủ tài đức để làm tan chướng ngại.
41/ QUẺ TỔN
Tổn là giảm, mất. Ở Chu Dịch là bớt, là thiệt nhưng mà là để cân bằng hòng làm cho tình thế tốt đẹp hơn (chữ Ích, tên quẻ cặp, xuất hiện đến 3 lần trong quẻ Tổn).
Lời quẻ: Tổn . Hữu phu, nguyên cát. Vô cữu, khả trinh, lợi hữu du vãng. Hạt chi dụng ? Nhị quỹ khả dụng hưởng.
dịch: Giảm. Có lòng tin, từ đầu đã tốt. Không lỗi. Điềm có nhiều khả năng, nên tiến. Cúng tế thần linh ra sao? Chỉ cần hai bát quỹ là đủ.
Giảm không chỉ là làm bớt đi mà là đầu mối của sự thay đổi tổ chức, thời thế.Lời quẻ cho thấy giảm, do dù do mình hay do thời thế, hứa hẹn những khả năng mới sẽ xuất hiện.Javary cho rằng cặp Tổn / Ích là thời điểm âm (âm thầm, tiềm năng) của cặp Cách / Đỉnh 49/50, là đầu mối của thời đại được lãnh Mệnh Trời sau này.
Hào 1: Dĩ sự, thuyên vãng. Vô cữu. Chước tổn chi.
dịch: Việc xong đi mau. Không lỗi. Suy nghĩ cân nhắc về sự tổn giảm.
QNB:Xong việc, ra đi nhanh chóng. Không lỗi. Cái sự đắn đo vơi đi.
Dĩ hiểu là xong theo Trình Di và đa số hiện đại. Hào này giúp người không cầu báo nhưng cũng cân nhắc chứ không để thiệt thòi quá sực có thể gây mất quân bình.
Dĩ sự, cũng có nghĩa là Thôi/ngừng/từ bỏ chức vụ, từ bỏ công việc nào đó đang làm.
Hào 2: Lợi trinh. Chinh hung. Phất tổn ích chi.
dịch: Nên chính bền. Đánh dẹp, đóng. Chẳng phải bớt mà là thêm đó.
Nên chính bền. Đánh dẹp đóng. Chẳng bị tổn thất thêm nữa.
Hào này biết thời, phải bền bĩ, đúng đắn, không vội vàng.Thì sau này (hào 6 có cùng câu phất tổn ích chi) mới được hưởng cái lợi ích.
Thời này tuy điềm có lợi nhưng mà cũng không nên động đao bình thì chẳng bị tổn thất thêm nhân lực vật lực gì nữa.
Hào 3: Tam nhân hành, tắc tổn nhất nhân. Nhất nhân hành tắc đắc kỳ hữu.
dịch: Ba người đi thì mất một. Một mình đi thì sẽ có bạn.
Câu này giảng về chu kỳ thêm, bớt tự nhiên mấu chốt của cặp quẻ Tổn / Ích.
Cũng mang nghĩa cảm thán về cái việc “lắm thầy thì thối ma”, kẻ bàn ra người tính vào, thế nào rồi cũng có lúc 3 ông bất đồng quan điểm nên sẽ có 1 ông bỏ đi. Bớt đi 1 ông thì bớt đi 1 quan điểm nên đỡ phải đắn đo do dự (điều này cũng thể hiện ngay từ hào 1).
Còn trường hợp đi một mình thì thế nào cũng có nhu cầu thêm bạn, thêm người nữa để tham khảo ý kiến.
Hào 4: Tổn kỳ tật. Sử thuyên. Hữu hỷ. Vô cữu.
dịch: Mau làm giảm thói hư tật xấu. Có mừng, không lỗi.
Hào này QNB cho rằng nên ngắt câu là: Tổn kỳ tật. Sử thuyên hữu hỉ. Vô cữu. = Giảm thói hư tật xấu. Nhanh chóng có sự vui mừng. không lỗi.
Hào 5: Hoặc ích chi. Thập bằng chi quy: phất khắc vi. Nguyên cát.
dịch: Cái lợi không chắc gì. Mười cặp (câu hỏi) qua bói rùa cũng chẳng làm thay đổi ý định. Từ đầu đã tốt.
Nghi hoặc. Thêm nữa. Có mười ông rùa thì cũng chẳng hứa hẹn gì cả. Vốn đã mở ngay từ đầu.
Hào này Javary hiểu khác mọi người (tôi dịch theo Javary) .Ông ta cho rằng dù hành động của mình chưa cho thấy lợi ích gì nhưng đã biết là làm đúng thì không để bất cứ chuyện gì thay đổi ý mình ngay cả bói 10 lần đều ra kết quả xấu đi nữa.
“Có muời ông rùa” tức là dẫu có bói thêm mười lần nữa (cũng vẫn thế). Nghĩa là thời này bói quẻ mai rùa, đã được tốt ngay từ lúc đầu mà vẫn còn nghi hoặc, muốn bói thêm xem thế nào.
Hào 6: Phất tổn ích chi. Vô cữu. Trinh cát. Lợi hữu du vãng. Đắc thần vô gia.
dịch: Chẳng phải thiệt mà là ích dó. Không lỗi. Đoán mở. Nên có chỗ đi. Được bầy tôi không có gia tộc.
Chẳng mất thêm gì cả. Không lỗi. Đoán mở. Nên có chỗ đi. Được (thêm) bầy tôi không có gia tộc.
Cuối thời rồi bây giờ cái lợi đã rõ, đoán là đại cục sẽ mở.Nên có dự toán, lòng tin. Hào này chắc có 1 điển tích mà chúng ta không biết đến.
42/ QUẺ ÍCH
Ích là thêm, tăng, lợi. Đây là thời điểm có việc cụ thể phải làm và thời điểm cần tổ chức lại, rà soát lại công việc khi có tăng tiến. Ở đây Ích khác với Tổn ở chỗ hào trung, dương nằm ở bên ngoài / hào 5 chứ không nằm bên trong / hào 2.
Lời quẻ: Ích. Lợi hữu du vãng. Lợi thiệp đại xuyên.
dịch: Ích. Nên có chỗ đi. Nên qua sông lớn.
Xem lợi hữu du vãng và lợi thiệp đại xuyên ở phần dẫn nhập / thuật ngữ. Thời có việc thì cũng có nhiều lôi thôi / cơ hội vậy cho nên phải có kế hoạch và phải thay đổi để thích ứng.
Hào 1: Lợi dụng vi đại tác. Nguyên cát. Vô cữu.
dịch: (Được) dùng để làm việc lớn là có lợi. Tốt lớn từ đầu. Không lỗi.
Lợi dụng/Thừa cơ làm việc lớn.
Javary dịch là” được dùng” chứ không” dùng để” vì đây là hào sơ đâu làm chủ chốt được. Vả lại ứng với hào 4, ở đó có người đến gọi hào 1 ra giúp vua.
QNB cho rằng để nguyên chữ “Lợi dụng” hoặc dịch như cụ Nhân Tử là “Thừa cơ” đều cũng rõ nghĩa.
Mà đã là khởi sự làm việc lớn thì hào sơ cũng nên bắt tay vào làm ngay, thừa cơ mà tiến hành luôn, không chần chừ gì cả (xem tiếp hào 2, 3, 4).
Hào 2: Hoặc ích chi. Thập bằng chi quy, phất khắc vi. Vĩnh cát trinh. Vương dụng hưởng vu đế, cát.
dịch: Cái lợi không chắc. Mười cặp (câu hỏi) qua bói rùa cũng không thay đổi được ý định. Đoán muôn đời tốt đẹp. Vua dùng lễ cống chầu hoàng đế, mở.
Nghi hoặc. Thêm nữa. Có mười ông rùa cũng chẳng khác gì cả. Điềm mở vĩnh viễn. Vương thi hành, hưởng đến Đế. Mở.
Hào này phần đầu là lặp lại hào 5 quẻ Tổn 41 (xem thêm). Ở đây ý nói thấy việc lợi lâu dài mai sau thì cứ làm chứ không phải chờ đợi được lợi ích ngay.
Cũng như hào 5 quẻ Tổn, lúc đầu bói được điềm tốt mà vẫn còn nghi hoặc, muốn bói thêm xem thế nào.
Sau được khẳng định chắc ăn “Điềm mở vĩnh viễn” (thì có bói lại 10 lần cũng thế thôi). Làm ở mức Vương nhưng sẽ được hưởng đến mức Đế, tức là có lợi to, cao hơn 1 bực.
Hào 3: Ích chi, dụng hung sự. Vô cữu. Hữu phu. Trung hành, cáo công dụng khuê.
dịch: (Nhờ) hung sự mà được thêm. Không lỗi. Có lòng tin tưởng. Hành động đúng / Giữa đường, bào cho đức công bằng ngọc khuê.
Thêm nữa, (lợi) dụng cái sự hung. Không lỗi. Có lòng thành tín. Trong khi thi thành, báo cho đức Công bằng ngọc khuê.
Hung sự là việc chết chóc nên Javary đoán là ám chỉ Khang thúc (xem quẻ 35 Tấn). Xưa khi có lệnh quan trọng để được tin người ta dùng mảnh nha chương bằng ngọc gọi là Khuê, như hổ phù sau này.
Đây có lẽ là phía Tây Chu lợi dụng cái lúc phía Ân đang gặp hung sự mà khởi sự việc lớn.
Hào 4: Trung hành cáo công tòng. Lợi dụng vi y thiên quốc.
dịch: Giữa đường gọi đức Công theo lệnh. Nên giúp (hoàng đế) việc rời đô.
Trong lúc thi hành, báo cho đức Công dấu vết. Lợi dụng “cái bình phong” rời đô.
Hào này kể việc Cổ công Đản Phụ nhà Chu được vua Ân gọi đến giúp rời đô, sau đó được nhà Ân tấn phong (chính thức) ở Kỳ sơn (Cao Hanh dẫn theo Trúc thư kỷ niên).
Chữ Tòng 從 còn thông với chữ Tung 蹤 (tung tích, dấu vết). Chữ Y 依 này đọc là Ỷ (là cái bình phong, nương tựa,…).
Đây có thể là phía Chu định lợi dụng cái việc rời đô của nhà Ân mà nhân cơ hội đó khởi đại sự.
Hào 5: Hữu phu, huệ tâm. Vật vấn: nguyên cát. Hữu phu, huệ ngã đức.
dịch: Có lòng tin, tâm huệ muốn giúp người. Không cần hỏi cũng biết là tốt lớn. Được tín nhiệm là nhờ ta có lòng tốt
Ân, Chu kết hợp, tin tưởng vào nhau đó là thành quả của sự làm ơn của Chu.
Hào 6: Mạc ích chi. Hoặc kích chi. Lập tâm vật hằng, hung.
dịch: (Lòng tin) Không tăng nữa. Có lẽ còn bị đánh. Lập tâm chẳng bền, đóng.
Đừng có thêm nữa. Nghi hoặc. Lộ mất rồi. Có tâm chí lập nghiệp thì đừng cứng nhắc. Đóng.
Javary chua: tâm khô cứng chẳng thể bền lâu.
Hiểu thế nào đi nữa thì cuối thời Ích, mọi chuyện lại xảy ra theo chu kỳ đi xuống.
Cái ý định khởi đại sự của phía nhà Chu bị tiết lộ, bị phát giác (kích 擊) nên lỡ mất cơ hội, đó là do sự nghi hoặc, không quyết đoán, nên hỏng chuyện.
43/ QUẺ QUẢI
Quải còn đọc là quyết, nghĩa là nứt vỡ, quyết liệt.Các nhà Nho xưa giảng là 5 hào dương quân tử họp lại để diệt hào âm tiểu nhân trên cùng; quải là quả quyết, đến lúc cùng thì không nhân nhượng.Javary có cái nhìn hơi khác: 5 hào dương chỉ sức mạnh lên cao tột chỉ muốn trồi ra vượt khỏi hào âm trên cùng ngăn chặn như cái nhọt vỡ tung hay nước lũ tràn bờ.
Ở quẻ này các hào ở vị dương (lẻ) thì giương uy, ở vị âm (chẵn) thì cẩn thận.
Lời quẻ: Quải. Dương vu vương đình. Phu hào / hiệu. Hữu lệ. Cáo tự ấp. Bất lợi tức nhung. Lợi hữu du vãng.
dịch: Cương quyết. Công khai (vấn đề) giữa triều vua. (Lấy) lòng tin mà kêu / hiệu triệu. Nguy đấy. Báo cho ấp mình biết. Chẳng lợi dùng binh. Nên có chỗ đi.
Thời quẻ Quải không thể chờ nữa, không thể hòa giải được phải kêu gào lên, phải giương quyết định/ ý kiến của mình (hào là kêu, hiệu là gọi tùy theo vai trò).Trước triều đình mà nói lớn thì dĩ nhiên có nguy hiểm.Nên báo cho phe mình biết để họ ủng hộ.Tránh dùng hung hăng để mong áp đảo người. Đoán trước được hậu quả của lời nói của mình, biết cứng cõi mà không mạo phạm hay mạo hiểm.
Hào 1: Tráng vu tiền chỉ Vãng bất thắng vi cữu.
dịch: Nóng lòng bước lên. Tiến ra mà không thắng được là làm sai đó.
Hào này tính nóng (Tráng như hào 34 đại tráng) nên thiếu suy nghĩ, dễ mắc lỗi. Không dùng chữ quải vì chưa suy nghĩ chín chắn.
Hào 2: Dịch hào .Mộ dạ hữu nhung. Vật tuất.
dịch: Lo sợ nên hô hào. Chiều tối có đánh nhau. Chớ quá lo.
Hào 2 biết trước nguy cơ nên đã báo trước để phòng ngự.
Hào 3: Tráng vu quì, hữu hung. Quân tử quải quải. Độc hành. Ngộ vũ nhược nhu. Hữu uẩn, vô cữu.
dịch: Nóng mặt, xấu chắc. Quân tử thì quyết quyết. Một mình đi . Gặp mưa thấm ướt (mát mẻ).Có giận ghét nhưng không lỗi.
Hào này vì nóng giận mà gặp họa.Nếu là kẻ trí dũng thì quyết tâm làm theo cái mình nghĩ là đúng, dù một mình, tranh cãi với người khác vô bổ.Như vậy sẽ giảm bớt được bực bội (gặp mưa trong Chu Dịch là điều tốt vì giải tỏa được cơn nồng), dù thái độ độc lập đó có gây khó chịu.
Hào 4: Đồn vô phu. Kỳ hành từ thư. Khiên dương, hối vong. Văn ngôn bất tín.
dịch: Đít không da. Việc làm bị chậm. Giữ con dê, hối hận tiêu tan. Nghe lời đó nhưng không tin.
Hào này có nói ra nhưng bị bỏ ngoài tai nên việc làm bị chậm .Chớ nóng lòng mà nên biết kiên nhẫn (con dê húc càn của quẻ Đại Tráng ở đây được giữ chặt), thư thả chờ dịp khác.Đít không da là hình ảnh bị thương không được ủng hộ, đi đứng khó khăn.
Hào 5: Nghiến lục.Quải quải.Trung hành, vô cữu.
dịch: Cỏ răng ngựa. Cả quyết. Làm đúng, không lỗi.
Hào 5 dung hòa được sự cương quyết và sự nóng lòng (nghiến lục là 1 loại cỏ vừa mềm vừa dai)nên làm đúng (hành động đúng lúc, dùng đúng lời).
Hào 6: Vô hào .Chung hữu hung.
dịch: Không kêu lên. Cuối cùng sẽ đóng.
Hào này quá âm nhu, sợ hãi nên không dám nói. Rốt cuộc là xấu nhất.
QNB: Thời quẻ Quải khả năng là lúc Chu Vũ Vương (Cơ Phát) quyết định khởi binh phạt Trụ. Chúng ta nhớ lại quẻ Ích với dấu hiệu “khởi đại sự”, riêng đối với hào 4 quẻ Ích có “lợi dụng cái bình phong rời đô” theo Cao Hanh giảng là rời đô của nhà Ân – nhưng cũng có thể là việc Cơ Phát rời đô từ đất Phong đến đất Cảo để thuận lợi cho việc khởi binh đánh nhà Ân.
Nhưng lần quyết khởi sự này vẫn chưa thành sự thực, chủ yếu do thiếu binh sĩ (đến muộn mới có binh – hào 2), cũng có khả năng là lời khuyên can của Bá Di, Thúc Tề phần nào làm Cơ Phát nhận ra rằng thời cơ chưa chín muồi (mặc dù lúc 2 người đó nói Cơ Phát không tin – “văn ngôn bất tín” – hào 4, suýt nữa cho người chém 2 ông này, may nhờ Khương Tử Nha can ngăn lại).
44/ QUẺ CẤU
Cấu là gặp gỡ, theo sách Ngô Tất Tố thì các tiên nho cho biết trong các bản cổ dùng chữ cấu khác có nghĩa dâu gia (nam nữ giao hợp).Quẻ này đa số nho gia hậu thế hiểu rất thiên kiến là âm nữ, tiểu nhân xấu xa làm lũng đoạn thời thế.Nhưng nhìn tượng hình thì chính là sau dương cực (kiền) âm bắt đầu xuất hiện đúng lẽ thiên nhiên, nên cấu mượn hình tượng nam gặp nữ để điều chỉnh dương cương.
Lời quẻ: Cấu, nữ tráng.Vật dụng.Thú nữ.
dịch: Cấu hợp, âm mạnh lên.Chớ làm nữa.Lấy vợ.
Lời này hay bị ngắt sai ” vật dụng thú nữ ” thành 1 câu liền: chớ lấy gái ấy. ” Nữ tráng ” thì được hiểu sái thành nữ ham tính dục. Trong khi lời quẻ thật ra cho thấy thanh niên đã lớn, đã có sự nghiệp thì nên lấy vợ, lập gia đình theo đúng lẽ tự nhiên mà phát triển.đừng vì ham hố công danh sự nghiệp bên ngoài mà quên đạo làm người.Lấy vợ theo Chu Dịch là nên học nhu nhã, mềm mỏng, cảm thông hơn. Tôi theo cách hiểu của Dịch truyện (xem Nguyễn Hiến Lê dẫn), không theo cách hiểu hậu thế.
Hào 1: Hệ vu kim nị, trinh cát.Hữu du vãng.Kiến hung.Luy thỉ phu trịch trục.
dịch: Giữ lại bằng cái dây hãm xe bằng đồng, đoán tốt.Có chỗ đi. Thấy (nên) đóng. Con lợn (còn) gầy nhưng hãy tin rằng nó sẽ lớn dần .
Tôi dịch lời này theo nghĩa đây là hào âm duy nhất vừa nảy nở, theo cái nhìn của nó thì nên chậm, dần dà mới bớt dương cương. Nhưng đứng về phía dương cương bối rối thì vế sau có thể giảng là: ” … Thấy (bị) đóng. con lợn gầy (nhưng) lòng tin đã giao động “.
Hào 2: Bao hữu ngư.Vô cữu. Bất lợi tân.
dịch: Trong bọc có cá.Không lỗi. Chẳng nên làm khách.
Hào này cận hợp hào sơ nên dễ dàng chấp nhận ở nhà không đi ra ngoài.
Hào 3: Đồn vô phu. Kỳ hành từ thư.Lệ.Vô đại cữu.
dịch: Đít không da. Việc làm chậm lại.Nguy. Không lỗi lớn.
Lời hào này tựa như lời hào 4 quẻ cặp Quải.Ý nói khó khăn làm mình chậm lại .Nhưng vẫn còn vọng động nên phê nguy.Không lỗi lớn vì cái thế bắt ta phải chậm lại.
Hào 4: Bao vô ngư. Khởi hung.
dịch: Bọc không có cá. Dấy lên, đóng.
Hào này ứng với hào sơ âm nên càng bị kềm hãm dữ.Nhìn theo âm thì nên vậy, ở đây nhìn theo dương thì cho là xấu.
Hào 5: Dĩ kỷ bao qua.Hàm chương.Hữu vận tự thiên.
dịch: Cây liễu rũ che (ruộng) dưa.Ngậm sáng. Có (vật) rơi từ trên trời xuống.
Sự kết hợp tốt giữa âm dương, nam nữ được biểu trưng bởi cây liễu và ruộng dưa.Ánh sáng (dương) ở đây đã được che (âm) .Việc / vật đến từ trời là hệ quả tự nhiên.
Nhìn từ dương thì âm đã bao trùm hết cả.
Hào 6: Cấu kỳ giác.Lận.Vô cữu.
dịch: Gặp mà sừng sộ.Hối tiếc lận đận. Không lỗi.
Hào này ở cuối thời Cấu mà vẫn không hiểu lẽ kết hợp
Nam nữ gặp gỡ mà sửng cồ thì đáng tiếc vậy.
45/ QUẺ TỤY
Tụy là đám đông tụ họp chung quanh đấng thiên vương (thủ lĩnh đóng cà hai vai trò vua / nhân quyền và thiên tử / thần quyền), là người có bổn phận và nhiệm vụ kết tụ mọi người lại thành một nhóm người, một bộ lạc, làng xã, đất nước .Để mọi người hiểu rằng sự quần tụ là cái gì vượt qua cái cá nhân, cũng như nếu không có chất keo nào gắn liền tất cả với nhau thì nhóm sẽ tan rã.Nếu mỗi cá nhân không muốn gắn liền mình với cộng đồng thì sức mạnh của nhóm thành ô hợp, mạnh ai nấy tư lợi nên sẽ không đối phó nổi với những cộng thể khác mạnh và đoàn kết hơn.
Lời quẻ! Tụy, hưởng.Vương giả/ cách hữu miếu.Lợi kiến đại nhân .Hanh, lợi trinh.Dụng đại sinh, cát.Lợi hữu du vãng.
dịch: Hợp tụ tế lễ.Nhà vua cúng ở tông miếu, (tổ tiên) về chứng giám .Nên gặp bậc tài đức.Hanh thông, điềm lợi.Dùng thú lớn mà tế, mở.Nên có chỗ đi.
Để liên kết mọi người trong bộ tộc nhà vua cúng tế tổ tiên .Phải cảm được sự linh thiêng như giả họ có về chứng giám (vương cách là vua đến, giả là làm giả như, nhưng giả không có nghĩa gian dối, giả tạo).Gặp bậc tài đức, giết trâu bò cho thêm phần to lớn, trang nghiêm.Nên có chỗ đi là cần phải thành tâm và sửa soạn chu đáo.
Hào 1: Hữu phu bất chung.Nãi loạn, nãi tụy. Nhược hào nhất ác vi tiếu.Vật tuất .Vãng, vô cữu.
dịch: Có tin nhưng không được chót .Loạn ư, Hợp ư ?Kêu gọi thì lại có một đám cả cười.Chớ lo.(Cứ) tiến, không lỗi.
QNB: Có lòng tin nhưng không trọn vẹn. Chỉ có làm loạn mới tụ tập. Nếu (đã) hô hào, vậy cầm chắc là bị cười chê. Đừng bận tâm. (cứ) tiến, không lỗi.
Thời này sự quần tụ còn yếu ớt vì có nhiều nhóm chia rẽ.Nhưng hãy vững tâm tiến hành.
hào 2: Dẫn, cát, vô cữu.Phu, nãi lợi dụng thược.
dịch: Dẫn (bèn theo), mở, không lỗi.Tin nhau, chỉ cần chút lễ sơ sài.
Lãnh đạo (cầm đầu), mở, không lỗi. Thành tín, (thì) chỉ cần dùng lễ mọn cũng được.
Hào này ứng với hào 5 nên tin theo dễ dàng.
Hào 3: Tụy như, ta như. Vô du lợi.Vãng, vô cữu.Tiểu lận.
dịch: Như tụ họp mà lại có khóc than.Chẳng lợi đâu.Tiến lên, không lỗi.Có chút lận đận / hối tiếc.
Tụ tập lại… (mà) than vãn… (thì) chẳng có lợi. Tiến lên, không lỗi. Có chút hối tiếc.
Sự quần tụ ở đây có vẻ có ép buộc nên bị phê lận nhưng cũng có khi phải thế vì thời bắt vậy nên chỉ là tiểu lận.Cũng có thể có nghĩa nên bỏ đi vì không thấy thích hợp.
Hào 4: Đại, cát .Vô cữu.
dịch: (Tụ họp) to rộng, mở.Không lỗi.
Một trong 2 hào dương chủ quẻ.Ở đây nói về sự hợp quần đã thành lớn rộng (khác với lúc ban sơ ở hào 1).
Hào 5: Tụy hữu vị.Vô cữu.Phỉ phu, nguyên vĩnh trinh.Hối vong.
dịch: Quần tụ có ngôi (cao) .Không lỗi. Giặc (cũng) tin theo, điềm tốt lớn và lâu dài.Hối lo tiêu tan.
Bàn bạc hoạch định trong cảnh nước mắt lưng tròng. Không lỗi.
Hào vua, chủ quẻ, được tín nhiệm khắp.
Hào này tôi hiểu chữ phỉ là giặc, Javary hay cổ điển đều hiểu là không cho nên bị lúng túng.
Hào 6: Tê tư, thê di.Vô cữu.
dịch: Than vãn, mắt mũi chảy ròng ròng .Không lỗi.
Hào này không chịu / không làm được quần tụ, nay bị cộng đồng bỏ rơi.không lỗi là không đổ lỗi cho ai được.
Theo QNB thì sự than vãn trong cả hào 6 và hào 3 đều là cảnh người phe Tây Chu, lúc tụ tập Chu Vũ Vương (Cơ Phát) đã than vãn và kể về tội ác của vua Trụ.
Cũng có thể là cảnh Chu Văn Vương (Cơ Xương) dùng nước mắt kể về chuyện nhà Thương giết cha mình (Cơ Quý Lịch) để mà lấy lòng (tìm sự cảm thông) của các bộ lạc chư hầu đang tụ họp.
46/ QUẺ THĂNG
Thăng là lên, tiến lên, mọc lên từ dưới lên cao như cỏ, cây. Là một cặp với quẻ Tụy nên phải hiểu Thăng là một kết hợp sức mạnh từ dưới để vươn lên cao mới được vững chắc.Như cây, cỏ phải mọc rễ rồi mới lên thân trỗ ngọnđược.Các hào ở vị dương (1,3,5) thì tăng trưởng, vị âm (2,4,6) thì cần sự kết hợp và lòng tin.
Lời quẻ: Thăng.Nguyên hanh.Dụng kiến đại nhân. Vật tuất.Nam chinh cát.
dịch: (Tiến) Lên. Từ đầu đã hanh thông. Để gặp người tài đức. Chớ lo. Đánh dẹp phương Nam, mở.
Hào 1: Doãn thăng. Đại cát
dịch: Lên bằng đồng thuận.Tốt lớn.
Đồng thuận tiến lên. Tốt lớn.
Sự đồng thuận là căn bản thiết yếu để thành công.
Hào 2: Phu nãi lợi dụng thược. Vô cữu.
dịch:
Thành tín (thì) chỉ cần dùng lễ mọn cũng được. Không lỗi.
Lòng tin đã có nên chỉ cần lễ nhỏ sơ sài cũng được.
“Phu nãi lợi dụng thược” là giống như hào 2 quẻ Tụy.
Hào 3: Thăng hư ấp.
dịch: Lên đến một cái ấp trống rỗng.
Tiến lên đến Khư kinh.
Dù không được gì cũng đừng chán nản (ứng với hào 6) .
Chữ Khư 虛 cũng có nghĩa là cái gò lớn, và cũng thông nghĩa với chữ Khư 墟 trong Ân Khư (殷墟) là kinh đô của nhà Ân.
Chữ Ấp 邑 còn có nghĩa là kinh thành, thủ đô,…
QNB ở đây có cùng ý với học giả Đặng Cầu Bá, tôi nghĩ là rất có thể _ nhưng tôi giữ ý cổ điển song song để mọi người tự so sánh.
Hào 4: Vương dụng hưởng vu Kỳ sơn. Cát, vô cữu.
dịch: Nhà vua cúng tế ở núi Kỳ.Mở, không lỗi.
Vương thi hành thuận lợi thông suốt ở Kỳ Sơn. Mở, không lỗi.
Ở đây tổ chức gia tộc đã lớn mạnh nên cần phải long trọng hơn.Sự gắn bó của mọi người cần được tổ chức hơn.
Hào 5: Trinh cát. Thăng giai.
dịch: Điềm mở. Lên từng bậc.
Sự thăng tiến được thiết lập từng bước. Chậm mà chắc.
Hào 6: Minh thăng. Lợi vu bất tức chi trinh.
dịch: Lên cao trong bóng tối. Điềm nên cố gắng không ngừng nghỉ.
Ngầm tiến lên. Điềm thuận lợi không ngừng.
Như hạt mầm trong lòng đất sự nảy nở phải được liên tục để vươn ra đến ngoài.Hào này tổng kết cả tiến trình.
Hào 6 vẫn là sự tiến lên miệt mài. Hai chữ “bất tức” cũng có nghĩa là “nín thở”, lại đi với cụm từ “ngầm tiến lên” ở trước đó, cho nên ta có thể hình dung như cảnh hành quân trong đêm tối hoặc âm thầm hành quân trong điều kiện nào đó mà người thì ngậm tăm, ngựa bịt miệng để đảm bảo sự bí mật.
Như vậy, sau các lần rục rịch ở quẻ Ích, Quải, Tụy, thì quẻ Thăng này rất có thể chính là thời mà phía Tây Chu đã khởi binh, hành quân tiến về phía Ân Khư rồi
Theo tôi hào 3 không thể là đỉnh cao mà là nơi hay gặp khó khăn, hay có đột xuất nên cho rằng nếu như Chu đến Ân Khư thì chỉ là được vời tới, một bước tiến trong cả tiến trình làm đại quốc.
47/ QUẺ KHỐN
Khốn là khốn cùng, mỏi mệt, bị vây hãm, bị mắc kẹt. Javary bảo chữ Khốn 困 vốn được tạo thành từ chữ Mộc木 có nghĩa là cây cối và bên ngoài là chữ Vi 囗 (giản thể của chữ Vi 圍) có nghĩa là bao vây che chắn xung quanh nên hình tượng là cây cối bị rào sát. Đây là một trong những tình cảnh khó khăn nhất, là quẻ duy nhất đòi hỏi phải là người vừa tài vừa đức mới mong vượt qua nổi.
Tất cả 6 hào đều có chữ Khốn cho thấy không có giai đoạn nào thảnh thơi hay thuận lợi, nhưng tùy hào âm hay dương mà cái khốn khác nhau và đòi hỏi những khả năng khác biệt để trải qua .Ba hào dương đều đóng ở chỗ trọng điểm (2,3,5 tức sĩ, khanh, vương) và lời hào cho thấy đều nhận được đề nghị chức vụ cao quý: áo phất, xe đồng.Nhưng mà ở các địa vị đó ta có làm việc được không, có hợp với lý với tình không ? Cho nên hào dương thì phải giữ tâm vững vàng, trong sáng; còn hào âm đều có tượng chỉ loài thảo mộc chỉ sức sống mãnh liệt, đòi hỏi sức chịu đựng lâu dài.
Lời quẻ: Khốn, hưởng. Trinh đại nhân cát. Vô cữu. Hữu ngôn bất tín.
dịch: Khốn cùng, cầu nguyện. Đoán người tài đức thì mở. Không lỗi. Lời nói không được tin.
Thời Khốn thì chỉ có thể cầu nguyện và dụng tâm đại nhân (phải vừa có tài vừa đủ đức) mới mong cởi mở được trói buộc chỉ vì lời nói của mình chẳng thể được tin .
Hào 1: Đồn khốn vu châu mộc. Nhập vu u cốc. Tam tuế bất dịch.
dịch: Mệt nhọc ngồi bên gốc cây trơ trụi. Vào nơi hang tối. Ba năm chẳng gặp ai.
Thời hoàn toàn cô độc và khó nghèo/ khốn cùng.
Hào 2: Khốn vu tửu thực. Chu phất phương lai. Lợi dụng hưởng tự. Chinh hung. Vô cữu.
dịch: Thiếu thốn đồ ăn uống. Áo phất đỏ sậm đưa tới. (Chỉ) nên cúng tổ tiên. Đánh dẹp đóng. Không lỗi.
Hào này được mời ra làm quan nhưng Chu Dịch khuyên nên từ chối .Áo phất là áo quan dành cho nghi lễ. Không lỗi là giữ đạo một mình, lạc đạo vong bần là không sai.
Ở hai hào dưới ta chỉ có thể trốn lùi, xuất thế.
Hào 3 ; Khốn vu thạch, cứ vu tật lê. Nhập vu kỳ cung, bất kiến kỳ thê. Hung.
dịch: Bị bắt giam trong (ngục) đá, nằm trên cỏ gai. Về đến nhà không thấy vợ đâu. Đóng.
Thân nguy không cứu được khốn vì không có cả sự hậu thuẫn của người thân.
Tật Lê là loài cây Gai chuyên dùng diệt khuẩn,chữa bệnh ghẻ, ngứa, đau mắt, thận hư,… cho nên có thể câu “Khốn vu thạch, cứ vu tật lê” = bị khốn đốn/vây/kẹt trong (hang) đá, hoặc là bị khốn đốn với bệnh chai lì ở bộ phận nào đó mà cần phải nhờ vào tác dụng chữa trị của cỏ Tật Lê (cứ vu tật lê).
Hào 4: Lai từ từ. Khốn vu kim xa, lận. Hữu chung.
dịch: Đến chầm chậm. Mắc kẹt bên chiếc xe đồng, Lận đận. Sau có hậu.
Có người bảo đây là xe tù nhưng tôi theo Javary xe ở đây chỉ chức vụ .Khó khăn lâu dài nhưng xử việc nhẫn nại có thể mở sau này.
Hai hào giữa nói về va chạm thực tế khó khăn.
Hào 5: Tỵ nguyệt (Tỵ ngoạt). Khốn vu xích phất. Nãi từ hữu duyệt. Lợi dụng tế tự.
dịch: Xẻo mũi cắt chân. Khốn vì cái áo phất đỏ tươi. Bèn chờ từ từ có vui. Nên cúng tế tổ tiên.
Xẻo mũi, chặt chân. Khốn khổ với cái dải đeo ấn đỏ. Bèn từ từ mà cởi bỏ. Nên cúng tế.
Vì chức vụ cao mà khốn khổ, phải chịu hay dùng hình phạt nặng.Nhưng dần dà thì chắc chắn (hữu) sẽ có cơ giải khốn. Phải cẩn thận và thành tín như thờ cúng tổ tiên.
Hào 6: Khốn vu cát lũy, vu nghiệt ngột. Viết động hối, hữu hối. Chinh cát.
dịch: Bị vướng ở đám dây leo nơi gập ghềnh. (Tự) nói động thì sợ sẽ hối, chính vì vậy mà sẽ ăn năn. Đánh dẹp tốt.
Dây leo chỉ sự có thể vượt qua khốn thêm lời phê đánh dẹp tốt. Càng ngờ, càng sợ càng sẽ không ra được.
Hai hào trên duy cùng đáng vị nên có khả năng vượt qua trói buộc.Hào dương sửa soạn, hào âm đột phá (đánh dẹp).Cần lưu ý rằng phải cần 1 thời gian sửa soạn thì lúc cuối hành động è” trói được, bằng không ta lại rơi vào vòng khốn luẩn quẩn (thí dụ: giáo dục, môi trường tốt thì mới đẻ ra con người trách nhiệm)
48/ QUẺ TỈNH
Tỉnh là cái giếng, là mạch nước, là làng nước, khu vực sinh sống. Giếng là nguồn nước, tức là nguồn sống cho cả làng mạc. Giếng tượng trưng cho cuộc sống hài hòa, nhuần nhã và cho tổ chức gia tộc. Lời hào bàn sự xây dựng, lời quẻ kể việc mọi người tụ tập và hệ thống kéo nước là hình ảnh của tổ chức.
Tỉnh còn là trọng tâm của phương thức phân chia đất đai cho các cụm làng mạc để sản xuất nông nghiệp ở thời Chu. Khởi đầu từ ông tổ nhà Chu là Công Lưu, khi dựng ấp (kinh đô) ở đất Mân/Bân, đã bói quẻ đào giếng xem mạch nước có lành không (vừa là thăm dò xem đất ấy có nước hay không, có mạch nước dồi dào không khô cạn thì đất mớt tốt mà thuận lợi cho nông nghiệp, vừa để xem đất ấy có phèn chua hay không – ta cần nhớ nhà Chu khởi nghiệp ở đất phía Tây là nơi có rất nhiều quặng kim loại nên nhiều chỗ bị nhiễm phèn, vừa để đánh dấu làm trung tâm cho việc phân chia đất đai,… Cái việc đào giếng thời ấy tuy gắn liền với bói toán nhưng kỳ thực là một phương pháp khảo sát chất lượng đất rất khoa học của người xưa để phục vụ mục đích nông nghiệp và sinh sống). Sau này, nhà Chu theo phép ấy, đặt ra lệ Tỉnh Điền, lấy chữ Tỉnh 井 để chia đất ra làm 9 phần gồm 1 “công” và 8 “tư”
phần công điền ở ô chính giữa (9) có cái Giếng đất xung quanh trồng trọt để nộp phần lợi tức của triều đình, phần đất tư điền (1 -> 8) ở các ô xung quanh chia cho dân làm. Đây chính là phương thức cải cách ruộng đất khiến cho trình độ nông nghiệp của nhà Chu cao hơn hẳn nhà Thương, khiến cho nhà Chu ngày càng cường thịnh hơn so với Ân Thương.
Lời quẻ: Tỉnh. Cải ấp bất cải tỉnh. Vô táng vô đắc. Vãng lai tỉnh. Tỉnh ngật, chí diệc vị duật tỉnh. Luy kỳ bình, hung.
dịch: Giếng. Đổi chỗ ấp được chứ giếng không đổi chỗ được. Không cạn kiệt, không đầy tràn .(Mọi người) lui tới giếng (múc nước). Giếng khô chẳng lấy được nước nữa. (Hay) gàu bị bể.Đóng.
Cách ngắt và lời dịch tôi theo Đặng Cầu Bá, học giả này căn cứ vào Thuyết văn giải tự (của Hứa Thận đời Hán) mà giảng ngật là khô cạn, duật là múc nước.
Nếu giữ nguyên cách ngắt câu như cũ thì chúng ta sẽ có cách hiểu sau:
Tỉnh. Cải ấp bất cải tỉnh. Vô táng vô đắc. Vãng lai tỉnh tỉnh. Ngật chí, diệc vị duật tỉnh. Luy kỳ bình. Hung.
=
Giếng (làng nước). Đổi ấp đến nơi khác chứ giếng thì không đổi chỗ được. Chưa bỏ đi thì chưa đạt được. Dời qua lại từ giếng này đến giếng khác. Chưa tới nơi, cũng chưa có dây gàu múc nước giếng. Gàu bị bể vỡ. Đóng.
Tức là dời đổi làng nước, nơi làm ăn sinh sống cũ đến nơi khác thì được, chứ cái mạch nước nếu mà đã cạn hoặc đã hỏng (xem hào 1, 2) thì không cải tạo được (xem hào 3 – nạo vét), chỉ có thể phải dời đi nơi khác mà thôi. Nếu chưa bỏ cái giếng cũ đi thì tất nhiên sẽ chưa có được cái giếng (mạch nước, nơi cày cấy, sinh sống) mới được.
Hào 1: Tỉnh nê, bất thực. Cựu tỉnh vô cầm.
dịch: Giếng đầy bùn, chẳng uống được. Giếng cũ chẳng một bóng chim.
Hào sơ đưa ra hình ảnh một cái giếng cũ hoang phế chỉ sự tàn lụi, vô tổ chức hay bất hợp tác.
Mạch nước khô cạn rồi, giếng đầy bùn, không ăn uống được, đất ruộng khô thì cũng chẳng cấy cày gì được nữa, chim chóc cũng chẳng ở đấy nữa.
Hào 2: Tỉnh cốc xạ phụ. Ủng tệ lậu.
dịch: Ngòi nước trong hang róc rách bắn vào vài con cá giếc. Vò nước cũ đã rạn.
Đáy giếng có con ễnh ương nhảy nhót. Cái vò bị hỏng, thủng lỗ.
Nguồn nước chẳng ai dùng vì không có thiết lập.
Giếng cạn đến lộ đáy, thấy cả con ễnh ương nhảy nhót dưới đó, cái vò chứa nước cũng đã thủng lỗ rồi, không còn nước để dùng nữa. Thời điểm khó khăn, nguồn nước thì cạn, nơi chứa nước dự phòng cũng hỏng, thủng lỗ.
Hào 3: Tỉnh điệp bất thực. Vị ngã tâm trắc. Khả dụng cấp. Vương minh tịnh Thụ kỳ phúc.
dịch: Giếng (đã) nạo vét mà chẳng ai dùng. Lòng ta đau buồn. Có thể dùng múc được. Một ông vua sáng suốt (biết) kết hợp, mọi người chung hưởng phúc.
Giếng được nạo vét cải tạo nhưng vẫn không dùng ăn uống được. Lòng ta đau buồn. Có thể múc được. Vua sáng suốt thì dân chúng mới cùng được hưởng cái hồng phúc.
Tiếc chưa được dùng chỉ cần có vua / tổ chức thì sẽ đắc dụng.
Người xưa quan niệm rằng vua sáng suốt làm những việc đúng đắn, quyết những việc thuận lẽ trời, thì trời ứng điềm làm mưa thuận gió hòa. Bởi thế ơn vua ban cho còn được gọi là “ơn mưa móc”. Vua sáng thì con dân được hưởng cái phúc, sẽ có mưa, rồi sau sẽ tìm được giếng có nước tốt mà dùng.
Hào 4: Tỉnh trứu. Vô cữu.
dịch: Giếng được xây. Không lỗi.
Sửa sang cần thiết đã có. Sự tổ chức đang hình thành.
Đào giếng mới chính là quyết định sáng suốt.
Hào 5: Tỉnh liệt hàn tuyền, thực.
dịch: Giếng trong nước mát, uống được.
Thiết chế đã lập, mọi việc đi vào quy trình, trôi chảy.
Hào 6: Tỉnh thu vật mạc. Hữu phu, nguyên cát.
dịch: Giếng là để (mọi người) dùng(chung), chớ che lại. Lòng tin (đầy ắp), tốt lớn từ đầu.
Giếng nước trở thành trung tâm đời sống cộng đồng, mọi người đều được lấy, nước không là của riêng ai .Giếng nước tạo ra hình ảnh của một xã hội lưu chuyển tốt dẹp, lặng lẽ mà công bằng (vô vi nhi vô bất vi Đạo Đức kinh).
Cặp 47/48 là một sự tương phản giữa hai thời thế: sự bế tắc của mỗi cá nhân và sự trôi chảy của một xã hội dựa vào công bằng và ích lợi chung.
49/ QUẺ CÁCH
Cách là thay đổi, loại bỏ.Cách mệnh là đổi Mệnh Trời; đó là lý thuyết được nhà Chu đưa ra để biện hộ cho việc họ lật đổ nhà Ân là thuận theo lẽ Trời.Vì vậy cách mệnh chỉ có nghĩa là thay đổi toàn diện từ khi từ này được dùng để dịch từ revolution của Tây phương.Quẻ Cách chỉ được phê cát ở các vị chẵn cho thấy cách mệnh phải chờ đúng thời và phải được tiến hành một cách thận trọng.
Lời quẻ: Cách.Dĩ/ Tỵ nhật nãi phu.Nguyên hanh lợi trinh.Hối vong.
dịch: Thay đổi. Đến ngày Tỵ thì (mới được) tin tưởng.Từ đầu đã thông điềm nên chính bền.Lo hối tiêu tan.
Chữ dĩ có người dọc là tỵ (địa chi),là tự (cúng tế), có người chép là kỷ (thiên can) .Javary cho là tỵ vì tỵ có biểu tượng là rắn mà rắn có đặc tính lột da để lớn ra, vậy dùng làm tượng cho cách mệnh.Xem Nguyên hanh lợi trinh ở phần dẫn nhập/ biểu tượng.Hối vong là không dùng dằng, nghi ngờ, tiếc nuối khi phải thay đổi.
Hào 1: Củng.Dụng hoàng ngưu chi cách.
dịch: Giữ chặt.Dùng (dây) da bò vàng.
Thời này chưa nên vọng động., nên tiếp tục sửa soạn.
Hào 2: Tỵ nhật nãi cách chi.Chinh cát, vô cữu.
dịch: Đến ngày Tỵ thời thay đổi.Đánh dẹp tốt.Không lỗi.
Hào 3: Chinh hung.Trinh lệ.Cách ngôn tam tựu.Hữu phu.
dịch: Đánh dẹp đóng.Điềm nguy.Nói thay đổi ba lần mới thành.Được tin.
Không ra quân ngay được, phải thuyết phục nhiều lần mới được tin theo.
Hào 4: Hối vong.Hữu phu.Cải Mệnh cát.
dịch: Hết hối tiếc.Được tin.Mệnh thời thay đổi, mở.
Thời đến, không còn dùng dằng.
Hào 5: Đại nhân hổ biến.Vị chiêm hữu phu.
dịch: Người tài đức chuyển biến như con cọp.Không cần bói (cũng) đầy lòng tin.
Vị đương cao như đại nhân biết thời mà lãnh Mệnh Trời (sự chuyển biến mạnh mẽ, nhanh chóng, không cưỡng được được tượng trưng bởi con hổ).
Hào 6: Quân tử báo biến.Tiểu nhân cách diện .Chinh hung.Cư trinh cát.
dịch: Người quân tử trí dũng chuyển biến như con báo.Kẻ nhỏ mọn (chỉ)đổi mặt.Đánh dẹp đóng.Ở yên đoán tốt.
Quân tử thì biết thời mà theo, tiểu nhân chỉ làm được ngoài mặt.Khi lãnh Mệnh thì phải cẩn thận chớ hung hăng mà phải khoan hòa vì quần chúng không thể hiểu ngay được.
50/ QUẺ ĐỈNH
Đỉnh là cái vạc để nấu đồ ăn .Thời nhà Thương đỉnh được đúc bằng đồng với nhiều trang trí hiện thực hay tỉ mỉ là đỉnh cao của nghệ thuật văn minh Thương – Chu. Đỉnh là 1 tượng trưng của uy quyền vua chúa (khi được phong đất, chức hay trong một dịp lớn đáng ghi nhớ nào đó các vua chúa cho đúc một đồ vật dùng trong việc nấu nướng, ăn uống nhưng bằng đồng rồi ghi khắc trên đó sự việc) nhưng cũng là dụng cụ dùng cho đời sống tâm linh: sự chế biến thức ăn uống được hiểu như cung cách để tiếp cận tổ tiên, quỉ thần với những nghi thức cúng tế . Vạc và những khí cụ khác trở thành hình tượng của diễn tiến biến hóa của đời sống hằng cửu.
Lời quẻ: Đỉnh .Nguyên cát, hưởng
dịch: Vạc.Tốt lớn từ đâu.Cúng tế .
Hào1: Đỉnh điên chỉ . Lợi xuất bĩ .Đắc thiếp dĩ kỳ tử . Vô cữu .
dịch: (Nắm) chân lật vac. Nên bỏ ra cặn dơ xấu . Được người thiếp và (nhờ vậy) có con trại Không lỗi .
Để bắt đầu tiến trình thay đổi đầu tiên phải bỏ cái cũ đã hỏng .Tử là con trai nối dõi . Hào này có lẽ ám chỉ vợ cả Văn vương không có con trai (bị mất sớm) phải nhờ có vợ bé mới có con trai nối dõi .
Hào 2: Đỉnh hữu thực .Ngã cừu hữu tật . Bất ngã năng tức .Cát .
dịch: Trong vạc có thức ăn.Người thù / đối tác mắc bệnh / nóng lòng . Người đến gần (khuyên bảo được) chẳng thể là tạ Mở .
Javary hiểu là bây giờ có hiềm khích nhưng tiến trình sẽ làm thay đổi thành tốt . Có thức ăn nhưng chưa được nấu nướng nên chưa có sự thông hiểu nhau .
Hào 3: Đỉnh nhĩ cách . Kỳ hành tắc .Trĩ cao bất thực Phương vũ khuy hối .Chung cát .
dịch: Tai vạc phải thay .Việc làm tắc nghẹt (như) mỡ trĩ chẳng ăn được . Mưa ào tới làm giảm hối tiếc .Cuối cùng rồi sẽ mở .
Thông hiểu nghẽn tắc ngăn chặn mọi công việc . Cần phải thay đổi cách thức hay nhận thức . Cơn mưa như một sự thông hòa giữa Đất Trời làm dịu đi cơn nồng .
Hào 4: Đỉnh chiết túc . Phúc công tốc .Kỳ hình ốc . Hung .
dịch: Vạc gãy chân . Món ăn của ông bị đổ ụp . Bị phạt ngay . Đóng .
Việc bị hỏng phải được sửa ngay không chậm trễ được . Kỳ hình ốc Javary cho là hình tượng mơ hồ, tôi theo cổ (tuy nhiên có thuyết cho ốc là phạt bị giết) . Ở đây sự việc phải biến đổi quyết liệt mới thoát được hung .
Hào 5: Đỉnh hoàng nhĩ . Kim huyên .Lợi trinh .
dịch: Vạc có tai màu vàng, đòn gánh bằn đồng . Chính bền lợi .
Ở đây việc thay đổi đã xong/ thức ăn đã chín và ta có đòn gánh để mang vạc ra khỏi bếp lửa .
Hào 6: Đỉnh ngọc huyên . Đại cát .Vô bất lợi .
dịch: Đòn gánh vạc bằng ngọc . Tốt lớn lắm . Chẳng gì không lợi .
Đòn gánh bằng ngọc thì chắc không phải là đồ dùng để nấu ăn thật mà là lễ khí . Nó tượng cho diễn tiến biến hóa của quẻ Đỉnh: nấu nướng được thăng hoa thành nghi lễ thờ cúng Thượng Đế (Thiên, Trời), tiên hiền và tổ tiên .
51/ QUẺ CHẤN
Chấn là chấn động, lay chuyển, sự sợ hãi, giận dữ. Sấm là hình ảnh tượng trưng để chỉ sự chuyển động bất ngờ hay mạnh mẽ Có khi là cơ hôi.
Lời quẻ: Chấn, hượng Chấn lai hích hích . Tiếu ngôn há há . Chấn kinh bách lý . Bất táng chủy sưởng .
dịch: Đang tế tự thì sấm động . Sấm nổ ầm ầm .Cười nói há há . Sấm làm kinh sợ cả trăm dặm . Chẳng để rơi muỗng rượu lễ .
Hình ảnh đưa ra nói lên sự bất ngờ, kích phát gây hoảng hốt nhưng rồi khi đã nhận biết thì có hành động phản ứng, cuối cùng thì trấn tỉnh lấy lại sự cân bặng
Hào 1: Chấn lai hích hích . Hậu tiếu ngôn há há . Cát .
dịch: Sấm nổ ầm ầm . Sau đó thì nói cười ha hả . Mở .
Lời hào sơ gần như lấy lại một phần lời quẻ . Chỉ sự chuyển động bất ngờ . Được phê tốt cho thấy đó là điều tốt có thể gây thức tỉnh người, việc . Học Năng ghi: biết sợ mà sợ thì sau mới có phép tắc .
Hào 2: Chấn lai, lệ . Ức táng bối . Tê vu cửu lăng . Vật trục . Thất nhật đắc .
dịch: Sấm động, nguy . Đoán sẽ mất tài vật . Trèo lên lăng gò . Chớ đuổi . Bảy ngày có lại .
Sau cái hoảng hốt ở hào 1 thì đây là lúc lấy lại bình tĩnh dù có thiệt mất gì . Trèo lên chín lăng nghĩa là quay về cội nguồn, chờ đợi, sẽ có lúc thời thế thay đổi .
“Cửu lăng” còn có nghĩa là chỗ gò đất táng mộ tổ của vua chúa. Liệu chừng bị mất tiền nhưng mà đừng có truy đuổi mà nên nhờ phúc của tổ tiên thì bảy ngày sau sẽ có được lại. Ở hào 2 này “chấn” là chấn động, sợ hãi bất ngờ đến (lai) vì mất của, nhưng sau 7 ngày có được lại, ứng với hào 5 là chấn động đến rồi nó lại đi (chấn vãng lai), sự sợ hãi sẽ qua, chẳng mất cái gì cả.
hào 3: Chấn tô tô . Chấn hành . Vô sảnh .
dịch: Sấm làm thức tỉnh .Sấm lay chuyển . Không phạm lỗi bất cẩn .
Javary ở đây hiểu theo nghĩa tốt khác mọi người . Sấm gây sợ nhưng giúp cho biết sợ mà tránh lỗi vô ý .
Hào 4: Chấn tụy nê .
dịch: Sấm chạy trong bùn lầy .
Chấn động liền chìm lắng.(tức là sự chấn động bất ngờ giảm đi, trầm trệ xuống)
Javary giảng ở hào này sấm không còn thấy nhưng ảnh hưởng vẫn vang dội (hào 4 cũng là hào dương như hào sơ) . Hình ảnh bùn lầy có nghĩa là nơi sinh sôi phồn thực ; Ni (Nê) sơn là một thánh địa ở Sơn Đông _ ở đó có đỉnh núi đầy bùn lầy _ mẹ Khổng tử đã đến đấy cầu tự và khi có con thì đặt tên là Khâu (gò đống) tự Trọng Ni (thằng bé núi Ni) .
Ghi thêm: Trọng là con giữa, ý nói không phải là đứa bé đầu tiên hay cuối cùng mà thần núi cho người đời.
Bài thơ trong sách Học Năng:
Ngọc trong bụi, vàng trong bùn .
Lâu ngày tự sáng, đâu còn nhờ ai .
Hào 5: Chấn vãng lai, lệ . Ức vô táng . Hữu sự .
dịch: Sấm đến sấm đi, nguy . Đoán không mất gì . Có việc (phải làm) .
Tựa như hào 2 nhưng ở đây thời hành sự đã tới .
Hào 6: Chấn sách sách . Thị quắc quắc . Chinh hung . Chấn bất vu kỳ cung, vu kỳ lân . Vô cữu . Hôn cấu hữu ngôn .
dịch: Sấm yếu dần . Vẻ nhìn nhớn nhác . Đánh dẹp đóng . Sấm không đến với ta mà đến với láng giềng . Không lỗi . Có lời bàn việc gã cưới .
Sức lay động của sấm giờ đã hết . sấm giờ đây mang cái hay của nó cho kẻ khác (chỉ Chu) . Sấm ở đây là chuyện chấn động thời đó: hôn phối của Tây bá Cơ Xương được Đế Ất mở lời cho cưới con gái thị tộc Thương .
Hào cuối cùng này vừa cho ta hiểu là một chuyện gây chấn động chưa chắc đã là xấu và là bằng chứng cho sự cần thiết đọc Chu Dịch trong bối cảnh lịch sử thì mới không giàng sai ý lời (mọi người, kể cả Javary, có lẽ vì lời phê chinh hung, đều hiểu là Chuyện cưới xin có điều tiếng) .
52/ QUẺ CẤN
Cấn là ngừng, giữ, đậu lại ; là vững thân để tĩnh tâm. Hình ảnh trong quẻ là một phương pháp thiền định nhưng mục đích của nó cũng là biết hành động khi giao thiệp bên ngoài (lời quẻ mới đầu nói về ổn định xương sống nhưng sau chuyển sang hành động ở triều đình) .
QNB: Cấn còn có nghĩa là tính chất cứng, kiên cố, xu hướng bền vững hóa, nghiêm trang hóa. Chúng ta có thể dùng nghĩa này để thấy một cách hiểu khác. Rất có khả năng quẻ này chép lại sự kiện dạy về nghi thức tác phong nghiêm trang trong triều đình, trong hoàng cung.
Lời quẻ: Cấn kỳ bối, bất hoạch kỳ thân. Hành kỳ đình, bất kiến kỳ nhân . Vô cữu .
dịch: Ổn định lưng mình, chẳng bấu (quá) chặt thân . Trước sân (vua) mà ăn nói, chẳng để (tâm dao động) vì thấy người khác phản ứng. Không lỗi.
Giữ cái lưng ổn định ngay ngắn. Chẳng phải cái thân (phận) tôi tớ nô tỳ. Đi thẳng (cái người). Không thấy ai. Không lỗi.
Phép thiền định thân phải sao cho vững vàng nhưng không phải là giữ cho ngưng động bó cứng mà làm sao cho tâm tỉnh thức . Trước công chúng tư tưởng phải tập trung để bình tĩnh đưa ra ý kiến và đạt được mục đích chứ không để tình cảm hay bên ngoài chi phối.
Đối với tác phong nghiêm trang trong triều đình, trong hoàng cung thời xưa, cần phải tập để thể hiện đúng tác phong, phong cách, người khác nhìn vào là biết vai vế chủ tớ. Cần phải đi phải thẳng lưng, thẳng người để tạo thành phong thái ngiêm trang. Tôi tớ trước chủ thì khom lưng, chứ chủ trước tớ thì thẳng lưng, mặt (vênh) hướng lên cao như không thấy ai cả.
Hào 1: Cấn kỳ chỉ, vô cữu. Lợi vĩnh trinh .
dịch: Ngừng bước, không lỗi. Nên (giữ) chính bền mãi mãi.
Ổn định nghiêm trang từng bước chân. Không lỗi. Nên (giữ) chính bền mãi mãi.
Muốn thiền định đầu tiên phải biết dừng. Căn bản xây dựng là từ đó .
Hào 2: Cấn kỳ phì. Bất giải kỳ tùy . Kỳ tâm bất khoái .
dịch: Giữ vững cái bắp chân. Không đưa lên một cách tùy tiện. Trong lòng không được vội vã hấp tấp.
Hào này tâm bất định, cứ thả lỏng tâm trí đi vu vơ . Phải sửa lại .
Hào 3: Cấn kỳ hạn, liệt kỳ dần . Lệ . Huân tâm .
dịch: Giữ chặt hông, xương sống cứng ngắc . Nguy . Cháy cả ruột .
Giữ ổn định cái hông, ở chỗ ngang thắt lưng. Cái tâm giáo huấn nghiêm khắc, nghiêm trang.
Hào này thì cứng quá, kiềm chặt không biết để tâm thảnh thơi . Tâm là trái tim tương đương với lòng dạ trong tiếng Việt, cần phải khoan hòa lại . Lòng thôi thúc quá cần học buông.
Huấn còn có nghĩa là dạy dỗ, giáo huấn. Lệ còn mang nghĩa nghiêm khắc. Nên ta ngắt câu là “Lệ huấn tâm” thì được nghĩa lòng dạy dỗ nghiêm khắc, nghiêm túc.
Hào 4: Cấn kỳ thân . Vô cữu .
dịch: Giữ được thân . Không sai.
Giữ nghiêm cái thân vững vàng ổn định. Không lỗi.
Đến đây thì thiền giả đã đạt được vững ngoài tĩnh trong .
Chữ Thân ở đây vừa mang nghĩa cái thân mình (cơ thể) vừa mang nghĩa thân phận (vai vế). Tác phong nghiêm trang từ cơ thể sẽ biểu thị được vai vế thân phận.
Hào 5: Cấn kỳ phụ, ngôn hữu tự . Hối vong .
dịch: Miệng được giữ, nói năng có thứ tự. Hối tiếc không còn .
Giữ mồm giữ miệng, nói năng có thứ tự. Hối tiếc tan hết.
Người này có thể trình bày trước công chúng mà không sợ sai bậy .
Ngoài sự nghiêm trang trong hành động, tác phong về cơ thể, còn phải nghiêm trang trong ngôn ngữ, lời ăn tiếng nói.
Hào 6: Đôn cấn, cát .
dịch: Vững vàng dày dặn, mở .
Hoàn toàn vững vàng, nghiêm túc. Mở
Hào trên cùng đã được trạng thái động tĩnh gì thì tâm cũng luôn thức tỉnh .
Chú ý là hào 4 chỉ đến mức làm lòng lắng đọng khi thiền định, còn hào 6 là người tĩnh động đều không mê ngủ . Ta thấy phương pháp thiền định không phải chỉ có từ khi đạo Phật truyền sang Á Đông .
53/ QUẺ TIỆM
Tiệm là tiến lên thong thả, tuần tự . Theo Javary và một số học giả thì hình ảnh được dùng trong quẻ này chính là vợ cả Văn vương (tôi nghĩ là Thái tự trong Kinh Thi, vì Thái Tự nghĩa đen là nàng dâu lớn) .Quẻ này đứng cặp với quẻ Qui muội (lễ cưới em gái) và trong lời quẻ có câu nữ qui (con gái lấy chồng) cho thấy cặp quẻ này lấy số mệnh của cô vợ cả và vợ thứ, là 2 chị em, và đám cưới của họ (xem thêm hào 5 quẻ 11 Thái) để bàn về lẽ phúc họa khó lường, duy chỉ cư xử theo đức hạnh làm trọng .
Lời quẻ: Tiệm. Nữ qui, cát . Lợi trinh .
dịch: Tuần tự mà tiến (như) con gái về nhà chồng, mở . Điềm lợi .
Sự tiến phải dần dần, chậm mà chắc, dù có những khó khăn làm thoái lùi, để cuối cùng cũng đạt được sự hòa hợp .
Hào 1: Hồng tiệm vu can . Tiểu tử lệ . Hữu ngôn . Vô cữu .
dịch: Chim hồng bay dần đến bờ nước . Con nhỏ gặp nguy . Có điều tiếng . Không lỗi.
Thời mới đến, chưa yên vị . Có thể chỉ con trai của Thái Tự mất khi còn bé (Bá ấp Khảo hay Hiếu).
Hào 2: Hồng tiệm vu bàn . Ẩm thực khản khản . Cát .
dịch: Chim hồng bay dần đến hòn đá lớn có mặt bằng phẳng . Ăn uống vui hòa . Mở.
Thời này đã yên chỉ cần hòa hợp với mọi người . Trong Kinh Thi Thái Tự được khen là ” yều điệu thục nữ ” .
Hào 3: Hồng tiệm vu lục . Phu chinh bất phục . Phụ dựng bất dục . Hung . Lợi ngự khấu .
dịch: Chim hồng bay dần đến cao nguyên . Chồng đi chinh chiến chẳng về . Vợ có thai mà không nuôi được . Đóng . Nên đề phòng giặc cướp .
Cao nguyên chỉ địa vị tôn cao . Nhưng hào này toàn gặp việc trái lòng: chồng đi xa chưa về, mình thì xảy thai hay con trẻ mất sớm. Lại phải đề phòng kẻ cướp .
Hào 4: Hồng tiệm vu mộc . Hoặc đắc kỳ dốc . Vô cữu .
dịch: Chim hồng bay dần đến (đám) cây . Có lẽ được cành bằng trên cao . Không lỗi .
Thời này vị càng cao nhưng chênh vênh . Tùy đức hạnh mà được hay không cành bằng (yên ổn).
Hào 5: Hồng tiệm vu lăng . Phụ tam tuế bất dựng . Chung mạc chi thắng, cát.
dịch: Chim hồng bay dần đến lăng gò . Vợ ba năm chẳng có mang . Cuối cùng chẳng gì ngăn được . Mở .
Thái Tự gặp bao nhiêu khó khăn cản trở nhưng đức hiền của nàng cuối cùng được công nhận và được đưa lên địa vị tôn cao nhất (dự cúng lễ ở tôn miếu ?).
Hào 6: Hồng tiệm vu lục . Kỳ vũ khả dụng vi nghi . Cát .
dịch: Chim Hồng bay dần đến cao nguyên . Lông của nó dùng được để chế thành đồ hành nghi . Mở.
Các bản kinh Dịch cũ ở VN theo Tống nho nên đều sửa theo Hồ An Định (đời Tống ?), có sự đồng ý của Trình, Chu, lấy chữ quỳ (đường mây) thay cho chữ lục . Ý là cát thì phải lên cao hơn nữa . Không ngờ sai vì không biết chuyện là địa vị của người vợ cả lại đi xuống (hồng tiệm vu lục như hào 3) _ có lẽ sau khi chồng mất, vì bà được tôn lên cao ở hào 5 _ do không có con trai nối dõi (xem hào 3) tuy bà vẫn được vua sau kính trọng vì đức cao (đồ hành nghi) . Đồ hành nghi là cờ quạt, vũ y chỉ sự trang sức bên ngoài .
54/ QUẺ QUI MUỘI
Qui muội có nghĩa là gã em gái . Đây là một câu chuyện lịch sử thời Ân – Chu, để giải tỏa mối hận giết cha Cơ Xương vua Ân gã cháu gái cho Cơ Xương (xem hào 5 quẻ 11 Thái) . Nhưng theo tục lệ cổ trong giới vua chúa thì các cô phù dâu thường là em gái sẽ đi theo làm vợ bé, để trong trường hợp vợ cả mất sớm hay không con nối dõi thì em gái lên thay để tránh việc mất truyền tự.
Qui muội vì thế tượng trưng cho những tình huống bất như ý, thiệt thòi, nhầm lẫn mà vẫn phải chịu . Nhưng lẽ trời không sao biết trước, cô cả (xem quẻ Tiệm 53) chỉ có một con trai lại mất sớm, cô thứ có 8 người trong đó có Vũ vương, Chu công nên địa vị sau này khác cũ.
Điều khám phá này có một số học giả TQ đã nói tới từ thế kỷ XX.
Lời quẻ: Qui muội. Chinh hung. Vô du lợi.
dịch: Gã em gái. Đánh dẹp đóng. Chẳng lợi đâu .
Hào 1: Qui muội dĩ đệ.Phả năng lý . Chinh cát .
dịch: Gã em gái về làm thiếp. Què vẫn đi được. Đánh dẹp,mở.
Hào sơ bảo ngay nhờ lấy cô em làm thiếp mà có con nối dõi như kẻ què mà đi được, đánh dẹp tốt .
Ở đây tôi hiểu khác mọi người vì cho rằng chinh cát thì phải nói về Văn vương (Cơ Xương) chứ không chỉ nàng Muội .Tuy nhiên nếu ta cho rằng chinh cát là một lời phê không liên quan đến chuyện Qui muội và Văn vương lấy thiếp được con có thể đã được nhắc tới ở hào 1 quẻ Đỉnh thì ta nên hiểu như cổ điển .
Hào 2: Miễu năng thị . Lợi u nhân chi trinh .
dịch: Chột vẫn thấy được. Điềm lợi cho kẻ cô độc .
Què và chột thường được dùng để tượng trưng cho sự thua thiệt. Bị lẻ loi nhưng sau này có lợi.
Hào 3: Qui muội dĩ tu. Phản qui dĩ đệ.
dịch: Gã em gái mà phải chờ . Đổi sang gã làm đệ thiếp .
Đã định được gã nhưng có trục trặc . Cuối cùng đành chịu làm thiếp.
Hào 4: Qui muội khiên kỳ. Trì qui hữu thì.
dịch: Gã em gái sai hẹn .Trễ cưới chờ thời.
Hào này sai hẹn chờ thời tốt hơn.
Hào 5: Đế Ất qui muội .Kỳ quân chi duệ bất như kỳ đệ chi duệ lương. Nguyệt cơ vọng .Cát.
dịch: Đế Ất gã em(theo chị). Hậu duệ của nàng cả không được tốt như của nàng thiếp . Trăng sắp rằm .Mở.
Câu truyện được ghi rõ.Đến hào này thì địa vị sắp đổi (trăng là vị thứ nhưng đến rằm thì sáng láng).Các vị hậu nho và nhiều học giả vẫn hiểu duệ theo nghĩa đen (tay áo) chỉ vì không biết phải dùng bối cảnh lịch sử mới hiểu được Chu Dịch .
Hào 6: Nữ thừa khuông, vô thực. Sĩ khuê dương, vô huyết . Vô du lợi.
dịch: Con gái dâng giỏ mà lại không có thức ăn .Quan sĩ cắt tiết cừu mà không thấy máu chảy . Chẳng lợi đâu .
Hư danh, hư vị, giả dối . Hoặc vợ chồng không có con nối dõi thì hôn nhân này bị đánh giá là xấu .
55/ QUẺ PHONG
Phong là phong phú, thịnh lớn, đầy nhiều . Quẻ này dùng hình ảnh thiên tượng diễn tả sự khó khăn để giữ tồn tại, tiếp tục thịnh vượng . Đặng Cầu Bá lại cho rằng Phong chỉ kinh đô nhà Chu . Có thể chúng ta cần nghĩ theo cả hai nghĩa bóng và đen cùng một lượt .Tôi cố gắng giảng dịch dung hòa ý kiến của nhiều người ở quẻ này .
Lời quẻ: Phong hưởng . Vương giả chi . Vật ưu . Nghi nhật trung .
dịch: Phong, cúng tế . Nhà vua đến cử hành lễ . Chớ lo nghĩ . Nên làm vào giữa trưa .
Giả là làm lễ với lòng thành, giả như có sự chứng giám . Chớ lo nghĩ nhiều vì việc thịnh vượng có giữ được lâu dài chăng . Nghi nhật trung thường được hiểu là nghi vệ, cư xử phải như mặt trời giữa trời . Tôi theo Dương Ngọc Dũng dịch theo nghĩa đen vì những hình ảnh thiên văn trong các lời hào .
Hào 1: Ngộ kỳ phối chủ . Tuy tuần, vô cữu . Vãng hữu thượng .
dịch: Liên kết được với chúa xứ Phối .Tuy chỉ được một thời gian ngắn, không lỗi . Tiến lên ắt thành công .
Phối thường được giảng là người phối hợp hoặc là phối hợp (giao cấu) với người chúa nữ . Tuần vốn có nghĩa là 10 ngày .
Hào 2: Phong kỳ bộ, nhật trung kiến đẩu. Vãng đắc nghi tật . Hữu phu phát nhược . Cát .
dịch: Phong đô nhật thực, giữa ngày mà thấy sao Bắc Đẩu . Tiến thì bị ngờ, ghét . Có lòng thành tín (thì khai phá được)/ (tuân theo việc đang xảy ra). Mở .
Hào 3: Phong kỳ bái, nhật trung kiến muội . Chiết kỳ hữu quăng Vô cữu.
dịch: Phong đô tối sầm, giữa ngày mà như đêm không trăng. Bị gẫy cánh tay phải . Không lỗi.
Kiến muội là thấy những sao li – ti . Hào này ở thời bị che tối nhất quẻ mà cứ cố tiến thì gặp họa .
Hào 4: Phong kỳ bộ, nhật trung kiến đẩu . Ngộ kỳ Di chủ . Cát .
dịch: Phong đô nhật thực, giữa ngày mà thấy sao Bắc Đẩu . Liên kết với chúa xứ người Di. Mở.
Nhiều việc rối rắm nhưng kiếm được đồng minh .
Hào 5: Lai chương hữu khánh dự . Cát
dịch: Ánh sáng trở lại . Vui mừng chúc tụng (nhau). Mở .
Thời thịnh vượng trở lại .
Hào 6: Phong kỳ ốc, bộ kỳ gia . Khuy kỳ hộ . Khuynh kỳ vô nhân . Tam tuế bất địch . Hung .
dịch: Xây dựng lâu đài cho nhiều và tráng lệ . Đóng kín cửa nhà . Liếc nhìn sang nhà hàng xóm: vắng tanh không người . Ba năm chẳng gặp ai . Đóng .
Câu này nên hiểu là một chỉ trích của nhà Chu đối với Đế Trụ: xa hoa, đóng cửa, không còn đồng minh . Tiếp tục như vậy thì thịnh vượng có còn ?
56/ QUẺ LỮ
Lữ là đi xa, ở đất khách, người hành lữ, một đội quân . Khi đi xa ở tạm đất khách ta gặp gỡ những điều mới lạ buộc ta phải biết thích ứng với. Đôi khi ở đất người gặp nhiều khó khăn nhưng cũng có lắm cơ hội . Thái độ âm nhu là cần thiết . Có người giảng là đạo quân đi đánh dẹp phương xa .
Lời quẻ: Lữ, tiểu hanh. Lữ trinh cát.
dịch: Hành lữ, cẩn trọng tư tiểu thì hanh thông. Đoán đi xa mở.
Hào 1: Lữ tỏa tỏa .Tư kỳ sở thủ tai .
dịch: Lữ khách ti tiểu . Ấy là lãnh tai họa về mình .
Tỏa tỏa là chỉ bám vào những chuyện không đâu, phiếm diện . Khi ở xứ người ta mới đến nên không thông hiểu luật lệ thói quen tập quán của người nên dễ sa đà, làm sai .Một chuyện có vẻ nhỏ có thể biến thành tai họa .
Hào 2: Lữ tức thứ .Hoài kỳ thư .Đắc đồng bộc trinh.
dịch: Lữ khách đến gần nhà trọ .Thủ chặt tiền bạc . Đoán mua được tớ trẻ.
Đến chỗ có thể tạm nghỉ.Cần cẩn thận .Có lẽ tìm được người giúp cho việc nhỏ.
Hào 3 Lữ phần kỳ thứ.táng kỳ đồng bộc.trinh lệ.
dịch: Lữ khách đốt cháy quán trọ. Mất thằng tớ trẻ.Điềm nguy.
Thay vì yên ổn làm ăn lữ khách phạm lỗi làm càn nên như tự đốt chỗ dừng chân, mọi người ghét bỏ .Phê nguy là nặng hơn hào 1.
Hào 4: Lữ vu xử.Đắc kỳ tư phủ .Ngã tâm bất khoái.
dịch: Lữ khách tạm trú.Được tiền của, danh vị .Lòng ta chẳng vui.
Hào này người khách đã thích nghi nên buôn bán thành đạt lại còn có danh phận .Nhưng trong thâm tâm vẫn khắc khoải (vì nhớ nhà hoặc vì còn lo chưa có thực quyền ?).
Hào 5: Xạ trĩ, nhất thỉ vong . Chung dĩ dự mệnh .
dịch: (Nhắm) bắn chim trĩ, (phải chịu) mát mũi tên đầu .Sau được ban khen và chức quyền.
Thời lữ thì phải chịu thiệt lúc ban đầu thì sau mới được thành công, chim trĩ chỉ cao sang quyền quý.Ở đây là hào duy nhất không có chữ lữ cho thấy khách trú đã được thật sự chấp nhận: có mệnh (quyền chức) tức là được tin tưởng.
Hào 6: Điểu phần kỳ sào .Lữ nhân tiên tiếu hậu hào đào .Táng ngưu vu Dị.Hung.
dịch: Chim tự đốt tổ mình . Lữ khách lúc đầu cười nói sau thì gào khóc. Mất bò ở Dị .Đóng.
Dựa thế lực đã có mà làm điều sai trái thì người ta chẳng thể dung cho .Xem chuyện Vương Hợi (hào 5 quẻ Đại Tráng 34).
57/ QUẺ TỐN
Tốn là nhu thuận, nhún nhường, phục tòng, uốn bẻ theo khuôn, chịu khuất tất, lẩn trốn, từ chối. Quẻ này nói về sự cuốn theo chiều gió, chịu khuất để tránh đổ vỡ, chấp nhận sự việc xảy ra không như ước muốn hay dự định. Nhưng mà là để dần dần hiểu rõ sự việc (hào 2) sau đó mới hành động tìm cách lật ngược thế cờ, thay đổi tình trạng qui khuất (hào 5). Chú ý hai hào trung ương riêng duy được phê cát.
Quẻ Tốn này gần tương tự như quẻ Khiêm (cặp Khiêm – Tốn) về cả hoàn cảnh và ý nghĩa của lời quẻ với lời hào. Quẻ Khiêm thì tính “minh” nên toàn quẻ cát và lợi, còn quẻ Tốn thì tính ám nên có hào 3 và hào 6 là bất lợi và hung.
Lời quẻ: Tốn. Tiểu hanh .Lợi hữu du vãng. Lợi kiến đại nhân .
dịch: Khuất tất . Nhu tế thì hanh thông. Nên có định hướng. Nên đi gặp người tài đức.
Nhún nhường. Nhỏ bé được hưởng, được hanh thông. Nên có định hướng. Nên đi gặp người tài đức.
Thời bị động thì không thể dương cương mà cần phải nhu thuận, kiên nhẫn để hóa giải. Nên có chỗ đi là chịu phục tòng mà không quên mục đích cuối cùng . Thời khó khăn cần phải thuyết phục được chính mình hay phải hóa giải khuất tất, trong cảnh cùng quẫn thì nên đi gặp người tài đức để có một cái nhìn khác, khách quan hơn, cao rộng hơn.
Trong hoàn cảnh nhún nhường thì sẽ phân chia ra 2 phe đối lập, phe chiếm ưu thế tạm gọi là “cửa trên” và phe lép vế hơn tạm coi là “cửa dưới”. Cho nên chữ “Tiểu” ở đây ám chỉ về “cửa dưới” – phe lép vế, trong trường hợp này thì phe lép vế chịu nhún nhường sẽ được hưởng lợi, được hanh thông. Tức là biết mình biết người, lùi một bước để mọi sự thuận lợi mà tiến ba bước về sau. Cần có sự trợ giúp từ người tài đức.
Hào 1: Tiến thoái. Lợi vũ nhân chi trinh.
dịch: (Biết) tiến lui. Nên chính bền như kẻ vũ sĩ.
Có tiến có lui. Điềm lợi cho người quân nhân võ sĩ.
Hào này phải biết dụng binh như tướng võ, tùy thời mà khi tiến khi lui. Chưa có chữ tốn nên chưa vào thời khuất tất.
Vũ nhân = những kẻ quân nhân võ sĩ, thường là những người thiếu mưu lược, ít nhẫn nhịn, khi đánh thắng thì ham tấn công mà khó dừng, khi đánh thua thì không chịu được nhục. Cho nên biết tiến biết thoái, điều hòa nhịp nhàng là điềm có lợi cho người quân nhân võ sĩ.
Hào 2: Tốn tại sàng hạ. Dụng sử vu phân nhược. Cát, vô cữu.
dịch: Nằm mọp trên giường. Dùng quan sử, thầy vu lễ bái, lên đồng. Mở, không lỗi.
Phủ phục ở dưới giường. Nhờ bọn quan sử quan coi bói (mà được lợi), Mở, không lỗi.
Hào này bệnh nặng, dùng quan sử nghĩa là soát lại việc xưa, thầy vu là tìm hiểu tương lai, phân là trạng thái rối ren, mê nhập, nhược nghĩa cổ là thuận theo (tức là thần linh đã nhập cốt) . Tóm lại thế nguy nhưng biết đi tìm hiểu đầu mối sự việc và đi tìm phương cách giải quyết căn cơ thì từ từ sự việc (có thể) mở.
QNB cho rằng hình ảnh nằm mọp dưới giường là sự chịu nhún nhường, chịu lép vế hoàn toàn, để thông qua đám quan ghi chép sự kiện bói toán mà được lợi.
Hào 3: Tần tốn, lận .
dịch: Nhiều lần chịu khuất/ chịu nhục, lận đận .
Liên tục nhún nhường, lận đận.
Tần có nghĩa nhiều lần hoặc phải mau lẹ. Lận có thể hiểu là buồn hối, tôi thường dịch là lận đận vì đã có lời phê khác là hối chỉ sự hối tiếc rồi.
Liên tục phải chịu lép vế thì đó chính là hoàn cảnh lận đận, vất vả.
Hào 4: Hối vong . Điền hoạch tam phẩm.
dịch: Hối tiếc chấm dứt. Đi săn được ba loại thú.
Ở đây không còn chữ hối, thoát được khuất tất . Điều kiện cần là loại bỏ những gì ngăn chặn thay đổi (có thể tồn tại ngay trong nội tâm).
Hào 5: Trinh cát. Hối vong .Vô bất lợi. Vô sơ hữu chung. Tiên canh tam nhật, hậu canh tam nhật . Cát.
dịch: Đoán mở. Hối hận đã hết . Chẳng gì không lợi. Không có đầu nhưng cuối cùng tốt. Trước ngày Canh 3 ngày, sau ngày Canh 3 ngày .Mở.
Thời điểm này thuận lợi nhất cho việc hóa giải đè nén, nhưng còn phải làm (vế đầu chỉ đoán mở, sau khi làm, cuối lời mới phê mở). Việc phải làm là quét sạch, tảo trừ cái cũ (Canh là đầu mùa Thu, mùa thu gặt và quét dọn).
Quẻ Tốn theo Bát quái là đầu hè, ở đây Canh là mùa Thu, có lẽ lại là một bằng chứng cho thấy Chu Dịch ban sơ chưa có Bát quái . Bát quái là học thuyết của phương Nam được thêm vào sau này .
Hào 6: Tốn tại sàng hạ. Táng kỳ tư phủ. Trinh hung.
dịch: Nằm mọp trên giường. Mất hết của cải danh vọng. Đoán đóng.
Hào này cuối thời Tốn rồi mà vẫn còn loay hoay chưa tìm ra lối thoát. Quá nhu nhược.
Sau khi đã hết hối tiếc lận đận mà vẫn cứ phủ phục, chịu lép vế, thì quả là quá nhu nhược chứ không còn là sự biết tiến biết thoái, biết mềm mỏng nhũn nhặn khi cần nữa rồi. Cho nên bị mất của cải tiền đồ.
Tóm lại Tốn không phải là chịu lép mãi mà dùng thời gian để sửa đổi các hư xấu gốc rễ. Như vậy mới có cơ sau này trỗi dậy .
58/ QUẺ ĐOÁI
Đoái 兌 có nghĩa là trao đổi, xưa giảng là đoài nghĩa là đẹp lòng – nhưng Đoài 悅 (còn đọc là Duyệt) vốn là Đoái 兌 nhưng thêm bộ Tâm – chỉ là một trạng thái hạn hẹp của sự trao đổi. Vấn đề thật ra là biết trao đổi: nói ra ý của mình nhưng cũng biết lắng nghe ý của người. Quẻ nàyé được phân thành ba phần: 2 hào dưới nói đến tính trao đổi của con người được phê cát, 2 hào giữa bàn đến những khúc mắc, 2 hào trên sự trao đổi đã bị biến tính.
Lời quẻ: Đoái hanh. Lợi trinh.
dịch: Trao đổi thì hanh thông . Đoán lợi.
Trong quan hệ giữa con người thì giao dịch là tự nhiên và cần thiết.
Hào 1: Hòa đoái, cát.
dịch: Hòa vui trao đổi, mở.
Buổi đầu nói chuyện với nhau tự nhiên, không vướng bận gì thì đơn giản và vui vẻ.
Hào 2: Phu đoái, cát.Hối vong .
dịch: Trao đổi thành tín, mở.Không hối gì.
Thông hiểu nhau thì có tin tưởng.
Hào 3: Lai đoái, hung.
dịch: Bên ngoài đến giao dịch .Đóng.
Có kẻ đến cố thuyết phục ta hoặc người ta đến giao dịch nhưng ta thì không muốn nghe / biết nghe.
Hào 4: Thương đoái.Vị ninh. Giới tật hữu hỷ.
dịch: Thương lượng.Chưa yên lòng.Bỏ hiềm khích/ nghi ngờ thì có mứng.
Nho gia thường giảng giới tật là bỏ hào 3 tiểu nhân để theo hào 5 dương quân tử.Nhưng đọc lời hào 5 thì thấy giảng như vậy vô lý.
Hào 5: Phu vu bác.Hữu lệ.
dịch: Lòng tin mỏi mòn. Nguy .
Hào này riêng không có chữ đoái, cho nên làm sao thông hiểu nhau nữa.Chữ hữu nhấn mạnh chắc chắn sẽ có nguy.Javary cho rằng ở hào 5, địa vị vua chúa nên không có trao đổi bình đẳng mà chỉ có ra lệnh, quan hệ chủ tớ.Hoặc giả là lời nói quá nhiều, ta nói nhiều hay phải nghe nhiều quá thì đều bị mệt mỏi, không lắng nghe nữa (bác) .Giả thuyết sau cũng là của bài thơ trong sách Học Năng:
Trong cỏ ễnh ương kêu ộp ộp
Đêm nhà ba chó cắn oang oang
Hào 6: Dẫn đoái.
dịch: (Cố) mang tới sự trao đổi.
Hào này ở cuối thời giao dịch cho nên dù cố sức cũng không đi đến đâu .Vì hào này không có lời phê nên kẻ giảng tốt, người cho là xấu, thực ra nếu chú ý thì hào này với hào 3 là một cặp tuy không ứng nhau.
59/ QUẺ HOÁN
Hoán là giải tán, phá hủy, hoán cải, cơn hồng thủy (chữ Hoán có bộ thủy và chữ đại ở trong). Nôm na là một cơn lụt lớn cuốn trôi mọi kiến trúc, cấu tạo; là thời biến đổi, hoán cải không cưỡng được đánh đổ mọi cấu trúc đã khô cằn, sơ cứng.So sánh với quẻ Cổ 18 thì ở đây sự thay đổi đến từ bên ngoài .
Lời quẻ: Hoán, hưởng.Vương giả hữu miếu.Lợi thiệp đại xuyên. Lợi trinh.
dịch: Hồng thủy (đến), cầu nguyện. Vua đến cúng bái ở miếu tổ.Nên qua sông lớn.Nên chính bền/ điềm lợi.
Vua đến cúng bái ở tổ miếu cũng là câu đã thấy ở lời quẻ Tụy 45 cho thấy ở thời đùng đùng tán hủy thì cần dựa vào một giá trị thiêng liêng và một giá trị bất biến .Thủa xưa là nhà vua, vị Con Trời, để đồng lòng hợp sức vượt qua cơn tàn phá . Xem thêm lợi thiệp đại xuyên ở phần dẫn nhập/ thuật ngữ.
Hào 1: Dụng chửng, mã tráng. Cát.
dịch: Cứu vớt .Ngựa khỏe.Mở.
Ở hào sơ chữ hoán chưa hiện cho thấy tình hình còn sửa kịp trước khi bị phá tán nếu biết dùng biện pháp mạnh (tráng) và lâu bền (con ngựa).
hào 2: Hoán. Bôn kỳ kỷ.Hối vong.
dịch: Nước lớn .Chạy mau đến chỗ nương tựa được. lo âu tiêu tan.
Kỷ nghĩa đen là chiếc ghế thấp vậy thì con nước chưa lên quá cao, còn có chỗ để tránh.
Hào 3: Hoán kỳ cung. Vô hối.
dịch: Nước lớn đến thân mình.Không hối .
Ngập đến thân nghĩa là ta phải biết hoán cải cuộc sống của mình .Không hối là không đắn đo, đừng tiếc nuối.
Hào 4: Hoán kỳ quần .Nguyên cát.Hoán hữu khâu.Phi di sở tư.
dịch: Nước lớn tràn ngập khắp nơi.Tốt lớn (cho việc) bắt đầu.Lụt (thì chạy lên/ có) gò .Chưa bao giờ nghĩ rằng (lụt) lên (cao) thế.
Bây giờ tất cả đều chìm lỉm, tan hủy .Nguyên cát ở hào này tôi nghĩ là nên làm lại từ đầu.Có gò là dựa vào các giá trị truyền thống, thiêng liêng mà làm lại vì gò là nơi đặt lăng miếu.
Hào 5: Hoán hữu kỳ đại hiệu .Hoán vương cư.Vô cữu.
dịch: Mồ hôi vã ra, hò hét ra lệnh . Đổi dời chỗ vua ở. Không lỗi.
Khi phải dời đô thì sự thay đổi phải là toàn diện .Các nhà nho đạo đức khi xưa thì cho là mở toang kho lẫm vương triều để phát chẩn, các học giả thì hoặc cho rằng nước đến cung vua hoặc chữ cư đi chung với vô cữu rồi giảng nước lụt đến vua, cố kiên trì thì không lỗi (Javary hiểu theo lối này).cách cắt cuối tôi cho là vô lý vì đang ở thời Hoán thì tính kiên trì không tốt, lịch sử Ân và Chu đều nói đến nhiều bận dời đô vả lại hào 4 vừa nói làm lại từ đầu mới tốt và lời quẻ thì bảo: nên qua sông lớn.
Hào 6: Hoán kỳ huyết.Khứ địch xuất.Vô cữu.
dịch: Hết sợ . (Nước) đang rút.Không lỗi.
Khứ địch xuất được Javary và một số học giả giảng là nước rút đi xa . Huyết ở đây chỉ sự kinh hoàng .
60/ QUẺ TIẾT
Tiết vốn có nghĩa là đốt tre, rồi thời gian 1 tháng trong nông lịch sau đó là chương sách, ngày lễ.Ở Chu Dịch là chừng mực, hạn chế, tiết chế: biết dừng, biết đâu là giới hạn; đâu là của mình, của người, đâu là đúng, sai. Cây tre vốn tiêu biểu cho người quân tử của nho gia: tiết tháo, cương nghị mà mềm dẻo.
Lời quẻ: Tiết, hanh. Khổ tiết, bất khả trinh.
dịch: Tiết, hanh thông. Tiết chế quá, đoán rằng không lâu dài được.
Khổ nghĩa là đắng, trái với cam / ngọt ở hào 5.Lời quẻ cho ta hiểu tiết không là ép buộc mà là điều hòa, là tìm ra cái chừng mực đúng.
Hào 1: Bất xuất hộ đình.Vô cữu.
dịch: Không ra khỏi cửa nhà.Không lỗi.
Thời sơ bé điều cần thiết là học hành, tự thủ, sửa mình chưa phải là lúc hành động.
Hào 2: Bất xuất môn đình.Hung.
dịch: Không ra khỏi cổng ngoài.Đóng.
Đã lớn khôn thì không thể mãi sống trong gia đình, dòng họ .Phải ra đường mà học trường đời.
Ngày xưa người ta sống theo đại gia đình, nên mỗi gia đình nhỏ sống ở khu riêng rồi đến sân chung, qua khỏi cổng lớn mới ra đến ngoài.
Hào 3: Bất tiết nhược; tất ta nhược.
dịch: Không chừng mực thì sẽ (có lúc) khóc than.
Va chạm với đời thì mới biết giới hạn, chừng mực. Chữ tiết bắt đầu xuất hiện.
Hào 4: An tiết, hanh.
dịch: An phận, tiết dục .Thông.
Chấp nhận theo luật lệ, thói quen của cuộc sống nên mọi sự yên ổn.
Hào 5: Cam tiết, cát.Vãng hữu thượng.
dịch: Vui vẻ điều hòa, mở. (Cứ thế) hành sự sẽ có thưởng.
Thấu hiểu và dung dị điều tiết thì vạn sự thành công.
Hào 6: Khổ tiết.Trinh hung. Hối vong.
dịch: Tiết chế quá mức.Đoán đóng. Đừng hối nữa / Biết hối thì hết (khổ).
Khi sự tiết chế trở thành quá đáng hay hình thức nó mất hết ý nghĩa và sẽ gây xấu xa, đổ vỡ. Hối vong là đừng tiếc nuối cố giữ lại cái giới hạn qui củ, khô cằn mà phải vượt qua nó đi, hoặc là hiểu ra là áp chế quá, hối hận mà bỏ nó đi thì vượt được xấu.
61/ QUẺ TRUNG PHU
Trung nghĩa là giữa, bên trong, trúng, đúng ; phu là lòng thành tín, tin tưởng. Đây là một khái niệm rất sâu sắc trong tư tưởng Trung Hoa: sự đồng lòng, đồng tâm, hòa thuận, thông cảm với mọi sự việc, mọi người ở một thời điểm . tượng quẻ này có 2 hào dương ở trên và 2 ở dưới, 2 hào âm ở giữa như tượng trưng cho ” hư tâm ” (lòng rỗng) tạo ra một sự trao đổi không định kiến, không ngăn cách giữa trong và ngoài, giữa Trời cao và Đất thấp.
Lời quẻ: Trung phu. Đồn ngư, cát. Lợi thiệp đại xuyên .Lợi trinh.
dịch: Lòng chí thành. heo (và) cá, mở. Nên qua sông lớn.nên chính bền.
Xem lợi thiệp đại xuyên ở phần dẫn nhập/ thuật ngữ. Heo, cá tối nghĩa nên được chú thích nhiều cách khác nhau.Javary giảng cúng heo là giỗ tổ tiên, món cá là dùng cho lễ cưới chúc mong có nhiều con cái ; vậy heo cá tượng trưng cho sợi dây không dứt giữa các thế hệ con người.
Hào 1: Ngu cát.Hữu tha, bất yên .
dịch: Lo lường, mở. Có chuyện khác, chẳng yên.
Hào sơ mới gặp chẳng thể có lòng tin ngay được, cần phải qua lại thử nghiệm. Có chuyện khó khăn, phân vân (hào 1 ứng với hào 4 ở đó nói về một cặp bạn có tranh cãi, lận đận).
Hào 2: Minh hạc tại âm, kỳ tử họa chi .Ngã hữu hảo tước, ngô dữ nhĩ my chi.
dịch: Chim hạc hót trong bóng râm, con nó / chàng hoàng tử họa lại.Ta có bình rượu ngon, hai ta cùng cạn chén.
Tử có cả hai nghĩa; tình mẹ con hay tình yêu nam nữ đều dễ đưa đến lòng tin yêu chí thành..
Hào 3: Đắc địch.Hoặc cổ hoặc bãi. Hoặc khấp hoặc ca.
dịch: Gặp kẻ ngang tay.Khi thì đánh nhau khi thì ngừng lại.Lúc thì chảy nước mắt lúc lại (hoan hỉ) hát vang.
Đối tác và là đối thủ .Gặp gỡ kẻ này thật không biết sao mà lần.
Hào 4: Nguyệt cơ vọng.Mã xất vong.Vô cữu.
dịch: Trăng sắp rằm. Cặp ngựa chia rẽ.Không lỗi.
Trăng sắp rằm thì sáng ngang với Mặt Trời, sự kết hợp có thể rất hay nhưng nếu không chịu nhịn được nhau thì sẽ có gây gổ, tranh giành lòng tin biến thành tổn hại.Không lỗi ở đây là nên có quyết định, thương thuyết minh bạch.
Hào 5: Hữu phu loan như .Vô cữu.
dịch: Lòng tin ràng buộc.Không lỗi.
Hào này dương tính vị trung như hào 2 nên tin hiểu nhau.
Hào 6: Hàn âm đăng vu thiên .Trinh hung.
dịch: Tiếng kêu bay lên tận trời cao.Điềm đóng.
Hào 6 ứng với hào 3, nếu tiếp tục tranh cao, kiêu ngạo đến cùng thì hỏng cả: cuối thời Trung Phu sự thành tín tổn thiệt mất rồi.
Ý kiến thêm của bạn pth77:
Quẻ có lẽ thể hiện một tính “cặp đôi” trong các hào: hào 1&2; 3&4; 5&6 là các cặp đôi. (trong đó 1&2 là thời nồng ấm; 3&4 là thời kì có chút khó khăn; 5&6 là thời kì có sự đối lập)
– Quẻ bàn về một việc sâu sắc, không dễ dàng để thực hiện trong thực tế, chỉ mong làm được là có thể thoả nguyện, do vậy mà chỉ phê không lỗi.
– Lời quẻ: Trung phu. Đồn ngư, cát. Lợi thiệp đại xuyên .Lợi trinh.
dịch: Lòng chí thành. heo (và) cá, mở. Nên qua sông lớn.nên chính bền.
+ heo (và) cá : có thể đơn giản là muốn nhấn mạnh về một “cặp đôi” có sự khác biệt sâu sắc, một là động vật trên cạn, một là động vật dưới nước
+ lời quẻ hàm ý rằng: mặc dù là “cặp đôi” khác biệt sâu sắc, nhưng do/ bằng lòng chí thành nên gắn kết được với nhau mà có được sự đồng lòng, đồng tâm, hòa thuận, thông cảm với mọi sự việc, mọi người ở một thời điểm. Do vậy mà phê mở, và Nên qua sông lớn
– Hào 1: thời sơ, mới đến với nhau nên có chút lo lường, chưa tạo được lòng tin, nên cũng dễ có chuyện trục trặc – Có chuyện khác – mà chẳng yên (có thể cả về thực tế lẫn trong nội tâm)
– Hào 2: lòng tin được gây dựng, (đến mức) tạo lập được “cặp đôi” tri âm, tri kỉ (rượu ngon phải có bạn hiền; Bá Nha phải có Tử Kỳ mới hay)
– Hào 3: thời kì có khó khăn, đối phương ngang sức, việc gây dựng lòng tin có nhiều biến động – Khi thì đánh nhau khi thì ngừng lại, lúc vui, lúc buồn – Lúc thì chảy nước mắt lúc lại (hoan hỉ) hát vang.
– Hào 4: đến thời điểm – Trăng sắp rằm, “cặp đôi” phải chia tách để đi hai con đường, không đồng hành cùng nhau nữa – Cặp ngựa chia rẽ. Sự chia rẽ có thể do điều kiện thực tế bắt buộc, có thể do không tạo lập được lòng tin đủ sâu sắc để đồng hành với nhau, hoặc cũng có thể do sự tự nguyện.
– Hào 5: lòng tin được tạo dựng đã trải qua thử thách nên có thể bền vững, chắc chắn – Lòng tin ràng buộc, đã làm được trên thực tế nên phê không lỗi. (nhờ đó mà có thể giao thiệp qua lại thuận lợi, theo một số nguyên tắc như đồng thuận, có đi có lại…)
– Hào 6: thời mạt, (có thể) lòng tin gây dựng đã suy giảm/ hoặc không còn, tạo ra một tâm trạng tiếc nuối, xót xa (của một sự chia tách), khiến một bên phải đau lòng, (chỉ) có thể “than thở” với trời xanh – Tiếng kêu bay lên tận trời cao – tìm một sự “chia sẻ, thấu hiểu” cho nỗi mất mát đó (lòng tin sâu sắc đến mức không thể chia sẻ với ai khác, chỉ kêu trời)
62/ QUẺ TIỂU QUÁ
Tiểu quá thường được hiểu là hơi vượt qua mức thường, nhưng đúng hơn có lẽ nên hiểu là cái Nhỏ đi quá. Tiểu là âm thì thường là cần mẫn, rộng rãi, kiên nhẫn nhưng khi đi quá thì trở thành khinh xuất, phù bạc (như tượng con chim bay bổng ở hai hào sơ và thượng nhắc ta đến quẻ Ly/La 30). Cho nên ở thời này nên giảm bớt kiêu căng, mơ mộng mà chú tâm vào những việc hằng ngày, nhỏ nhặt, lập đi lập lại, thực tế.
pth77:
– Quẻ có lẽ bàn về cách thức ứng xử (với đối tác bên ngoài) khi ở một vị – thế nhỏ (so với đối tác), cần cẩn trọng và phù hợp thực tế (một cách “liệu cơm gắp mắm” vậy).
– Quẻ có lẽ cũng thể hiện một tính “cặp đôi” tương đối, trong đó: hào 1&2 là cách thức tiếp cận đối tác; hào 3&4 là cách thức ứng xử/ hành động trên thực tế với đối tác; hào 5&6 là ứng xử với trạng thái có tính đối lập về kết quả.
– Nếu quẻ Trung Phu là sự mở rộng một cách tối đa (không gian tinh thần) của “hư tâm”, tương ứng với một vị – thế có phần lớn hơn đối tác, thì quẻ Tiểu Quá lại là sự “co hẹp” có phần thận trọng của “thực tâm”, tương ứng với một vị – thế có phần nhỏ hơn đối tác.
Lời quẻ: Tiểu quá .hanh.Lợi trinh. Khả tiểu sự, bất khả đại sự.Phi điểu di chi âm.Bất nghi thượng, nghi hạ.Đại cát.
dịch: Nhỏ nhặt (phải) quá một chút.Thông.Nên chính bền.Việc nhỏ làm được, việc lớn thi không.Chim bay để lại tiếng kêu.Chẳng nên lên cao, nên xuống thấp.Mở lớn.
Thời Tiểu quá thì sách lược phải tập trung vào việcnhỏ bé, tỉ mỉ, thực tế đừng mưu cầu cao to thì cuối cùng sẽ thành công rực rỡ.Quẻ này thiếu chữ nguyên trong bộ nguyên hanh lợi trinh nên không mở to việc ra ngay được nhưng vẫn có cơ hanh thông nếu biết chính bền.
Hào 1: Phi điểu dĩ hung.
dịch: Chim bay (bổng) thì đóng.
Nhỏ mà kiêu thế ngạo vật được sao ?
Hào 2: Quá kỳ tổ, ngộ kỳ tỷ.Bất cập kỳ quần, ngộ kỳ thần.Vô cữu.
dịch: Bỏ qua ông tổ, gặp bà tổ.Chẳng diện kiến vua, gặp bầy tôi.Không lỗi.
Hào này vị trung đắc chính, hiểu thời, không gặp được chính vị thì đi tìm phó vị.Ngộ là gặp gỡ không hẹn trước, bất ngờ.
Hào 3: Phất quá phòng chi .Tòng hoặc tường chi.Hung.
dịch: Chẳng quá, đề phòng. Đi theo (việc/ người) có thể bị thương tích.Đóng.
Hào dương thời này càng dễ bị hại, lại ứng với hào 6 nên chẳng thể không quá đề phòng nhưng cũng không thể vượt quá ngay được thời hiểm nguy.Chớ quá tin tưởng mà đi theo.
– Hào 3: vị – thế nhỏ, không nên đi quá, nên cẩn trọng đề phòng, nên có sự quan sát, đánh giá (sơ bộ) thông tin về đối tác. Nếu vội theo thì có thể bị rủi ro, bị tổn thất thực lực. Đóng là nên dừng, chưa làm/ chưa quyết định (gặp gỡ) vội.
Hào 4: Vô cữu.Phất quá ngộ chi.Vãng lệ, tất giới.Vật dụng. Vĩnh trinh.
dịch: Không lỗi.Không quá/không làm sai khi gặp gỡ.Tiến lên nguy hiểm nên phải dè chừng .Chẳng làm. Chính bền lâu dài.
Càng cục cựa càng nguy (hào dương nên ứng với hào 1).Thế thời phải kiên nhẫn lâu lắm.
Hào 4: hào 3 đã làm đúng nên phê không lỗi chăng? Thời này đã có thể tiến hành gặp gỡ, và nên giữ đúng bổn phận tương ứng với vị – thế nhỏ của mình. Không nên tiến vượt quá thực lực vì có thể gặp nguy hiểm, cứ duy trì đúng bổn phận thì sẽ Chính bền lâu dài.
Hào 5: Mật vân bất vũ, tự ngã tây giao. Công dặc thủ bỉ tại huyệt.
dịch: Mây dầy đặc mà chẳng mưa ở cõi tây của ta. (Chu) công bắn mũi tên có buộc dây rồi kéo nó từ trong động ra.
Vế đầu nhắc đến quẻ 9 Tiểu súc nhắc chuyện Tây bá bị cầm ở ngục Dữu.Vế sau kể chuyện Chu công săn bắt, khó khăn mới thu được mồi.
Ở đây không khác gì hào 4 nhưng tượng là Tây bá và Chu công, hai nhân vật khiêm, nhẫn bậc nhất cho thấy hào 5 ý thức được thời thế hơn và có triển vọng thành công hơn(được thả, bắt được mồi) hào 4 (chỉ cố tránh nạn).
– Hào 5: nhận thấy có dấu hiệu để có thể giải toả áp lực trong ứng xử với đối tác, có cơ hội để tiến thêm (cái Nhỏ đi quá lên một chút) trong ứng xử với đối tác. Tuy nhiên, cần có động thái thăm dò nhằm tránh rủi ro, cũng như vẫn có thể bảo toàn được vị – thế nhỏ của mình – (Chu) công bắn mũi tên có buộc dây rồi kéo nó từ trong động ra. (Chu công bắn mũi tên vào trong hang động để thăm dò chiều sâu nhờ đo chiều dài dây buộc, đồng thời vẫn thu hồi được mũi tên/ hoặc là để xác định phương hướng)
Hào 6: Phất ngộ quá chi.Phi điểu ly/la chi, hung.Thị vị tai sảnh.
dịch: Chẳng gặp được, lại làm quá.Chim bay sa lưới, xấu.Như vậy thì tai vạ.
Không ở đúng chỗ, không hợp được với thời cho nên tai họa vì sai lầm.Lỗi ở mình (vạ).
63/ QUẺ KÝ TẾ
Ký tế là đã xong, đã thành, đã qua sông (Tế vốn là tên con sông lớn ở Sơn Đông). Quẻ này nói về một chu trình đến lúc chấm dứt, mọi việc đã ổn định, sự thịnh vượng đã đến cực cùng. Nhưng với Chu Dịch thì điều đó cũng đồng nghĩa với sự mở đầu của một chu kỳ mới, cho nên quẻ cặp của Ký tế sẽ là Vị tế: chưa qua, chưa thành. Hai quẻ này có đặc điểm độc đáo là vừa đảo ngược nhau lại vừa đối ứng (hào âm quẻ này thành hào dương quẻ kia và ngược lại), lại còn hỗ quẻ của Vị tế chính là Ký tế và ngược lại.Tất cả các hào ở Ký tế đều đáng vị còn Vị tế thì không đúng vị vì vậy các hào đều có ứng và đều cận hợp.
Lời quẻ: Ký tế .Hanh tiểu.Lợi trinh.Sơ cát, chung loạn.
dịch: Đã qua.Ưu đãi cái nhỏ. Nên chính bền .Lúc đầu tốt sau chót loạn.
Ở thời chuyển tiếp như vậy, ở Ký tế là giữ sao cho bền lâu mà không tan rã, thì chỉ có thể dùng Tiểu (Âm) làm sách lược.
Hào 1: Duệ kỳ luân. Nhu kỳ vĩ.Vô cữu.
dịch: Bánh xe phanh lại .Ướt đuôi. Không lỗi.
Hình ảnh được dùng ở cặp quẻ này là con cáo (đặc tính cẩn thận, đa nghi như trong từ hồ nghi) .Ở hào sơ này sự chậm tiến không là điều sai, con cáo chỉ bị ướt đuôi như hình thức cảnh cáo không nên tiến tới nữa.
Hào 2: Phụ táng kỳ phất.Vật trục, thất nhật đắc.
dịch: Vợ mất cái màn xe.Chớ đuổi tìm, bảy ngày sẽ tìm lại được.
Người đàn bà mất cái màn xe nên không đi ngay được .Có sự mất mát, nhưng đừng quá lo, từ từ đâu lại vào đấy.
Hào 3: Cao tông phạt Quỷ phương. Tam niên khắc chi .Tiểu nhân vật dụng.
dịch: Cao tông đánh Quỷ phương.Ba năm mới thắng được. Kẻ nhỏ bé chớ dùng.
Sự việc càng ngày càng khó khăn, phức tạp.Sức lực mạnh, địa vị cao còn cố gắng tranh giành được, người thường thì không nên bắt chước làm liều mua thù chuốc oán. Trong các lời Dịch ta thường thấy nói trong 1 câu nhiều thí dụ khác nhau để làm rõ ý nghĩa. Cho nên hiểu vế sau theo một mạch duy nhất với hai vế đầu là sai lầm vì hiểu vế sau là không dùng tiện dân ý tưởng thật lạc lõng.
Cao tông là vua Võ Đinh nhà Ân.
Hào 4: Nhu hữu y như.Chung nhật giới .
dịch: Áo lụa rồi cũng thành giẻ rách.Suốt ngày phòng bị.
Thời này cái hỏng đã lớn nhưng còn phần nào kiềm chế được. Cẩn thận hết mực.
Hào 5: Đông lân sát ngưu bất như tây lân chi thược tế, thực thụ kỳ phúc.
dịch: Láng giềng bên Đông giết trâu bò (làm lễ lớn) chẳng bằng láng giềng bên Tây chỉ cúng lễ Thược sơ sài, nhưng mới thực hưởng phúc.
Đông lân ám chỉ nhà Ân, tây lân nhà Chu .Bên ngoài hoành tráng không che được quyền lực thực tế đang đảo ngôi.
Hào 6: Nhu kỳ thủ.Lệ.
dịch: Ướt cả đầu .Nguy.
Con cáo qua sông ướt cả đầu .Thời đã cực suy không còn cứu vãn được (chỉ có thể buông rồi bỏ).
Nên xem thêm quẻ cặp Vị tế.
64/ QUẺ VỊ TẾ
Vị tế là chưa qua, chưa xong.Xin xem thêm quẻ cặp 63 Ký tế.
Lời quẻ: Vị tế.Hanh tiểu.Hồ ngật tế, nhu kỳ vĩ.Vô du lợi.
dịch: Chưa qua. Ưu đãi cái nhỏ.Chồn qua sông, gần đến, để ướt cái đuôi.Không lợi đâu.
Việc chưa thành, chu trình bắt đầu thì chiến lược tế nhị, tinh tế, từng bước cũng là tốt nhất.Theo Javary ngật là gần xong.Lời quẻ này cũng y như lời quẻ của quẻ cặp 63: ý nên chính bền luôn luôn.Không nên vì đã đến gần bờ mà lại bất cẩn ướt đuôi làm hỏng cả việc lớn.Cách ngắt khác truyền thống của Javary cho ta thấy rõ sách lược của nhà Chu: tiểu. Vả lại tiểu hồ hay hồ thì không cho thấy ý nghĩa khác biệt nào, cho nên tiểu phải đứng riêng để nói ra một ý nghĩa riêng.
Hào 1: Nhu kỳ vĩ.Lận.
dịch: Ướt cái đuôi.Lận đận
Ở đầu chu trình mới không nên để quá khứ làm nặng tư tưởng (?).
Hào 2: Duệ kỳ luân.Trinh cát.
dịch: Thắng bánh xe (cho nó chạy chậm lại).Đoán mở.
Từng bước mà tiến thì tốt.
Lời của hào 1 và 2 dùng lại các hình ảnh của hào 1 quẻ 63 cho thấy ý nghĩa tương đồng của bất cứ thời điểm nào trong chu trình và Ký tế & Vị tế chỉ là một.
Hào 3: Vị tế.Chinh hung.Lợi thiệp đại xuyên.
dịch: Chưa qua sông.Đánh dẹp đóng.Nên qua sông lớn.
Thời chưa đến, phải biết phân biệt rõ giữa nóng nảy, liều lĩnh và tập trung, chú tâm để vượt qua khó, vượt qua chính mình (xem thêm phần dẫn nhập/ thuật ngữ về lợi thiệp đại xuyên).
Hào 4: Trinh cát, hối vong.Chấn dụng phạt Quỉ phương tam niên .Hữu thưởng vu đại quốc.
dịch: Điềm tốt, hết hối.Chấn chinh phạt Quỉ phương ba năm mới xong. Được Nước Lớn ban thưởng.
Một số học giả cho Chấn là tên vị tướng nhà Chu chỉ huy đạo quân đi giúp Cao tông nhà Ân (xem quẻ cặp Ký tế hào dương 3 đối diện).Công lao này được Ân ghi nhận và giúp ích nhiều cho địa vị nhà Chu sau này.
Hào này nói đến cơ may xuất hiện trong chu trình thì phải biết nắm lấy.
Hào 5: Trinh cát.Vô hối.Quân tử chi quang, hữu phu.Cát.
dịch: Điềm tốt.Không hối gì.Cái sáng rực của Người quân tử,(là) được tin tưởng.Mở.
Đây là lúc xán lạn, người quân tử không phải lo lắng gì, tỏa sáng và được lòng tin của đại chúng, chư hầu.
Hào 6: Hữu phu vu ẩm tửu, vô cữu.Nhu kỳ thủ, hữu phu thất thị.
dịch: Lòng (tự) tin có (nhiều) nên uống rượu, không (sợ) lỗi lầm.Ướt cả đầu, đánh mất lòng tin.
Hào chót cảnh cáo tình trạng tự kiêu, say sưa.Đắm mình trong xa hoa sai lạc như hào chót quẻ cặp 63 (cũng có câu: nhu kỳ thủ) thì đánh mất cơ nghiệp mấy hồi.