Cách học tử vi đẩu số
Tử Vi Đẩu Số có rất nhiều sao, muốn học, bạn cần phải thuộc lòng ý nghĩa và tính tình của các sao. Trước tiên, phải biết rõ cách phân cấp và phân loại các sao. Mười bốn chính tinh giống như chủ soái, sao phụ tá giống như tướng lĩnh, phó tinh giống như quan quân cấp dưới, tạp diệu giống như binh sĩ. Lúc phân tích, phải lấy tổ hợp chính tinh làm cơ sở, có tác dụng nêu ra bản chất của vấn đề; các sao phụ tá chỉ có tác dụng phụ trợ và gây ảnh hưởng lên chính tinh, xem chúng có tác dụng làm mạnh thêm hay là làm yếu đi, hoặc có tác dụng chuyển hóa (chủ yếu là tác dụng của tứ hóa, tức từ ác chuyển thành thiện, hoặc từ thiện chuyển thành ác). Xem phó tinh và tạp diệu cũng vậy, nhưng có tác dụng ảnh hưởng yếu hơn.
Về đại thể, chính tinh dùng để xem chủ thể hay khung giá của sự tình; phó tình và phụ tinh dùng để xem chi tiết của sự tình, lúc cát hung đã hiện ra mới xem các sao phụ tá và tạp diệu để định hướng chi tiết cho bản chất vấn đề mà chính tinh đã chỉ ra.
Tóm lại, lúc phân tích mệnh bàn nguyên cục (tức thiên bàn), phải phân biệt rõ chính tinh và phụ tình, trọng điểm xem là 32 sao cấp 1. Có thể căn cứ phó tinh và phụ tinh để biết rõ trình độ của mệnh chủ. Gặp người có trình độ cao, bạn có thể xem toàn bộ mệnh bàn; gặp người có trình độ kém, có thể xem ít, hoặc thậm chí không xem.
Lúc phân tích hành vận, cần phải tham khảo phó tinh, phụ tinh và các tạp diệu. Các sao trong Tử Vi Đẩu Số chia ra hai nhóm Nam Bắc Đẩu. Về tác dụng, các sao Bắc Đẩu thường có tác dụng khá sớm, ứng nghiệm nhanh; các sao Nam Đẩu thường có dụng khá muộn, ứng nghiệm chậm. Trong đại vận, các sao Bắc Đẩu thường ứng vào 5 năm đầu, các sao Nam Đẩu thường ứng vào 5 năm cuối. Trong tiểu hạn hoặc lưu niên, các sao Bắc Đẩu thường ứng vào nửa năm đầu, các sao Nam Đẩu thường ứng vào nửa năm cuối; lưu nguyệt, lưu nhật, và lưu thời cũng cùng một lý.
Cát tinh đồng cung là tốt nhất, đối cung là tốt kế đó, rồi đến cung tam hợp, giáp cung là cuối cùng. Hung tinh đồng cung là xấu nhất, đối cung là xấu kế đó, rồi đến cung tam hợp, giáp cung là cuối cùng. Các ảnh hưởng kể trên, về sau trong sách này sẽ gọi tắt là: “tọa, chiếu, hội, giáp”.
Mỗi một sao đều có tính tình cơ bản và tính tình đặc thù của nó. Tính tình cơ bản rơi vào cung nào cũng vậy, không thay đổi; nhưng tính tình đặc thù rơi vào cung khác nhau, ý nghĩa sẽ khác nhau.
Điều quan trọng nhất lúc luận mệnh số, trước tiên phải xem tính tình của tổ hợp sao ở cung Mệnh và tam phương tứ chính tốt xấu thế nào, có định được cách cục sao hay không. Rồi so sánh các sao ở cung Thân và cung Mệnh xem tốt xấu thế nào, để định mức độ phú quý và khuynh hướng hậu thiên của mệnh chủ. Kế đó là xem tình hạng Vượng suy của cung Mệnh và cung Thân; hai cung Mệnh Thân tốt nhất là nên ở cung Trường Sinh, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng; kị ở cung Tử, Tuyệt, Suy, Bệnh, Mộ, Mộc Dục; để định ra mệnh số tiên thiên có cách cục cao hay thấp.
Trong lúc phân tích luận đoán Đẩu Số, tình hình miếu Vượng thất hãm của chính tinh rất quan trọng. Thông thường, hễ là sao miếu Vượng đều phát huy đầy đủ tác dụng ở mặt tốt, cát tinh thì càng thêm cát, hung tinh thì không hung; còn hễ là sao thất hãm đều sẽ thì hiển hiện đủ tác dụng không lành của chúng, cát tinh thì không cát tường, hung tinh thì càng hung. Sao thiện thất hãm biến thành ác, ác tính miếu Vượng cũng có thể thành thiện.
Tóm lại, sao cát nhiều, gặp hung tinh vẫn cát; sao ác nhiều gặp cát tinh vẫn hung. Những sao có thể chế ngự sát tinh gồm có: Tử Vi, Thiên Phủ, Thái Dương, Hóa Khoa, Hóa Quyền, nhưng thông thường thì chính tinh phải miếu Vượng mới chế ngự được sát tinh.
Bản phái có bí truyền mấy câu khẩu quyết tổng kết như sau: bản cung hung là nội loạn từ gốc; đối cung hung là đương đầu với bọn ác; tam phương hung là trước sau đều thọ địch; cung kế cận hung là bị xóm giềng hiếp đáp; bản cung và tam phương đều hung là khốn đốn tứ bề.
(Tử vi đẩu số tinh hoa tập thành – Đại Đức Sơn Nhân)