1. 妻前夫後一同行, 好比先機兆已明, 君若有情須切記, 十年恩義莫忘心.

Thê tiền phu hậu nhất đồng hành, hảo tỉ tiên cơ triệu dĩ minh, quân nhược hữu tình tu thiết ký, thập niên ân nghĩa mạc vong tâm.

Vợ trước chồng sau cùng lên đường, chiếm được tiên cơ điềm đã sáng, nếu anh có tình nên gắng nhớ, mười năm ân nghĩa chớ tâm quên.

 

  1. 鼠伏穴, 本自寧, 一露首, 貓即跟, 揚威伸爪, 鼠喪殘生.

Thử phục huyệt, bản tự ninh, nhất lộ thủ, miêu tức cân, dương uy thân trảo, thử táng tàn sinh.

Chuột nằm dưới hang, vốn tự an ổn, nếu ra khỏi hang, sẽ bị mèo bắt, ra oai giơ móng, chuột chết hết đời.

 

  1. 書中有女顏如玉, 書中自有黃金屋, 讀盡五車書, 志願自能足, 何必焦勞心中忙碌.

Thư trung hữu nữ nhan như ngọc, thư trung tự hữu huỳnh kim ốc, độc tận ngũ xa thư, chí nguyện tự năng túc, hà tất tiêu lao tâm trung mang lục.

Trong sách có gái đẹp như ngọc, trong sách vốn có nhà cửa vàng, học hết năm xe sách, điều mong mỏi sẽ đạt được, chẳng cần phải lo lo lắng lắng quanh năm mà không chịu học.

 

  1. 豹變成文采, 乘龍福自臻, 赤身成富貴, 事事得振新.

Báo biến thành văn thái, thừa long phúc tự trăn, xích thân thành phú quí, sự sự đắc chấn tân.

Con beo trở thành vằn vện, cỡi rồng thì phúc tự đến, thân đỏ thành phú quí, mọi việc được sửa mới.

 

  1. 孤陽微兮, 群陰溢兮, 力既殫兮, 將不可耄兮, 真謹慎兮, 宜可保兮.

Cô dương vi hề, quần âm dật hề, lực kí đàn hề, tương bất khả mạo hề, chân cẩn thận hề, nghi khả bảo hề.

Phần dương thì ít ỏi, phần âm thì nhiều, sức đã hết rồi, phải cẩn thận cho lắm, mới có thể giữ được cơ nghiệp.

 

  1. 曉雨初晴映碧溪, 重重春色上柴扉, 黃金不盡家殷富, 何必區區羨錦衣?

Hiểu vũ sơ tình ánh bích khê, trùng trùng xuân sắc thượng sài phi, huỳnh kim bất tận gia ân phú, hà tất khu khu tiện cẩm y?

Mưa sớm vừa tạnh chiếu khe biếc, sắc Xuân tràn ngập vẻ xinh tươi, được hưởng vàng ròng luôn bất tận, sao còn tham vọng đòi áo gấm (quan chức) ?

 

  1. 世道多荊棘, 人情每用嗟, 利名如有路, 勤苦逐生涯.

Thế đạo đa kinh cức, nhân tình mỗi dụng ta, lợi danh như hữu lộ, cần khổ trục sinh nhai.

Đường đời nhiều chông gai, tình người hay thay đổi, đang có hoàn cảnh hưởng lợi danh, cứ siêng năng làm việc.

 

  1. 山窮路轉迷, 水急舟難渡, 萬事莫強為, 出處遭研妒.

Sơn cùng lộ chuyển mê, thuỷ cấp châu nan độ, vạn sự mạc cưỡng vi, xuất xử tao nghiên đố.

Nơi cùng tận rừng núi, đường sá mờ mịt, nước chảy xiết thuyền khó đi, muôn việc đừng gượng làm, việc nào lại chẳng có người ganh ghét.

 

  1. 時邊多艱, 戰戰兢兢, 戒謹恐懼, 如履薄冰, 須識前程危與險, 一籠風裏一枝燈.

Thời biên đa gian, chiến chiến căng căng, giới cẩn khủng cụ, như lí bạc băng, tu thức tiền trình nguy dữ hiểm, nhất lung phong lí nhất chi đăng.

Nhiều lúc gian nan, chiến đấu không ngừng, phải hết sức cẩn thận, như giẫm trên băng mỏng, cần biết con đường trước mặt nhiều nguy hiểm, một lần gió thổi qua đèn bị tắt phải đốt lại.

 

  1. 一朵花枝豔更芳, 清香馥鬱透蘭房, 時風吹送終成笑, 好句筵前進幾觴.

Nhất đoá hoa chi diễm cánh phương, thanh hương phức uất thấu lan phòng, thời phong xuy tống chung thành tiếu, hảo cú diên tiền tiến kỷ thương.

Một đóa hoa xinh đẹp lại thơm, mùi hương lan tỏa khắp phòng loan, gió may thổi đến, mang cười đến, trong tiệc dâng lên chén rượu ngon.

 

  1. 自從持守定, 功在眾人先, 別有非常喜, 隨龍到九天.

Tự tùng trì thủ định, công tại chúng nhân tiên, biệt hữu phi thường hỉ, tuỳ long đáo cửu thiên.

Từ lúc nắm giữ chắc, công đứng ở hàng đầu, có được vui hết mực, cỡi rồng lên cửu thiên.

 

  1. 遠涉波濤一葉舟, 而今始得過灘頭, 年來心事才成就, 屈指從前多可憂.

Viễn thiệp ba đào nhất diệp châu, nhi kim thuỷ đắc quá than đầu, niên lai tâm sự tài thành tựu, khuất chỉ tùng tiền đa khả ưu.

Thuyền con đã từng vượt biết bao sóng gió, nay được cặp bến an toàn, sang năm ước nguyện được thành tựu, bỏ hết những ngày trước khổ lo.

 

  1. 受君之祿, 久降禎祥, 盈而不覆, 守之乃昌, 毋怠毋驕, 永保安康.

Thụ quân chi lộc, cửu giáng trinh tường, doanh nhi bất phúc, thủ chi nãi xương, vô đãi vô kiêu, vĩnh bảo an khang.

Được hưởng lộc của vua, ban cho mình lâu ngày, đủ đầy không che lấp, chớ lười đừng kiêu ngạo, giữ mãi mãi yên lành.

 

  1. 萬事不由人計較, 一生儘是命安排, 莫疑猜, 命裏有時總有分, 何須碌碌混塵埃, 休哉.

Vạn sự bất do nhân kế hiệu, nhất sinh tận thị mệnh an bài, mạc nghi sai, mệnh lí hữu thời tổng hữu phận, hà tu lục lục hỗn trần ai, hưu tai.

Muôn việc do người ham tính toán, một đời số mệnh đã an bài, quả chẳng sai, tất cả vận thời của mệnh người, sao còn bươn chải chạy lăng xăng, dừng ngay.

 

  1. 一片憂心未肯休, 花逢春雨豔難留, 得意歸休, 失意歸休, 仙家只此一籌謀.

Nhất phiến ưu tâm vị khẳng hưu, hoa phùng xuân vũ diễm nan lưu, đắc ý qui hưu, thất ý qui hưu, tiên gia chỉ thử nhất trù mưu.

Một mảnh tâm lo thôi bỏ đi, hoa gặp mưa Xuân hết đẹp gì, đắc ý cũng lui mà thất ý cũng lui, tiên gia chỉ như vậy mà trù tính công việc.

 

  1. 兩女一夫, 上下相祛, 陰氣乘陽, 用是耗虛.

Lưỡng nữ nhất phu, thượng hạ tương khư, âm khí thừa dương, dụng thị hao hư.

Hai gái lấy một chồng, dưới trên đều đuổi đi, khí âm lấn khí dương, dùng nó bị hư hao.

 

  1. 雙燕歸南國, 來尋王謝家, 華堂春盡靜, 進此托生涯.

Song yến qui nam quốc, lai tầm Vương Tạ gia, hoa đường xuân tận tĩnh, tiến thử thác sinh nhai.

Hai con chim én bay về nước Nam, đến tìm nhà họ Vương họ Tạ, nhà đẹp Xuân yên tĩnh, cuộc sống gởi lại đây.

 

  1. 命運蹇兮時違, 災殃及兮身疲, 望皇天兮不我顧, 嗟我親兮病斯危.

Mệnh vận kiển hề thời vi, tai ương cập hề thân bì, vọng Hoàng Thiên hề bất ngã cố, ta ngã thân hề bệnh tư nguy.

Vận xấu đến rồi chịu trái nghịch, tai ương đến phải mệt cho thân, cầu khấn Hoàng Thiên không hộ trợ, thôi đành nguy hiểm đến thân.

 

  1. 采藥天臺路轉迷, 桃花流水賦佳期, 春風啼鳥多情思, 寄語劉郎且莫歸.

Thái dược thiên đài lộ chuyển mê, đào hoa lưu thuỷ phú giai kỳ, xuân phong đề điểu đa tình tứ, kí ngữ lưu lang thả mạc qui.

Hái thuốc trời xa lạc đường, hoa đào nước chảy hưởng sang giàu, gió Xuân chim hót nhiều tình tứ, gởi tiếng chàng Lưu chớ về.

 

  1. 出溫入寒, 被薄衣單, 去我慈航, 難解橫愆.

Xuất ôn nhập hàn, bị bạc y đơn, khứ ngã từ hàng, nan giải hoạnh khiên.

Ra ấm vào lạnh, chăn đơn áo chiếc, hãy cứu giúp tôi, thoát khỏi nạn tai.

 

  1. 三升三石放在一鬥, 滿而溢, 子自得.

Tam thăng tam thạch phóng tại nhất đấu, mãn nhi dật, tử tự đắc.

Ba thăng (thăng: thưng, mười lẻ là một thưng) ba thạch (thạch (tạ), đong thì trăm thưng gọi là một thạch, cân thì một trăm cân là một thạch) chỉ đổ vào cái đấu (cái đấu là cái để đong) nên dư tràn ra ngoài, con tự đắc.

 

  1. 誰說故鄉無滋味, 飄零湖海在天涯, 任咨嗟, 中秋月隱春雨淋花, 多少征人長憶家.

Thuỳ thuyết cố hương vô tư vị, phiêu linh hồ hải tại thiên nhai, nhậm tư ta, trung thu nguyệt ẩn,xuân vũ lâm hoa, đa thiểu chinh nhân trường ức gia.

Ai bảo rằng quê xưa không có mùi vị, tại sao khi phiêu linh hồ biển đến góc trời lại nhớ cố hương quay quắt ?, nhất là những ngày Trung Thu không có trăng, mưa phùn lất phất khóm hoa, biết bao nhiêu chinh nhân tha thiết nhớ nhà.

 

  1. 雲散月當空, 牛前馬後逢, 張弓方抵禦, 一箭定全功.

Vân tán nguyệt đương không, ngưu tiền mã hậu phùng, trương cung phương để ngự, nhất tiễn định toàn công.

Mây tan trăng trên trời, trước trâu sau ngựa gặp, giương cung lên phòng ngự, một mũi tên định thành công danh.

 

  1. 馬進徐行似有程, 月沈西海日東升, 運來何必勞心力, 風送江湖萬里清.

Mã tiến từ hàng tự hữu trình, nguyệt trầm tây hải nhật đông thăng, vận lai hà tất lao tâm lực, phong tống giang hồ vạn lí thanh.

Ngựa theo thứ tự bước lên đường, trăng chìm xuống biển Tây, mặt trời lên hướng Đông, khi vận tốt đến khỏi phải hao phí tâm lực, gió đưa sông hồ ngàn dặm trong.

 

  1. 雲橫山際水茫茫, 千里長途望故鄉, 蹇厄事來君莫恨, 倚門惆悵立斜陽.

Vân hoành sơn tế thuỷ mang mang, thiên lí trường đồ vọng cố hương, kiển ách sự lai quân mạc hận, ỷ môn trù trướng lập tà dương.

Mây ngang đỉnh núi, nước mênh mông, ngàn dặm đường xa nhớ cố hương, khổ khó phủ vây xin chớ hận, buồn rầu tựa cửa ngóng tà dương.

 

  1. 風波今已息, 舟楫遇安流, 自此功名遂, 何須歎白頭.

Phong ba kim dĩ tức, châu tiếp ngộ an lưu, tự thử công danh toại, hà tu thán bạch đầu.

Sóng gió nay đã yên, thuyền tiếp tục lên đường, từ giờ công danh toại, sao còn than bạc đầu.

 

  1. 巴到平安地, 江山萬里程, 綠楊芳草處, 風快馬蹄輕.

Ba đáo bình an địa, giang sơn vạn lí trình, lục dương phương thảo xứ, phong khoái mã đề khinh.

Đã tới nơi yên lành, núi sông ngàn dặm qua, nơi cỏ thơm dương xanh, gió đưa ngựa phi nhanh.

 

  1. 雕鶚當秋勢轉雄, 乘風分翼到蟾宮, 榮華若問將來事, 先後名聲達九重.

Điêu ngạc đương thu thế chuyển hùng, thừa phong phân dực đáo thiềm cung, vinh hoa nhược vấn tương lai sự, tiên hậu danh thanh đạt cửu trùng.

Con chim điêu và con cá sấu vào mùa Thu chuyển sang thế mạnh bạo, nương gió sải cánh đến thiềm cung (mặt trăng), nếu hỏi việc vinh hoa ở tương lai, trước sau danh thơm tiếng tốt cũng đến tai vua.

 

  1. 鼠為患終宵不得甯, 貓兒一叫幾夜太平, 人豈識如獸, 其理甚分明.

Thử vi hoạn chung tiêu bất đắc nịnh, miêu nhi nhất khiếu kỷ dạ thái bình, nhân khởi thức như thú, kỳ lý thậm phân minh.

Ban đêm chuột khó tránh khỏi tai họa, mèo kêu một tiến đêm sẽ bình yên, nên biết việc người cũng tương tự việc của loài thú, lẽ ấy quá rõ ràng.

 

  1. 兩人在旁, 太陽在上, 照汝一寸心, 仙機曾否明.

Lưỡng nhân tại bàng, thái dương tại thượng, chiếu nhữ nhất thốn tâm, tiên cơ tằng phủ minh.

Hai người hai bên, mặt trời ở trên cao, chiếu tấc lòng của anh, cơ trời từng không sáng.

 

  1. 君子道消, 小人道長, 陰氣鬱鬱, 陽氣不揚, 如何如何, 良賈深藏.

Quân tử đạo tiêu, tiểu nhân đạo trưởng, âm khí uất uất, dương khí bất dương, như hà như hà, lương cổ thâm tàng.

Đạo của quân tử thì nhỏ, đạo của tiểu nhân lại lớn, khí âm u ẩn, khí dương chẳng lên, biết làm sao đây?, cách hay nhất là “chôn sâu che giấu” nó đi.

 

  1. 去到長安, 東北轉角, 逢著天門, 便有下落.

Khứ đáo Trường An, đông bắc chuyển giác, phùng trước thiên môn, tiện hữu hạ lạc.

Đi tới Trường An (kinh đô), đổi hướng về phía Đông Bắc, gặp được cửa trời, liền có sự rơi xuống.

 

  1. 徐步入天臺, 為聽好消息, 采藥有仙童, 洞府列春色.

Từ bộ nhập thiên đài, vi thính hảo tiêu tức, thái dược hữu tiên đồng, động phủ liệt xuân sắc.

Thong thả vào thiên đài, nghe được tin tức tốt, hái thuốc có tiên đồng, trong động phủ đầy sắc Xuân.

 

  1. 思量一夜, 不如打幹一番, 若還錯, 煩惱及肺肝.

Tư lương nhất dạ, bất như đả cán nhất phiên, nhược hoàn thác, phiền não cập phế can.

Suy nghĩ một đêm, không bằng bắt tay vào làm một lần, nếu còn sai sót, phiền não với gan phổi (đem hết sức ra suy nghĩ tính toán).

 

  1. 心細膽粗, 可勝上將之任, 勇往前行成敗何必在心, 胸中把持得定, 敵人自能受困.

Tâm tế đảm thô, khả thắng thượng tướng chi nhiệm, dũng vãng tiền hành thành bại hà tất tại tâm, hung trung bả trì đắc định, địch nhân tự năng thụ khốn.

Tâm nhỏ mật to, có thể thắng công việc của thượng tướng, mạnh dạn tiến lên việc thành bại nào chỉ do tâm, trong bụng đã nắm giữ sự định đoạt, kẻ địch sẽ tự thua mà thôi.

 

  1. 天念苦修人, 終不落紅塵, 清心能見道, 擾擾喪真靈.

Thiên niệm khổ tu nhân, chung bất lạc hồng trần, thanh tâm năng kiến đạo, nhiễu nhiễu táng chân linh.

Trời biết người khổ tu, rốt ráo không rơi xuống hồng trần, lòng trong trắng có thể thấy đạo, sự phiền nhiễu làm mất chân linh.

 

  1. 捕兕於淵, 求魚於山, 從朝至暮, 功負力捐, 改弦易轍, 庶可圖全.

Bộ huỷ ư uyên, cầu ngư ư sơn, tùng triêu chí mộ, công phụ lực quyên, cải huyền dị triệt, thứ khả đồ toàn.

Bắt tê giác (cái) dưới hang sâu, bắt cá trên núi, từ sáng đến chiều, sức lực mòn mỏi, sửa đổi cách làm, may ra còn hy vọng.

 

  1. 手持一木魚, 沿街去化緣, 不見徐公來, 卻遇一鳥去.

Thủ trì nhất mộc ngư, diên nhai khứ hoá duyên, bất kiến từ công lai, khước ngộ nhất điểu khứ.

Tay cầm con cá gỗ (cái mõ), trên đường đi hóa duyên (khất thực), chẳng gặp ông họ Từ đến, chỉ gặp con chim bay.

 

  1. 水火既濟, 陰陽相契, 育物新民, 參天贊地.

Thuỷ hoả kí tế, âm dương tương khế, dục vật tân dân, tham thiên tán địa.

Thủy hỏa giao hòa, âm dương khế hợp nhau, muốn đổi mới sự vật, nghiên cứu rõ lẽ trời đất (tự nhiên) mà làm.

 

  1. 騎玉兔, 到廣寒, 遇嫦娥, 將桂攀, 滿身馥鬱, 兩袖馨香.

Kỵ ngọc thố, đáo Quảng Hàn, ngộ Hằng Nga, tương quế phàn, mãn thân phức uất, lưỡng tụ hinh hương.

Cỡi thỏ ngọc, đến cung Quảng Hàn, gặp Hằng Nga, bẻ cành quế, toàn thân sực nức hương thơm, hai tay áo cũng đầy mùi thơm.

 

  1. 一個神道, 隨爾去行, 逢人說法, 到處顯靈.

Nhất cá thần đạo, tuỳ nhĩ khứ hành, phùng nhân thuyết pháp, đáo xứ hiển linh.

Một pháp thần đạo, tùy anh vận dụng, gặp người thuyết pháp, đến chỗ hiển linh.

 

  1. 爐中火, 沙裏金, 功力到, 丹鼎成.

Lô trung hoả, sa lí kim, công lực đáo, đan đỉnh thành.

Lửa trong lò, vàng trong cát, công lực đến, lò thuốc linh đan luyện thành.

 

  1. 此去萬里程, 卻遇見知音, 同心共濟, 大立勳名.

Thử khứ vạn lí trình, khước ngộ kiến tri âm, đồng tâm cộng tế, đại lập huân danh.

Chuyến đi này dài muôn dặm, may gặp được tri âm, cùng nhau hợp tác, làm nên việc lớn.

 

  1. 尋芳春日, 適見花開, 朵朵堪摘, 枝枝可栽.

Tầm phương xuân nhật, thích kiến hoa khai, đoá đoá kham trích, chi chi khả tài.

Tìm mùi thơm ngày Xuân, vừa gặp hoa nở, mỗi đóa có thể hái, mỗi cành có thể trồng.

 

  1. 龍一吟, 雲便興, 沖霄直上, 快睹太平, 為文為武, 君君臣臣.

Long nhất ngâm, vân tiện hứng, xung tiêu trực thướng, khoái đổ thái bình, vi văn vi vũ, quân quân thần thần.

Rồng kêu lên, mây liền nổi, bay thẳng lên trời, nhanh thấy thái bình, làm văn làm vũ, vua vua tôi tôi.

 

  1. 虎出金榜, 有勇亦何濟, 怎似山翁, 非富猶有趣.

Hổ xuất kim bảng, hữu dũng diệc hà tế, chẩm tự sơn ông, phi phú do hữu thú.

Cọp ra khỏi bảng vàng, có sức mạnh cứu giúp mọi việc, nhưng giống như “sơn ông” (ông già ở núi), không làm giàu là do sở thích của ông.

 

  1. 過羊腸, 入康莊, 五陵裘馬, 當思故鄉.

Quá dương trường, nhập khang trang, ngũ lăng cừu mã, đương tư cố hương.

Qua đoạn đường quanh co như ruột dê, đến được trang trại lớn, hưởng mọi thứ tiện nghi, phải nhớ đến quê xưa.

 

  1. 火遭水克, 火滅其光, 水勢滔滔, 源遠流長.

Hoả tao thuỷ khắc, hoả diệt kỳ quang, thuỷ thế thao thao, nguyên viễn lưu trường.

Lửa gặp nước khắc, lửa mất ánh sáng, thế nước ào ào, gốc xa chảy dài.

 

  1. 東閣筵開, 佳客自來, 高歌唱和, 展挹舒懷.

Đông các diên khai, giai khách tự lai, cao ca xướng hoà, triển ấp thư hoài.

Gác Đông mở tiệc, khách quí tự đến, ca hát vui vầy, chơi đùa thoải mái.

 

  1. 世界似清寧, 不知辭已休, 打疊要小心, 須防遭火 .

Thế giới tự thanh ninh, bất tri từ dĩ hưu, đả điệp yếu tiểu tâm, tu phòng tao hoả.

Thế giới tự an ổn, chẳng biết làm hay nghỉ, bày ra việc cần cẩn thận, coi chừng bị lửa táp.

 

  1. 跳龍門, 須激浪, 雷電轟轟, 踴躍萬丈.

Khiêu long môn, tu kích lãng, lôi điện oanh oanh, dũng dược vạn trượng.

Nhảy cửa rồng, chống ngăn sóng, sấm điện ầm ầm, vọt cao muôn trượng.

 

  1. 山上有古松, 亭亭沖漢鬥, 幹老枝更長, 天地生榮久.

Sơn thượng hữu cổ tùng, đình đình xung hán đấu, cán lão chi cánh trường, thiên địa sanh vinh cửu.

Trên núi có cây tùng cổ, vút vút chỏi trời cao, thân già nhánh thật dài, trời đất nuôi dưỡng xanh tốt lâu dài.

 

  1. 誹謗言, 勿計論, 到頭來, 數已定, 碌碌浮生, 不如安分.

Phỉ báng ngôn, vật kế luận, đáo đầu lai, số dĩ định, lục lục phù sinh, bất như an phận.

Lời phỉ báng xin đừng để ý, việc đáo đầu thiên lý an bài, bôn ba lận đận xưa nay, sao bằng an phận qua ngày tháng trôi.

 

  1. 一頭豬, 可祭天地, 雖喪身, 亦算好處.

Nhất đầu trư, khả tế thiên địa, tuy táng thân, diệc toán hảo xứ.

Một cái đầu heo, cũng có thể cúng tế trời đất, tuy heo mất mạng, mà giúp người được điều tốt.

 

  1. 與其日營營, 何如夜忖忖, 日裏多勞形, 夜間卻安穩.

Dữ kỳ nhật doanh doanh, hà như dạ thổn thổn, nhật lí đa lao hình, dạ gian khước an ổn.

Cứ theo ban ngày mà lượn qua lượn lại, sao bằng đêm chỉ nằm một chỗ, trong ngày nhiều nhọc mệt cực khổ, lúc ban đêm an ổn chẳng lo sợ.

 

  1. 東風來, 花自開, 大家喝采, 暢飲三杯.

Đông phong lai, hoa tự khai, đại gia hát thái, sướng ẩm tam bôi.

Gió Đông đến, hoa tự nở, mọi người ngắm vẻ đẹp của nó, thích thú uống ba chén rượu.

 

  1. 疏食飲水, 樂在其中, 膏梁美味, 反使心朦.

Sơ tự ẩm thuỷ, lạc tại kỳ trung, cao lương mỹ vị, phản sử tâm mông.

Ăn cơm hẩm uống nước lạnh, có niềm vui rồi, cao lương mỹ vị, làm tâm hoang mang chờ đợi.

 

  1. 黃牛辟土, 大力開疆, 西成時候, 谷米盈倉.

Huỳnh ngưu bích thổ, đại lực khai cương, tây thành thời hậu, cốc mễ doanh thương.

Trâu vàng đất vua, sức lớn mở bờ cõi, sau ở phía thành, gạo thóc đầy kho.

 

  1. 蛇可化龍, 頭角將出, 平地一聲雷, 方顯龍蛇力.

Xà khả hoá long, đầu giác tương xuất, bình địa nhất thanh lôi, phương hiển long xà lực.

Rắn có thể hóa rồng, đầu sừng sẽ hiện, đất bằng một tiếng sấm, mới biết sức rắn rồng.

 

  1. 九華山頂, 紫氣騰騰, 異盡一舟, 取去前行.

Cửu Hoa sơn đỉnh, tử khí đằng đằng, dị tận nhất châu, thủ khứ tiền hành.

Đỉnh núi Cửu Hoa, sắc tía bốc lên cao, trùm phủ một chiếc thuyền, nhờ đó đi tới trước.

 

  1. 人非孔顏, 鮮能無過, 過而能改仍複無過, 開花不足憑, 結果方為准, 放開懷抱意欣欣.

Nhân phi Khổng Nhan, tiên năng vô quá, quá nhi năng cải nhưng phức vô quá, khai hoa bất túc bằng, kết quả phương vi chuẩn, phóng khai hoài bão ý hân hân.

Ta không phải Khổng Nhan (Khổng Tử, Nhan Hồi), làm sao không có lỗi, có lỗi biết sửa đổi xem như không có lỗi, hoa nở chẳng đủ nương (nương tựa), có kết quả là tốt, công việc hễ làm xong trong tâm luôn vui vẻ.

Trusted by some of the biggest brands

spaces-logo-white
next-logo-white
hemisferio-logo-white
digitalbox-logo-white
cglobal-logo-white
abstract-logo-white
white-logo-glyph

We’re Waiting To Help You

Get in touch with us today and let’s start transforming your business from the ground up.